MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự ổn định chính trị - xã hội là thành quả tổng hợp của sức mạnh kinh tế,
chính trị, tư tưởng, văn hóa và sức mạnh an ninh, quốc phòng. Ổn định về chính
trị - xã hội chỉ thật sự vững chắc khi các lĩnh vực khác cũng đạt được trạng thái
ổn định tương ứng. Sự xáo trộn hay khủng hoảng ở lĩnh vực nào đó cũng sẽ gây
ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định chung và nếu chậm được khắc phục sẽ dẫn
tới mất ổn định chính trị - xã hội, kéo theo những hậu quả khó lường.
Sau sự sụp đổ của chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, cuộc
đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa vẫn diễn ra
gay gắt và quyết liệt. Bên cạnh cuộc chạy đua vũ trang, tấn công bằng quân sự
dưới chiêu bài chống khủng bố và bao vây, cô lập, gây sức ép về kinh tế, các thế
lực thù địch vẫn xác định phá hoại tư tưởng là mũi nhọn trong triển khai chiến
lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ đối với nước ta. Âm mưu của các thế
lực thù địch là xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chúng tìm mọi cách chống phá,
trong đó dùng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, bảo vệ quyền dân
tộc thiểu số để can thiệp vào công việc nội bộ, gây mất ổn định về chính trị - xã
hội, kích động chủ nghĩa ly khai…Với quan niệm: “Chủ nghĩa dân tộc là một
lực lượng hùng hậu nhất cuối thế kỷ XX có thể sử dụng làm sụp đổ hệ thống xã
hội chủ nghĩa”. Các thế lực thù địch đã gia tăng và lợi dụng vấn đề dân tộc,
tuyên truyền chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; gắn vấn đề dân tộc với tôn
giáo để thực hiện mưu đồ kích động ly khai khi đưa ra luận thuyết “Một quốc gia
- một dân tộc”, tìm cách lập các kiểu “vương quốc”, “nhà nước” như: “Vương
quốc Mông” ở Tây Bắc, “Nhà nước Đêga” ở Tây Nguyên, “Nhà nước Khmer
Crôm” ở Tây Nam bộ, “Vương quốc Chăm” ở Nam Trung bộ… nhằm phá vỡ sự
thống nhất quốc gia dân tộc của Việt Nam.
Tây Nguyên là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng cả về chính trị,
kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh của nước ta. Là địa bàn rất nhạy cảm
về kinh tế, văn hoá, dân tộc, tôn giáo cũng như về an ninh, quốc phòng, Tây
Nguyên đang là nơi tập trung nhiều vấn đề bức xúc về kinh tế, chính trị - xã
hội và về công tác tư tưởng. Do vậy từ sau ngày thống nhất đất nước, Đảng và
Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội vùng
Tây Nguyên, đặc biệt chú trọng xây dựng hệ thống chính trị các cấp (nhất là ở
cơ sở) nhằm khai thác tiềm năng kinh tế; bảo đảm an ninh, quốc phòng; tổ
chức cho đồng bào các dân tộc phát triển kinh tế, văn hóa, xóa bỏ nghèo nàn
lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, từng bước đi lên CNXH. Đến
nay, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số tuy có được cải thiện, song
nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo còn cao, đặc biệt là vùng
sâu, vùng xa. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng của đồng bào và
công tác tư tưởng của Đảng.
Trong những năm qua, đội ngũ những người chuyên trách làm công tác
tư tưởng ở Tây Nguyên đã tăng cường về bám trụ ở cơ sở để nắm bắt diễn
biến tư tưởng và tâm trạng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng đã vận động, giáo dục đồng bào giữ gìn
và phát huy truyền thống cách mạng, bản sắc văn hóa dân tộc, sự đoàn kết gắn
bó giữa các dân tộc và tôn giáo, tuyên truyền giải thích cho đồng bào hiểu rõ
các âm mưu, thủ đoạn và các luận điệu lừa bịp của các thế lực thù địch; cảm
hóa, giáo dục và kịp thời tháo gỡ những băn khoăn, bức xúc về tư tưởng để
những người: “lầm đường lạc lối” (vượt biên, gây rối) trở về an tâm làm ăn,
hòa nhập với cộng đồng.v.v. Tuy nhiên, công tác tư tưởng trên địa bàn Tây
Nguyên thời gian qua còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ, thiếu sắc bén và thiếu
kịp thời; tính chiến đấu, tính thuyết phục chưa cao; chưa làm tốt yêu cầu bồi
dưỡng nâng cao tình cảm, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân
tộc thiểu số đối với Đảng và Nhà nước; nội dung tuyên truyền chưa sát với
tâm tư, tình cảm của từng đối tượng, phong tục tập quán của từng dân tộc nên
hiệu quả chưa cao.
Sự kiện bạo loạn chính trị tháng 2/2001, tháng 4/2004 và dịp Noel năm
2004 đã cho thấy âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên
trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” với bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch; đồng thời cũng gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về những yếu kém trong
hệ thống chính trị nói chung và trong công tác tư tưởng nói riêng ở địa bàn
Tây Nguyên. Những yếu kém đó cho thấy, sự ổn định chính trị - xã hội ở địa
bàn Tây Nguyên phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố tư tưởng có tầm
quan trọng đặc biệt.
