VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NÔNG THỊ VIỆT HÀ
CÔNG TÁC DÂN VẬN CẤP CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH XUÂN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NÔNG THỊ VIỆT HÀ
CÔNG TÁC DÂN VẬN CẤP CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH XUÂN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành : Chính trị học
Mã số : 60 31 02 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. VÕ KHÁNH VINH
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn: “Công tác dân vận cấp cơ sở từ thực tiễn quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi,
dưới sự hướng dẫn của GS, TS. Võ Khánh Vinh.
Các tài liệu, số liệu sử dụng trong khóa luận là trung thực, đảm bảo tính
khách quan khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 25 tháng 7 năm 2016
Tác giả
Nông Thị Việt Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN CẤP CƠ SỞ ..6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của dân vận và công tác dân vận cấp cơ sở ..6
1.2. Nội dung công tác dân vận cấp cơ sở..........................................................13
1.3. Chủ thể và đối tượng công tác dận vận cấp cơ sở .......................................18
1.4. Những nhân tố tác động đến công tác dân vận cấp cơ sở ...........................20
Chương 2.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CẤP CƠ SỞ TẠI QUẬN
THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...................................................................25
2.1. Các đặc điểm của quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội tác động đến công
tác dân vận cấp cơ sở tại quận Thanh Xuân .......................................................25
2.2. Thực trạng thực hiện nội dung của công tác dân vận cấp cơ sở tại quận
Thanh Xuân ........................................................................................................30
2.3. Thực trạng hoạt động của chủ thể công tác dân vận cấp cơ sở tại quận
Thanh Xuân ........................................................................................................46
2.4. Đánh giá chung kết quả của công tác dân vận cấp cơ sở tại quận Thanh
Xuân ...................................................................................................................52
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG
TÁC DÂN VẬN CẤP CƠ SỞ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ...........................................58
3.1. Các quan điểm và phương hướng tăng cường công tác dân vận cấp cơ sở ở
nước ta hiện nay .................................................................................................58
3.2. Các giải pháp tăng cường công tác dân vận cấp cơ sở ở nước ta hiện nay .60
KẾT LUẬN ................................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................79
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CTDV
: Công tác dân vận
HĐND
: Hội đồng nhân dân
MTTQ
: Mặt trận Tổ quốc
QCDC
: Quy chế dân chủ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng ta luôn coi trọng
việc đổi mới nội dung, phương thức vận động nhân dân và coi đó là một bộ phận
quan trọng trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Khi nhấn mạnh vai trò
CTDV cấp cơ sở, không có nghĩa coi đó là việc riêng của cấp cơ sở, mà chính là
phân công, phân cấp cho cấp cơ sở thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Thực hiện
CTDV thông qua cấp cơ sở nhằm làm cho cấp cơ sở thực sự gần dân, là của dân và
phục vụ nhân dân.
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, mối quan hệ giữa nhân dân với cấp cơ sở
còn nhiều hạn chế. Ở một số nơi, tình trạng mất dân chủ, khiếu kiện của một bộ
phận dân cư diễn ra phức tạp, nguy cơ gây mất ổn định chính trị, mối quan hệ giữa
nhân dân với tổ chức Đảng, chính quyền suy giảm, nhân dân thiếu tin tưởng vào
một bộ phận cán bộ, đảng viên; việc triển khai thực hiện chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước hiệu quả không cao. Ở đó không phải các đảng bộ
địa phương yếu kém đến mức mất lòng tin của nhân dân, mà vì nhân dân ở các địa
phương hàng ngày hàng giờ tiếp xúc với cán bộ, đảng bộ, đảng viên của Đảng hoạt
động trong các cơ quan chính quyền nhà nước, nơi họ không thể không có quan hệ
mọi mặt liên quan đến đời sống của mình. Chỉ cần những lời nói, việc làm phản
cảm, quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu dân của các cơ quan công quyền, thì bao
nhiêu những tuyên truyền vận động của Đảng với nhân dân về chế độ tốt đẹp của
chúng ta không còn ý nghĩa.
Lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội XII của Đảng, CTDV được đề cập riêng
một mục “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả CTDV, tăng cường quan hệ mật thiết
giữa Đảng với nhân dân”. Điều đó cho thấy, CTDV được nhìn nhận đúng với ý
nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của nó, thực sự là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược
đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta.
Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cơ sở trực tiếp nhất, gần dân nhất
trong hệ thống chính trị, là nơi người dân thực hiện quyền dân chủ một cách trực
1
tiếp và rộng rài. Xã, phường, thị trấn cũng là nơi nảy sinh và giải quyết những công
việc hành chính ngay trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội; là nơi hiện thực hóa
đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nếu không
làm tốt CTDV thì hiệu lực quản lý, điều hành không cao. Chính vì vậy, học viên
chọn vấn đề “Công tác dân vận cấp cơ sở từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành
phố Hà Nội” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Chính trị học,
với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV cấp cơ sở nói
chung, của các phường thuộc Quận Thanh Xuân nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác dân vận cấp cơ sở tuy không phải là vấn đề mới mẻ, nhưng điểm
qua tình hình nghiên cứu trong những năm gần đây, nhận thấy chưa có công trình
nào nghiên cứu sâu về vấn đề này. Liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đáng chú ý là
các công trình:
- Đề tài khoa học, sách tham khảo:“Đặc điểm, nội dung, phương thức lãnh đạo
của Đảng trong hệ thống chính trị, Mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và đoàn thể,
tổ chức xã hội”, đề tài khoa học cấp nhà nước giai đoạn 1991-1995, mã số KX.05.06,
do PGS. Vũ Hữu Ngoạn làm chủ nhiệm; “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ
xã đối với chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân vùng đồng bằng Bắc Bộ
hiện nay”, Viện Xây dựng Đảng, đề tài cấp Bộ năm 2000 - 2001; Tiến sĩ Đỗ Quang
Tuấn (Chủ biên): “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ mới” Nxb Chính trị quốc gia, H.2006; Ban Dân
vận Thành ủy Hà Nội, Tăng cường công tác dân vận của chính quyền cơ sở ở Hà Nội
trong tình hình hiện nay, Nxb Giao thông vận tải, H.2009; Ban Dân vận Trung ương,
Nghiệp vụ công tác của cán bộ dân vận, Nxb Chính trị quốc gia, H.2014; Ban Dân vận
Trung ương, Tập bài giảng về công tác dân vận, Nxb Chính trị quốc gia, H.2014;
Nguyễn Thế Trung, Một số vấn đề về công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, H.2015;
- Luận văn tiến sĩ, luận văn thạc sĩ: “Công tác vận động nông dân của Đảng
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, luận án Tiến sĩ
của Lê Kim Việt, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2002; “Đổi mới
2
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn hiện
nay”, luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Nga, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, năm 2007; “Phương thức vận động nông dân của các đảng bộ xã ở tỉnh Bình
Phước giai đoạn hiện nay”, luận văn Thạc sỹ khoa học chính trị của Phạm Kim
Trọng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2010.
- Các bài báo khoa học: Võ Nguyên Giáp: “Thực chất công tác dân vận là xây
dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và Dân”, Tạp chí dân vận số 173 (tháng
10/2009); Tòng Thị Phóng: “Không ngừng đổi mới tư duy, làm tốt hơn nữa công tác vận
động quần chúng của Đảng”, Tạp chí Cộng sản số 17 (tháng 9/2004); Nguyễn Duy Việt:
“Những vấn đề cấp bách trong công tác dân vận hiện nay”, Tạp chí Cộng sản số 35
(Tháng 11/2009); Trịnh Quốc Việt: “Vận dụng quan điểm “Dân vận khéo” của Chủ tịch
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Xây dựng Đảng số 10 (Tháng 10/2014); Nguyễn Hữu Đống:
“Thực hành dân chủ- Mục tiêu, động lực của công tác dân vận hiện nay”, Tạp chí Xây
dựng Đảng số 7 (Tháng 7/2015); Hoàng Chí Bảo: “Ý Đảng, Lòng dân và Phép nước”,
Tạp chí Dân vận, số 1&2 (Năm 2016); Nguyễn Văn Toàn: “Tư tưởng “Trọng dân” của
Trần Nhân Tông và Hồ Chủ tịch”, Tạp chí Dân vận, số 1&2 (Năm 2016).
Từ mục đích và góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình khoa học nêu trên
đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về nội dung, phương thức
vận động nhân dân, đề xuất nhiều giải pháp góp phần nâng cao chất lượng CTDV
nói chung, CTDV của các cơ sở nói riêng. Tuy nhiên đến nay chưa có công trình
nào đi sâu nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về vấn đề “Công tác dân vận cấp cơ
sở từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn CTDV cấp cơ sở từ thực tiễn quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, qua đó đề xuất phương hướng và
những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường CTDV ở cấp cơ sở từ thực tiễn quận
Thanh Xuân trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
- Luận giải và làm rõ những vấn đề lý luận về CTDV cấp cơ sở;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng CTDV ở cấp cơ sở tại quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội;
- Đề xuất phương hướng và giải pháp tăng cường CTDV cấp cơ sở ở nước ta
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu CTDV ở cấp cơ sở từ thực tiễn quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu thực tiễn công tác dân vận tại các phường thuộc
quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu CTDV ở cấp cơ sở từ thực tiễn quận
Thanh Xuân từ năm 2010 đến nay, phương hướng và giải pháp trong luận văn có
giá trị đến 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - LêNin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng,
về vai trò của quần chúng nhân dân và công tác vận động nhân dân của Đảng. Cơ sở
thực tiễn của luận văn là CTDV ở cấp cơ sở từ thực tiễn quận Thanh Xuân thành
phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
Luận văn sử dụng các biện pháp chuyên ngành: Logic - Lịch sử, phân tích tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, khảo sát, thống kê, tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
4
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn CTDV cấp cơ sở từ thực
tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho cơ quan
lãnh đạo của các quận trong thành phố Hà Nội, đặc biệt là các đảng bộ và chính
quyền cấp cơ sở và cán bộ làm CTDV trong giai đoạn hiện nay. Kết quả của luận
văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên
cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác dân vận cấp cơ sở
Chương 2: Thực trạng công tác dân vận cấp cơ sở tại quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp tăng cường công tác dân vận
cấp cơ sở ở nước ta hiện nay
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN CẤP CƠ SỞ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của dân vận và công tác dân vận cấp cơ sở
1.1.1. Khái niệm dân vận, công tác dân vận cấp cơ sở
Trong bài Dân vận đăng trên báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm dân vận: "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của
mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân,
để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã
giao cho". [35, tr.698]. Đó là tập hợp và huy động cho được sức mạnh của toàn dân
(mọi người, mọi nhà, mọi đối tượng) nhằm phát huy nội lực trong việc thực hiện
mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước với tư
cách là người chủ thực sự.
Công tác dân vận là một trong những công tác cơ bản của Đảng Cộng sản
Việt Nam, có tầm quan trọng chiến lược trong các thời kỳ cách mạng, là nhân tố
góp phần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng của dân tộc. Công tác dân
vận là quá trình mà các chủ thể dân vận tác động vào đối tượng dân vận bằng các
kế hoạch, hình thức, phương pháp và quy trình khác nhau nhằm thực hiện mục
tiêu dân vận.
Khái niệm dân vận và công tác dân vận về cơ bản bao hàm lẫn nhau, khác
biệt chỉ là giữa một khái niệm chỉ một loại hoạt động và quan hệ chung (dân vận) và
một loại hoạt động cùng bản chất, nhưng đã được cụ thể hóa thành những kế hoạch,
quy trình, hình thức, phương thức cụ thể (công tác dân vận).
Hồ Chí Minh quan niệm: “Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở,
mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ. Trước nhất là phải tìm mọi cách giải
thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ vì nhiệm vụ của
họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn
bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết
thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành.
6
Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành
xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen
thưởng”. [35, tr.698-699]. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận,
Đại hội IX của Đảng (4-2001) chính thức khẳng định quy trình CTDV là “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. [19, tr.130]. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, quy
trình của công tác dân vận gồm bốn bước: giải thích cho dân hiểu rõ quyền lợi và
nhiệm vụ của họ (dân biết); bàn bạc với dân, hỏi ý kiến, kinh nghiệm của dân (dân
bàn); động viên và tổ chức toàn dân thi hành (dân làm); cùng với dân kiểm thảo, rút
kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng (dân kiểm tra).