Thực tế cho thấy, công tác tư tưởng ở Tây Nguyên trong những năm
qua chưa giúp cho một bộ phận đồng bào hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của các
thế lực thù địch, chưa nhận thức rõ những thuận lợi, khó khăn của từng địa
phương, chưa đề kháng được với những luận điệu xuyên tạc từ bên ngoài, góp
phần củng cố HTCT, ổn định tình hình...
Để góp phần thực hiện nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận trong tình
hình mới; nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác tư
tưởng nhằm ổn định chính trị - xã hội, nhất là ở địa bàn trọng điểm như Tây
Nguyên, để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tôi
chọn đề tài: “Công tác tư tưởng với việc ổn định tình hình chính trị - xã hội
ở Tây Nguyên hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian từ năm 1980 đến nay đã có nhiều công trình nghiên
cứu tổng thể về tình hình Tây Nguyên. Tập trung nhất là Chương trình cấp
Nhà nước 48-09 do Ủy ban Khoa học xã hội (nay là Viện Khoa học xã hội
Việt Nam) thực hiện trong những năm 80. Kết quả của chương trình được xuất
bản thành 3 cuốn sách: Một số vấn đề kinh tế - xã hội Tây Nguyên, Nxb
KHXH, Hà Nội, 1986; Tây Nguyên trên đường phát triển, Nxb KHXH, Hà
Nội, 1990; Một số vấn đề kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số ở Dak Lak, Nxb
KHXH, Hà Nội, 1990. Ba cuốn sách nói trên chủ yếu phân tích thực trạng tình
hình kinh tế - xã hội của Tây Nguyên từ sau ngày giải phóng miền Nam đến
những năm 80 – 90, quá trình phát triển kinh tế của đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên, đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế ở Tây Nguyên.
Trong những năm 90 của thế kỷ XX cũng có một số đề tài nghiên cứu
khoa học cấp nhà nước nghiên cứu về Tây Nguyên như: Đề tài khoa học cấp
Nhà nước KX 05-11 về cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong
đổi mới hệ thống chính trị hiện nay ở Dak Lak (1993-1994); Đề tài khoa học
cấp Nhà nước KX 09-11: “Đánh giá thực trạng và dự báo tình hình chính trị
- xã hội. Xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần đảm bảo cho quốc phòng an
ninh”; Đề tài KHXH 05-02: “Đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay”.
Các đề tài nêu trên chủ yếu đề cập đến vấn đề cán bộ, đảm bảo tiềm lực
quốc phòng, an ninh cho địa bàn Tây Nguyên... Các nghiên cứu này khá công
phu, nhưng nhiều vấn đề mới đặt ra hiện nay chưa phản ánh trong các công
trình này. Đặc biệt là công tác tư tưởng từ sau sự kiện tháng 2 năm 2001.
Ngoài ra, cũng có một số luận án phó tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu
những vấn đề kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên: Của các tác giả
như Trung Giang Vim, Phạm Thanh Khiết, Nguyễn Ngọc Hòa; Nguyễn Mậu
Linh; Đoàn Triệu Long..., tuy nhiên các luận án và luận văn nói trên không đặt
ra mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu về công tác tư tưởng ở Tây Nguyên.
Gần đây có một số đề tài khoa học nghiên cứu về xây dựng hệ thống
chính trị và xử lý điểm nóng ở Tây Nguyên: Khoa Chính trị học, Phân viện
Đà Nẵng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Điểm nóng chính trị xã hội và một số kinh nghiệm rút ra từ việc xử lý điểm nóng chính trị - xã hội
ở các tỉnh Tây Nguyên; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, năm 2003.
PGS.TS. Phạm Hảo - TS Trương Minh Dục (đồng chủ biên), Một số vấn đề
xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
năm 2003; PGS.TSKH. Phan Xuân Sơn – ThS. Lưu Văn Quảng (đồng chủ
biên), Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay, Nxb
Lý luận Chính trị, Hà Nội, năm 2006. Các đề tài này đã cập nhật được những
diễn biến mới trong đời sống chính trị khu vực, tuy các công trình này có đề
cập đến vấn đề tư tưởng ở Tây Nguyên, nhưng không nghiên cứu vấn đề này
một cách hệ thống và có tính chuyên biệt.
Mới đây, có Đề án cấp Chính phủ: "Chính sách của Nhà nước Việt
Nam đối với Phật giáo Nam tông và đạo Tin lành vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, nhằm phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Đảng và Chính phủ"
do PGS.TS Tô Huy Rứa làm chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2006 đã cung cấp
nhiều tư liệu cho luận văn, nhất là về tình hình tôn giáo nói chung và Tin lành
nói riêng ở vùng đồng bào DTTS.
Ngoài ra, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung
ương có nhiều báo cáo, nghiên cứu chuyên đề về vấn đề này, nhưng đó là
những báo cáo công tác. Những báo cáo này cũng cung cấp nhiều thông tin,
tư liệu cập nhật cho luận văn.
Đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách
toàn diện, đầy đủ và hệ thống về công tác tư tưởng nhằm góp phần giữ vững
ổn định chính trị - xã hội ở Tây Nguyên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Làm rõ vị trí, vai trò của công tác tư tưởng đối với ổn định chính trị xã hội , trên cơ sở đó, đổi mới nhận thức và hoạt động của đội ngũ làm công
tác tư tưởng ở Tây Nguyên hiện nay, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã
hội ở địa bàn chiến lược này.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác tư tưởng trong đời
sống xã hội.
- Đánh giá thực trạng công tác tư tưởng ở Tây Nguyên trong thời gian
qua (từ khi xẩy ra sự kiện mất ổn định chính trị - xã hội, năm 2001 đến nay)
chỉ ra nguyên nhân và rút ra các bài học kinh nghiệm.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tư
tưởng nhằm góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội ở Tây Nguyên.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
- Công tác tư tưởng của các cơ quan tư tưởng ở Trung ương và ở các
tỉnh Tây Nguyên.
- Luận văn nghiên cứu tư tưởng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân, nhưng chủ yếu tập trung vào đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào
có đạo trên địa bàn Tây Nguyên.
- Các tỉnh Tây Nguyên (Dak Lak, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Dak Nông).
- Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
công tác tư tưởng.
- Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước về công tác tư tưởng, về ổn định chính trị - xã hội.
- Ngoài ra luận văn còn sử dụng các tác phẩm và các bài phát biểu của
các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tài liệu của các cơ quan làm công
tác tư tưởng ở Trung ương và trên địa bàn Tây Nguyên, của các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp logic - lịch sử, phân tích - tổng
hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học, các phương pháp
chuyên ngành và liên ngành khác.
6. Đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn của luận văn
- Góp phần luận giải rõ hơn vai trò của công tác tư tưởng với việc ổn
định tình hình chính trị - xã hội ở Tây Nguyên.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học
cho việc hoạch định, điều chỉnh, bổ sung, cụ thể hóa chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về công tác tư tưởng; đề xuất, kiến nghị các giải pháp
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tư tưởng nhằm nâng cao vai trò của
nó trong đời sống xã hội nói chung và trong việc ổn định tình hình chính trị xã hội ở Tây Nguyên nói riêng.
- Luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy những vấn đề có liên quan đến công tác tư tưởng, dân vận, xử lý
tình huống chính trị...
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, lết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VỚI VIỆC
ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC TƯ
TƯỞNG TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm tư tưởng và công tác tư tưởng
1.1.1.1. Khái niệm tư tưởng
"Tư tưởng hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thức tồn tại của ý
thức xã hội, kết quả của quá trình nhận thức hiện thực khách quan, trở thành
kinh nghiệm và sự hiểu biết của con người" [50, tr.10]. Tư tưởng là sản phẩm
chủ quan của con người, nhưng tư tưởng của mỗi người lại phụ thuộc chặt chẽ
vào đối tượng phản ánh và trình độ nhận thức của họ.
Là một phạm trù thuộc ý thức xã hội, do đó, tồn tại xã hội nào thì tư
tưởng (bộ phận của ý thức xã hội) ấy. Tư tưởng vừa có sự thụ động nhất định
so với những thay đổi của tồn tại xã hội; vừa có tính năng động tác động trở
lại tồn tại xã hội, tư tưởng có khả năng vượt trước so với những vận động của
hiện thực khách quan do tính năng động của nó. Như vậy, tư tưởng không chỉ
dừng lại ở sự phản ánh, mà còn có năng lực dự báo, đề ra mục tiêu, chương
trình, kế hoạch, dự định nhằm tiếp tục nhận thức và cải tạo hiện thực.
1.1.1.2. Công tác tư tưởng và các yếu tố của công tác tư tưởng
* Hệ tư tưởng
Hệ tư tưởng là hệ thống những quan điểm và tư tưởng: Chính trị, luật
pháp, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo, triết học... Hệ tư tưởng là một bộ phận của
kiến trúc thượng tầng và với tính cách là kiến trúc thượng tầng, xét cho cùng,
phản ánh những quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội đang tồn tại.
Hệ tư tưởng là sản phẩm của xã hội có giai cấp, do đó hệ tư tưởng luôn
mang tính giai cấp; phản ánh vị trí lợi ích của một giai cấp. Hệ tư tưởng
thường gắn liền với giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất nhất định.
Các giai cấp thống trị, qua những nhà tư tưởng của mình tiếp tục phát triển, hoàn
thiện hệ tư tưởng; xây dựng các mục tiêu, chương trình, thiết chế để bảo vệ và
truyền bá tư tưởng đó trong xã hội. Do hệ tư tưởng của một giai cấp gắn liền với
lợi ích của giai cấp đó nên cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh ý thức hệ là cuộc
đấu tranh giai cấp rất quyết liệt. Có thể nói, trong cuộc đấu tranh giai cấp vai trò
của tư tưởng rất to lớn, điều này C.Mác đã chỉ rõ: "Vũ khí của sự phê phán cố
nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ
có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực
lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [57, tr. 580].