Trong bộ máy quản lý nhà nước, cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) là cấp thấp
nhất, là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống xã hội, có vai trò rất quan trọng
trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy
quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức
cuộc sống của cộng đồng dân cư. Công tác dân vận cấp cơ sở là toàn bộ những hoạt
động của đảng bộ, chính quyền, MTTQ và các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp
cơ sở dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng nhằm tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục
và tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật Nhà nước, phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2. Đặc điểm công tác dân vận, công tác dân vận cấp cơ sở
Công tác dân vận thực chất là tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân, thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Mục đích của CTDV là làm cho dân hiểu, dân
tin, dân đồng tình với Đảng và thực hiện sự lãnh đạo của Đảng. Việc khó khăn đến
mấy, nhưng nếu được dân hiểu, dân tin thì sẽ thành công.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu của CTDV là “vận động tất cả lực
lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng
toàn dân để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn
thể đã giao cho”. Nghĩa là, mục tiêu CTDV là động viên mọi tiềm năng sáng tạo, phát
7
huy vai trò làm chủ của nhân dân, nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường,
làm chủ cuộc sống bản thân và xã hội nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phong trào cách
mạng trong nhân dân. Mục tiêu cCTDV là mục tiêu chung của cách mạng. Mỗi thời
kỳ cách mạng, có mục tiêu có nội dung riêng. Mục tiêu của CTDV chính là thực hiện
mục tiêu của mỗi giai đoạn cách mạng mà Đảng đã đề ra.
Nội dung của CTDV không chỉ một vế là vận động nhân dân thực hiện các
chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mà
điều quan trọng là Đảng và Nhà nước nắm được nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân
để đưa những nhu cầu, nguyện vọng đó thành đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước.
Phương thức của dân vận là tổng hợp những hình thức, phương pháp, phương
tiện, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác mà người làm CTDV sử dụng để
tác động vào các lực lượng xã hội, các tổ chức, cá nhân nhằm hiện thực hóa cương
lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng trong đời sống xã hội. Phương thức CTDV là
phải tiến hành trước hết là từ cơ sở, nắm chắc và vận động nhân dân từ cơ sở. Cán bộ
cấp cơ sở phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia công việc, cùng nhau đi
giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức phân công, sắp
xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo dõi, giúp đỡ dân giải quyết những khó
khăn, bức xúc ngay từ cơ sở.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phương pháp công tác dân vận có ba việc quan
trọng để thực hiện, đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đó là: tuyên truyền cho dân,
gương mẫu trước dân và quan tâm giải quyết lợi ích của dân.
Thứ nhất là tuyên truyền cho dân, tức là làm cho dân biết, dân hiểu, dân tin,
dân làm theo. Trong quan niệm của mình về dân vận, Hồ Chí Minh yêu cầu người
làm dân vận phải giải thích cho quần chúng nhân dân hiểu được việc đảng, đoàn thể
vận động họ làm là có lợi cho họ và là nhiệm vụ của họ, họ phải hăng say thực hiện.
Mục đích của những người cộng sản chân chính vận động nhân dân làm cách mạng
là nhằm mang lại lợi ích cho nhân dân. Song, để nhân dân có thể một lòng đi theo
Đảng, khi mà những lợi ích đối với họ không những chưa có ngay trước mắt mà còn
8
phải đương đầu với gian khổ, hy sinh thì cần phải tuyên truyền, giải thích để nhân
dân hiểu, thấy được lợi ích lâu dài của sự hy sinh, gian khổ khi làm cách mạng mà
dấn thân làm theo. Hiểu và thấy được lợi ích chính đáng mà họ được thụ hưởng khi
cách mạng thành công thì chắc chắn họ sẽ một lòng theo Đảng, xả thân vì sự nghiệp
của họ, do họ và vì họ. Thực tế cách mạng nước ta hơn 80 năm dưới ngọn cờ của
Đảng đã minh chứng, một khi đường lối đúng, dân vận khéo, cán bộ tận tụy, trong
sáng, vì dân vì nước nêu gương thì nhân dân một lòng một dạ theo Đảng, bảo vệ
Đảng, bảo vệ cách mạng.
Thứ hai là gương mẫu trước dân. Khi nói về Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ
Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là của giai cấp công nhân, vừa
là của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Muốn vận động được dân, nhân dân, cả
dân tộc, Đảng phải: vừa là đạo đức, vừa là văn minh; Đảng Cộng sản phải tiêu biểu
cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại; Đảng phải thực sự đoàn kết
nhất trí; được nhân dân thừa nhận.