* Công tác tư tưởng
Sự tác động của chủ thể hệ tư tưởng đến các quan hệ tư tưởng và quá trình
tư tưởng để đạt mục đích đặt ra chính là công tác tư tưởng. "Công tác tư tưởng
là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng nhằm hình thành và
phát triển hệ tư tưởng, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần
chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng" [60, tr.11-12].
Dưới CNXH, công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của Đảng
Cộng sản và Nhà nước nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị
trong đời sống tinh thần xã hội, động viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng
tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
* Các yếu tố của công tác tư tưởng
Công tác tư tưởng bao gồm các yếu tố sau: Chủ thể, khách thể của công
tác tư tưởng, mục đích, nội dung, nguyên tắc, phương pháp, phương tiện, hình
thức tổ chức và hiệu quả công tác tư tưởng.
- Chủ thể công tác tư tưởng: Bao gồm chủ thể của hệ tư tưởng (giai cấp
và chính đảng của nó); các cơ quan và thiết chế công tác tư tưởng (thường gắn
liền với hệ thống tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền); các nhà
tư tưởng của chủ thể đó và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tư
tưởng. Do công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích, có chủ định của chính
đảng của một giai cấp, nên vai trò của chủ thể công tác tư tưởng có ý nghĩa
quyết định đến sự thành công của nó.
Trong chủ nghĩa xã hội, khi Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền thì
chủ thể công tác tư tưởng là toàn Đảng (trước hết là tổ chức đảng, bí thư cấp uỷ
và toàn thể cán bộ, đảng viên); cơ quan tuyên giáo các cấp, các ngành; cơ quan
chính trị các cấp trong lực lượng vũ trang là lực lượng tham mưu giúp cấp uỷ
chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra công tác tư tưởng trong Đảng và trong toàn xã
hội. Cán bộ tuyên giáo và các cơ quan có chức năng giáo dục tư tưởng là lực
lượng trực tiếp tiến hành công tác tư tưởng trên phạm vi toàn xã hội.
- Khách thể của công tác tư tưởng: Đó là các đối tượng chịu sự tác
động về mặt tư tưởng của chủ thể (bao gồm cá nhân, tập thể, tầng lớp, giai
cấp…). Khách thể của công tác tư tưởng còn là các quan hệ xã hội, quan hệ
giữa người với người trong xã hội. Nói tóm lại, khách thể của công tác tư
tưởng là các cá nhân, tập thể mà chủ thể tư tưởng chọn để tác động.
Cho nên, xét trong mối quan hệ này, có thể là chủ thể của công tác tư
tưởng; còn trong mối quan hệ khác, có thể là đối tượng của công tác tư tưởng.
Vì vậy công tác tư tưởng phải được tiến hành cả trong Đảng và ngoài xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tồn tại nhiều thành phần kinh tế và
trong điều kiện toàn cầu hoá, bùng nổ thông tin hiện nay, khách thể của công tác
tư tưởng chịu sự tác động của nhiều luồng tư tưởng khác nhau; chịu sự tác động
của các yếu tố lợi ích kinh tế, thái độ được đối xử, quan hệ giao tiếp, trạng thái
tâm lý, đức tin, sự quan tâm và chăm lo đến đời sống hàng ngày của họ...
- Nội dung công tác tư tưởng: Là nội dung các hoạt động mà chủ thể
xác định nhằm thực hiện mục đích đặt ra.
Nội dung công tác tư tưởng gồm việc xây dựng, xác lập, phát triển hệ tư
tưởng của giai cấp, biến nó thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội; giáo dục ý
thức tự giác chính trị, hình thành niềm tin. "Nội dung do mục đích công tác tư
tưởng và nhiệm vụ cụ thể của mỗi giai đoạn cách mạng quy định" [60, tr.15].
- Phương pháp công tác tư tưởng: là con đường, cách thức mà chủ thể
của công tác tư tưởng sử dụng để tác động vào khách thể của công tác tư
tưởng nhằm làm chuyển biến tư tưởng của khách thể theo mục tiêu xác định.
Phương pháp công tác tư tưởng trước hết do nội dung và đối tượng của công
tác tư tưởng quy định.
- Nguyên tắc công tác tư tưởng: Là những quy định cơ bản do chủ thể
công tác tư tưởng xác định để trên cơ sở đó lựa chọn nội dung, cách thức tổ
chức và phương pháp tác động đến khách thể nhằm đạt mục đích đặt ra. Nguyên
tắc cũng là cơ sở phương pháp luận để xem xét phương hướng tư tưởng chính trị
của nội dung giáo dục và đánh giá chính xác hiệu quả công tác tư tưởng. Những
nguyên tắc cơ bản nhất trong công tác tư tưởng là: nguyên tắc tính đảng, nguyên
tắc tính khoa học, nguyên tắc tính thống nhất giữa lý luận với thực tiễn. Nguyên
tắc này là một thể thống nhất không tách rời; cơ sở của sự thống nhất đó là
bản chất cách mạng, khoa học của hệ tư tưởng Mác - Lênin.