Muốn dân vận có kết quả tốt, bên cạnh nội dung và phương pháp tuyên truyền,
vận động thì đòi hỏi đạo đức, năng lực của mỗi đảng viên, cán bộ. Cán bộ, đảng
viên phải làm gương trong sáng, không vun vén cho riêng mình, coi lợi ích cho dân
là lợi ích cho mình, sống được dân yêu thương, quý trọng; phải xứng đáng tiên
phong trong mọi công việc, giải quyết tốt những vấn đề thuộc về trách nhiệm của
người cán bộ, đảng viên. Nhân dân trọng đức, nể tài đảng viên, cán bộ là nguyên
nhân căn bản làm nên thành công của công tác dân vận.
Thứ ba là quan tâm và giải quyết lợi ích của dân. Công tác dân vận phải gắn
liền với việc quan tâm và giải quyết lợi ích của nhân dân “việc gì có lợi cho dân
phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Cấp cơ sở là nơi diễn ra phong trào quần chúng, nơi xuất hiện những tài
năng, sáng tạo; nơi thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; là môi trường kinh tế, xã hội và mảnh đất thực tiễn kiểm nghiệm đường lối,
chính sách. Cấp cơ sở là nơi chính quyền gắn liền với nhân dân, chính quyền trong
lòng nhân dân; nơi đội ngũ cán bộ, công chức được rèn luyện, trưởng thành. Công
9
tác dân vận cấp cơ sở không phải là nhiệm vụ riêng biệt nằm ngoài chức năng,
nhiệm vụ của xã, phường, thị trấn, mà nằm ngay trong từng chức năng, nhiệm vụ,
gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ, bổ sung làm tăng hiệu lực, hiệu quả hoạt động của đảng ủy,
chính quyền, MTTQ và các tổ chức đoàn thể xã, phường, thị trấn.
Cấp cơ sở là cấp trực tiếp tổ chức thực thi chính sách, đưa chính sách đến các
tầng lớp nhân dân. Yêu cầu quan trọng hàng đầu của CTDV cấp cơ sở là nắm vững
chủ trương, chính sách để tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn nhân dân thực hiện.
Trong quá trình thực hiện luôn quan tâm tìm cách tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân sản xuất kinh doanh, tạo ra được phong trào thi đua sâu rộng
trên các lĩnh vực đời sống văn hóa xã hội ở cơ sở; đồng thời kiến nghị kịp thời việc
sửa đổi, bổ sung chính sách, làm cho chính sách ngày một hoàn thiện, phù hợp với
tình tình thực tiễn của từng giai đoạn lịch sử và từng địa phương.
1.1.3. Ý nghĩa của dân vận và công tác dân vận cấp cơ sở
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng
nhân dân, như Nguyễn Trãi đã nói: "Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là
dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết". Vai trò to lớn được biểu
hiện ở ba nội dung:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực
tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Song, vai trò của khoa học chỉ có thể phát huy thông qua thực
tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại
và trí thức trong nền sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Điều đó khẳng
định rằng, hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng
xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà
không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản của
cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng.
10
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh
thần. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học,
nghệ thuật, văn học, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực
tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế,
chính trị, đạo đức... của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự
phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại.
Mác và Ăng ghen chỉ ra rằng: Những công việc và tư tưởng của lịch sử đều
là công việc và tư tưởng của quần chúng nhân dân. Quan hệ giữa Đảng cộng sản với
nhân dân là quan hệ gắn bó thống nhất nội tại từ cả hai phía. Tất yếu khách quan sự
ra đời của Đảng đã thể hiện rõ mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và dân tộc.
Lê nin khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Đảng là tổ chức
tự nguyện đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng nhân dân; nhân dân cần có Đảng với tư
cách là người lãnh đạo họ trong cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột, xây dựng xã
hội mới. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, từ sự
đồng tình ủng hộ của nhân dân. Chỉ những ai tắm mình trong nguồn nước tươi mát
của nhân dân thì mới chiến thắng và giữ được chính quyền.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [37, tr.276].
“Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì
làm cũng không nên” [35, tr.293]. Nhân dân luôn được đặt ở vị trí cao nhất trong tư
tưởng của Hồ Chí Minh, bởi “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ” [36, tr.515]. Vì vậy, đối với Đảng ta phải luôn lấy lợi ích của nhân dân,
ấm no, hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu để phấn đấu.