- Hiệu quả công tác tư tưởng: Là sự so sánh giữa kết quả mà công tác
tư tưởng đạt được với mục đích công tác tư tưởng được đặt ra từ trước, sau
một chu trình tác động tư tưởng, trong một điều kiện nhất định và với một chi
phí nhất định. Trong công tác tư tưởng, hiệu quả được đánh giá bằng sự cố
gắng của chủ thể công tác tư tưởng và những chuyển biến của nhận thức, tư
tưởng mỗi giai cấp, tầng lớp và toàn xã hội, thể hiện trong những kết quả kinh
tế, chính trị, xã hội, phong trào.
* Các hình thái công tác tư tưởng
"V.I. Lê nin cho rằng, công tác tư tưởng có ba hình thái là: công tác lý
luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động" [60, tr.28].
Công tác lý luận là một hình thái của công tác tư tưởng hướng vào việc
nghiên cứu, xây dựng bảo vệ và phát triển sáng tạo hệ tư tưởng, biến nó
thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội.
Xây dựng hệ tư tưởng là cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối
chính trị của giai cấp, của một chính đảng. Với cách hiểu đó, công tác lý luận
của Đảng ta bao gồm việc nghiên cứu nhằm xây dựng hệ thống quan điểm lý
luận và cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối, chính sách, các quyết
định của Đảng và Nhà nước; đấu tranh, phê phán các trào lưu tư tưởng sai
trái, thù địch; thông tin lý luận, tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận của Đảng. Trên mặt trận tư tưởng nói chung, công tác lý luận là
hình thái giữ vai trò trọng yếu nhất.
Công tác tuyên truyền là một hình thái của công tác tư tưởng nhằm
truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến lược, sách lược trong quần chúng,
xây dựng cho quần chúng thế giới quan phù hợp với lợi ích của chủ thể hệ tư
tưởng, hình thành và củng cố niềm tin, tập hợp và cổ vũ quần chúng hành
động theo thế giới quan và niềm tin đó. Công tác tuyên truyền của Đảng ta là
hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chính sách của Đảng; xây dựng niềm tin vững chắc vào sự nghiệp cách
mạng; khơi dậy tính sáng tạo của quần chúng, động viên lực lượng quần
chúng tham gia, góp phần tổ chức các phong trào cách mạng.
Công tác cổ động là một hình thái của công tác tư tưởng, là sự tác động
của chủ thể vào tâm lý, tình cảm của đối tượng, nhằm tạo nên một ấn tượng
mạnh ở đối tượng, kích thích và thúc đẩy họ hăng hái hành động, góp phần
chuyển biến hành vi của đối tượng. Công tác cổ động có vai trò hết sức quan
trọng, nó là hoạt động có hiệu quả rất cao trong việc thuyết phục, vận động quần
chúng nhân dân tham gia vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất nước.
Tất cả các yếu tố, các bộ phận trên đây tác động, quy định lẫn nhau và
hình thành nên hệ thống công tác tư tưởng. Hệ thống này vận hành theo
những quy luật của lĩnh vực tư tưởng.
1.1.2. Vai trò của công tác tư tưởng trong đời sống xã hội
Công tác tư tưởng thuộc lĩnh vực truyền bá sản phẩm tinh thần, là một
bộ phận của ý thức xã hội, do đó tư tưởng có tính độc lập tương đối, có những
quy luật đặc thù của lĩnh vực tư tưởng – văn hoá. Không phải lúc nào tư
tưởng cũng song hành cùng kinh tế; quy luật đặc thù của tư tưởng còn chịu sự
tác động của các nhân tố phi kinh tế, thể hiện ở tính kế thừa và giao lưu văn
hoá, tính lan tỏa, tính vượt trước của tư tưởng, lý luận. v.v.
Các quá trình tư tưởng do chủ thể công tác tư tưởng thực hiện với mục
đích tác động vào toàn bộ ý thức xã hội: từ giáo dục phổ thông đến giáo dục
đại học, từ nghiên cứu và giáo dục lý luận, định hướng phát triển của sáng tác
văn học, nghệ thuật, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, định hướng, hình thành
các chuẩn mực và thang bậc giá trị... Tất cả các lĩnh vực đó đều thuộc về hoạt
động tư tưởng của các chủ thể công tác tư tưởng, tác động trực tiếp tới mọi
mặt hoạt động của xã hội, phản ánh lợi ích chủ đạo của lực lượng tiến hành
công tác tư tưởng. Mọi chính đảng, nhà nước, của mọi giai cấp trong mọi thời
đại đều tiến hành công tác tư tưởng, sử dụng thành tựu văn hoá, trí tuệ, phát
minh khoa học mới nhất, kể cả những thành tựu công nghệ tiên tiến nhất cho
công tác tư tưởng. Khi chính quyền của một giai cấp được thành lập thì công
tác tư tưởng cùng với các thiết chế của nó là một bộ phận trong hệ thống
chính trị với chức năng phát triển hệ tư tưởng, tuyên truyền, phổ biến, làm
cho hệ tư tưởng của giai cấp mình dần dần chiếm địa vị thống trị trong xã hội.
Trong đời sống xã hội, công tác tư tưởng có vai trò hết sức quan trọng:
- Công tác tư tưởng tạo cơ sở xã hội để xây dựng đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
- Công tác tư tưởng góp phần giáo dục ý thức tự giác chính trị, xây
dựng nhân cách con người mới.
- Công tác tư tưởng vận động, tổ chức quần chúng giành và củng cố
chính quyền, xây dựng và phát triển kinh tế đất nước.
- Công tác tư tưởng tạo ra sự đồng thuận xã hội, giữ vững ổn định
chính trị, đấu tranh trực diện trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá, định hướng giá
trị và xây dựng đời sống tinh thần XHCN.
- Công tác tư tưởng góp phần xây dựng nền tảng tư tưởng khoa học cho đời
sống tinh thần của xã hội (xây dựng, bảo vệ và phát triển hệ tư tưởng khoa học).
Khi Đảng lãnh đạo chính quyền, công tác tư tưởng là một trong những
phương thức lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng trong đó có nội dung và yêu cầu đổi mới công tác tư tưởng.
Công tác tư tưởng có liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học mà trực
tiếp và đặc biệt quan trọng là các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn. Trong
xã hội ta, cùng với các môn khoa học lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, các môn chính trị học, xã hội học, tâm lý - giáo dục học
ngày càng tỏ rõ vai trò và có tác dụng to lớn đối với công tác tư tưởng. Các
lĩnh vực văn hoá, văn nghệ bao gồm cả nghiên cứu, sáng tác, biểu diễn... với
ưu thế riêng, sinh động, đa dạng của chúng, có tác dụng trực tiếp trong đời
sống tinh thần xã hội và trong công tác tư tưởng của Đảng. Sự phát triển và
những thành tựu của các ngành khoa học, văn học, nghệ thuật tạo điều kiện
để đổi mới công tác tư tưởng và mặt khác, công tác tư tưởng phải không
ngừng được đổi mới để định hướng đúng cho sự phát triển của các ngành
khoa học, văn học, nghệ thuật.
Công tác tư tưởng còn là một trong những phương thức lãnh đạo chủ
yếu của Đảng cầm quyền. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
hết sức coi trọng vai trò, vị trí của công tác tư tưởng; coi công tác tư tưởng là
quan trọng hàng đầu, như Bác Hồ đã khẳng định: lãnh đạo quan trọng nhất là
lãnh đạo tư tưởng.
1.2. ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC
TƯ TƯỞNG TRONG VIỆC GIỮ VỮNG ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở
NƯỚC TA
1.2.1. Ổn định chính trị - xã hội, điều kiện quan trọng hàng đầu của
sự phát triển
Ổn định chính trị - xã hội nói một cách khái quát là giai cấp cầm quyền
phải giữ vững, tăng cường được quyền lực chính trị của mình; nhà nước của giai
cấp đó phải mạnh và có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh; chế độ xã hội đã
xác lập phải được giữ vững; người dân ủng hộ, tham gia bảo vệ và tuân thủ trật
tự xã hội đã được xác lập; đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân
dân được đáp ứng, chí ít cũng trên những nhu cầu cơ bản và thiết yếu; lòng tin
của người dân vào chế độ xã hội được giữ vững và nâng cao. Sự ổn định chính
trị - xã hội nhìn chung được khái quát qua các tiêu chí cơ bản sau:
- Thứ nhất: HTCT không bị rối loạn; hoạt động của các bộ phận trong đó
nhịp nhàng, thống nhất đáp ứng yêu cầu của chủ thể quyền lực chính trị và
quyền lực nhà nước, đảm bảo các yêu cầu cơ bản của phát triển kinh tế - xã hội.
- Thứ hai: Có sự đồng thuận xã hội về những vấn đề cơ bản của chế độ
chính trị như đường lối của Đảng cầm quyền và những chính sách của Nhà
nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội.v.v.
- Thứ ba: Bản thân nhà nước của giai cấp cầm quyền nói riêng và hệ
thống xã hội nói chung có khả năng ngăn chặn và đập tan mọi hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch bên trong và bên ngoài; giữ vững ổn định
chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị: Suy cho cùng, kinh
tế là nhân tố quyết định chính trị, chính trị chỉ là sự biểu hiện tập trung của
kinh tế; cơ sở kinh tế như thế nào, thì kiến trúc thượng tầng cơ bản như thế
ấy. Song, chính trị không thể không giữ vai trò hàng đầu so với kinh tế: Chính
trị có ổn định, thì kinh tế mới phát triển được; nếu chính trị bị khủng hoảng,
thì mọi thành tựu kinh tế đều có thể đổ vỡ hết; nếu chính trị mất ổn định, thì
văn hoá cũng bị tàn phá, xã hội khủng hoảng...
Như vậy, ổn định chính trị - xã hội không chỉ đối lập với sự khủng
hoảng, rối loạn đổ vỡ; mà còn đối lập với sự trì trệ, bảo thủ. Với ý nghĩa đó,
ổn định chính trị - xã hội là sự ổn định của một hệ thống đang liên tục vận
động và biến đổi trong các quỹ đạo được xác định là phù hợp với quy luật vận
động, phát triển của đời sống xã hội. Đó là ổn định động - gắn với sự phát
triển, nhằm phát triển - sự ổn định này không phải vì mục tiêu tự thân; mà ổn
định chỉ là điều kiện cho sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Ổn định chính trị - xã hội đối lập với sự hỗn loạn, nhưng không thể đối
lập với những thay đổi cần thiết cho sự phát triển; mà phải chủ động nhìn thấy
trước các yêu cầu khách quan để thực hiện các đổi thay cần thiết đó. Như vậy,
ổn định và ổn định chính trị - xã hội không đối lập với đổi mới chính trị. Do
đó, không vì ổn định chính trị - xã hội mà không dám đổi mới chính trị;
“không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ
chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể
nhân dân, bởi đó là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội và thực
hiện dân chủ" [35, tr.54].
Muốn đổi mới chính trị phải ổn định chính trị - xã hội; nhưng muốn ổn
định chính trị - xã hội một cách thực chất và lâu dài thì đổi mới chính trị phải
đúng hướng và có hiệu quả. Sự ổn định được thực hiện bằng cách đổi mới và
thông qua đổi mới. Ổn định chính trị - xã hội vừa là tiền đề, vừa là kết quả
của đổi mới chính trị. Như vậy ổn định chính trị - xã hội bao hàm những thay
đổi; nhưng đó không phải là sự thay đổi vô nguyên tắc mà những thay đổi đó
phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đặt ra chứ không phải
đi ngược lại mục tiêu đó, và về cơ bản phải được kiểm soát bởi chủ thể lãnh
đạo và quản lý, ở nước ta là của Đảng và Nhà nước. Tác động trở lại của
chính trị phải phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế khách quan mới có tác
dụng thúc đẩy kinh tế phát triển, nếu không sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh
tế. Ở khía cạnh này có thể nói: ổn định chính trị - xã hội ở nước ta là đổi mới
chính trị được thực hiện có nguyên tắc, phù hợp với đường lối đổi mới của
Đảng ta. Sự ổn định chính trị - xã hội chỉ có thể thực hiện được thông qua sự
đổi mới hệ thống chính trị đúng hướng, hợp quy luật và có hiệu quả. Việc giữ
vững ổn định chính trị - xã hội để đổi mới chính trị và các mặt khác, về cơ
bản bao hàm các nội dung:
- Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động
chính trị và toàn xã hội, đối với sự nghiệp đổi mới của chúng ta, đó là nhân tố cơ
bản, nhân tố quyết định hàng đầu. Điều đó đặt ra yêu cầu Đảng phải thật sự đổi
mới phương thức lãnh đạo với những nội dung phù hợp với điều kiện mới; phải
quán triệt mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc trong đường lối đổi mới của Đảng.
- Giữ vững định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế thị
trường, trong đó kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, vươn lên trở thành
lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh
tế. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Giữ vững chế độ chính trị với Nhà nước là nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân. Dù cơ cấu tổ chức và nhân sự của bộ máy nhà
nước có thay đổi, song không thay đổi bản chất chính trị của Nhà nước ta.
Giữ vững mục đích, bản chất chế độ pháp luật của Nhà nước ta và hiệu lực
của pháp luật trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương. Pháp luật có
thể sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện; song không làm thay đổi bản chất giai cấp và
vì lợi ích nhân dân của nó. Chế độ pháp luật ràng buộc mọi công dân, kể cả
cán bộ, đảng viên, những người cầm quyền, các tổ chức của Đảng và Nhà
nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp...
- Tạo được niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản
lý của Nhà nước, vào tính hiệu lực và nghiêm minh của pháp luật. Mẫu số
chung của bất cứ sự ổn định chính trị - xã hội nào cũng là niềm tin. Chỉ có
niềm tin của nhân dân mới tạo được cơ sở vững chắc cho sự ổn định chính trị
- xã hội, mới giữ được bản chất chính trị của sự ổn định, tức là một hệ thống
chính trị mà chủ thể là nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Để thực hiện những nội dung đó, Đảng ta đã giải quyết mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị, văn hoá và xã hội, quan hệ giữa ổn định
và phát triển trong quá trình đổi mới. Đảng ta khẳng định ngay từ đầu: chúng
ta đổi mới toàn diện nhưng trước hết phải đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, giữ
vững định hướng phát triển kinh tế, giữ vững chính trị, ổn định xã hội.
Có thể nói quan điểm "không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn
đến sự rối loạn" [36, tr.262] là một đòi hỏi có tính nguyên tắc trong công cuộc
đổi mới nói chung và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng.
Qua 20 năm đổi mới, chúng ta “đã đạt được những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử”. Những thành tựu đó không thể tách rời việc chúng ta giữ
vững được sự ổn định chính trị - xã hội. Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng
khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đánh giá một trong những
thành tựu to lớn là "Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được
tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới" [38, tr.59].
Việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội như vừa qua đã trở thành điều
kiện tiên quyết để bảo đảm thắng lợi cho công cuộc đổi mới. Mỗi bước phát
triển tiến bộ về kinh tế, văn hóa, xã hội là thêm một cơ sở vững chắc cho ổn
định chính trị - xã hội. Khi chính trị - xã hội càng ổn định, lại càng tạo thêm
tiền đề và điều kiện để đổi mới mạnh mẽ, có hiệu quả để kinh tế phát triển
nhanh và bền vững. Ổn định và đổi mới luôn luôn tác động qua lại với nhau,
cùng là động lực của sự phát triển hướng tới mục tiêu XHCN. Ngoài ra, ổn
định chính trị - xã hội còn là nhân tố cơ bản để mở rộng quan hệ quốc tế, thu
hút vốn đầu tư của nước ngoài. Sự ổn định chính trị - xã hội sẽ góp phần ngăn
chặn tình trạng giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Nhờ có ổn định chính trị - xã hội, qua 20 năm đổi mới đất nước, Đảng
ta đã khẳng định:
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay
đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc
phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng
lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
triển vọng tốt đẹp [38, tr. 67-68].
1.2.2. Những nhân tố tác động gây mất ổn định chính trị - xã hội và
vai trò của công tác tư tưởng trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội
Mất ổn định chính trị - xã hội là hiện tượng không bình thường, rối loạn,
xảy ra trong lĩnh vực chính trị - xã hội liên quan đến việc giữ vững quyền lực và
thể chế chính sách của chính đảng, chính quyền nhà nước, làm cho lòng dân
không yên. Khi đó, HTCT bị rối loạn; hoạt động của các bộ phận trong HTCT
thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, không đáp ứng yêu cầu của thực thể quyền lực
chính trị và quyền lực nhà nước, không đảm bảo các yêu cầu cơ bản của phát
triển kinh tế - xã hội. Xã hội thiếu sự đồng thuận về những vấn đề cơ bản của
chế độ chính trị.v.v. Nhà nước của giai cấp cầm quyền nói riêng và xã hội nói
chung không đủ sức ngăn chặn và đập tan các hoạt động xâm nhập, chống phá
của các thế lực thù địch bên trong và bên ngoài.
Thông thường, những nhân tố gây mất ổn định chính trị - xã hội thường
được thấy rõ từ các điểm nóng chính trị - xã hội (nơi biểu hiện ở mức cao nhất
của sự rối loạn, xung đột xã hội).
Điểm nóng chính trị - xã hội là địa bàn tập trung sự chống đối của
đám đông quần chúng hướng trực tiếp vào những người nắm quyền lực
chính trị, vào hệ thống chính trị và vào thể chế, chính sách của Nhà nước,
làm cho sự đồng thuận và đoàn kết xã hội bị giảm sút nghiêm trọng. Ở đây,
an ninh chính trị và an toàn xã hội không được bảo đảm; hệ thống chính trị
mất hiệu lực trước sự chống đối của đám đông, của lực lượng đối lập; các
xung đột xã hội không được giải toả, cản trở, làm trì trệ sự phát triển kinh
tế - xã hội.
Mất ổn định chính trị - xã hội do nhiều nhân tố tác động đến. Có thể là
do sự tác động của các nhân tố bên ngoài, có thể là do những nhân tố phát
sinh ngay từ trong lòng chế độ xã hội, có thể do những nhân tố chủ quan hoặc
khách quan về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, dân tộc, tôn giáo.v.v. Thông
thường, các nhân tố trên đều liên quan với nhau, thậm chí nhân tố này là kết
quả của nhân tố khác và ngược lại. Việc tìm ra những nhân tố tác động gây
mất ổn định chính trị - xã hội, để có biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi nó, bảo đảm
ổn định, thúc đẩy xã hội phát triển là vấn đề rất quan trọng và cấp thiết trong
giải quyết những điểm nóng chính trị - xã hội. Có thể thấy một số nhân tố cơ
bản gây mất ổn định chính trị - xã hội sau:
- Đó là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới vẫn tồn tại.
- Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí nghiêm trọng.
- Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục.
- Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hoà
bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền"
hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Những vấn đề xã hội nói trên nếu chậm được giải quyết; hay giải quyết
thiếu triệt để, nửa vời thì đều có thể chuyển thành vấn đề chính trị (thậm chí
sẽ có xảy ra điểm nóng như đã xẩy ra ở Thái Bình, Thừa Thiên - Huế, Tây
Nguyên...). Đây cũng là vấn đề mà các thế lực thù địch rất quan tâm chú ý để
lợi dụng, phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc, ly gián Đảng với nhân
dân, xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước ta nhằm kích động gây rối,
phá vỡ sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Ngoài những nhân tố cơ bản trên, trong phạm vi luận văn này, chúng
tôi xin nêu một số nhóm nguyên nhân tác động gây mất ổn định chính trị - xã
hội nói chung:
- Xem thêm -