Trình độ nhận thức, điều kiện sinh hoạt, thu nhập, mức sống của các tầng lớp
nhân dân rất khác nhau nên nội dung, phương thức tuyên truyền, tác động đến từng
đối tượng nhân dân cũng phải khác nhau. Nắm vững đối tượng, vận dụng linh hoạt
trong sử dụng các biện pháp, đó chính là tinh thần "Dân vận khéo" như Chủ tịch Hồ
11
Chí Minh đã dạy: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận
kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công. [35, tr.700]
Đảng ta luôn xác định: Dân vận và CTDV là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược
đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự
lãnh đạo của Đảng và củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong điều kiện hội nhập
quốc tế càng đòi hỏi phải phát huy cao độ khối đại đoàn kết và sức mạnh toàn dân
tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu,
thực hiện thành công công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với CTDV trong tình hình mới, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh
chính trị xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) của Đảng đã rút ra 5 bài học, trong đó có bài học: Cách mạng là sự
nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; chính nhân dân là người làm nên
thắng lợi lịch sử; toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện
vọng chính đáng của nhân dân; quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến
những tổn thất đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ và của Đảng. CTDV là
nhiệm vụ chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Công tác dân vận có vai trò rất quan trọng trong quá trình tạo ra sự đồng thuận
xã hội. Qua thực hiện nhiệm vụ, chủ thể CTDV làm cho các tầng lớp nhân dân, các
cộng đồng, các nhóm trong xã hội xác định được vai trò của mình trong đời sống
chính trị. Khi nhân dân đã hiểu đúng, hiểu đầy đủ thì sẽ tạo được sự tự giác trong
thực hiện, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Chính
sách đúng, cơ chế phù hợp còn là yếu tố quan trọng của Nhà nước, của cơ quan chính
quyền trong việc phục vụ nhân dân và phát huy sức mạnh toàn dân. Thông qua
CTDV và CTDV cấp cơ sở giúp người dân biết tìm ra những tương đồng chung, biết
gác lại những khác biệt và hành động trên cơ sở những tương đồng chung ấy. Đó
12
chính là cơ sở để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, phát huy tính tích cực chính trị của
nhân dân, là yếu tố cơ bản để phát huy nội lực của địa phương và của đất nước.
1.2. Nội dung công tác dân vận cấp cơ sở
1.2.1. Nội dung công tác dân vận của tổ chức cơ sở đảng
Một là, tuyên truyền, phổ biến mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng của địa phương đến mỗi người dân. Khắc phục tình trạng chủ trương, chính
sách chỉ mới dừng lại ở cấp xã, không xuống tới dân. Vận động nhân dân thực hiện
nhiệm vụ chính trị trên các lĩnh vực của tổ chức đảng tại địa phương, cơ sở đã vạch
ra. Các mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng,… của địa phương,
cơ sở phải trở thành nội dung cụ thể của phong trào cách mạng quần chúng nhân
dân. Chỉ thông qua phong trào cách mạng của nhân dân mới có khả năng hiện thực
hóa nhiệm vụ chính trị. Do đó, vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị là
nội dung quan trọng của CTDV của tổ chức cơ sở đảng. Tuy nhiên, vận động nhân
dân không chỉ bằng tuyên truyền, giác ngộ mà phải nâng cao đời sống cho nhân
dân. Dân chỉ tin Đảng, theo Đảng, gắn bó với Đảng khi đời sống vật chất, văn hóa,
tinh thần và dân chủ của họ được đảm bảo.
Hai là, vận động và tổ chức nhân dân thực hiện QCDC ở cơ sở, đi sâu, đi sát
nắm bắt tình hình và giải quyết kịp thời những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của
nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan đến dân sinh, dân trí và dân chủ. Phát huy
dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân bằng việc tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện tốt QCDC ở cơ sở. Để nhân dân thực hiện QCDC ở cơ sở, cần nâng cao
nhận thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội
của nhân dân; có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện tốt QCDC ở cơ sở và Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công
dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ đề làm mất an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, chống quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.
13
Ba là, tổ chức và động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền trong sạch, vững mạnh. Tổ chức và động viên nhân dân tham gia góp ý
kiến xây dựng kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Tổ chức và động viên nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức của Đảng, Nhà nước, vận động nhân dân góp ý kiến với
tổ chức đảng và cấp ủy đảng về sự lãnh đạo, phê bình, góp ý cán bộ, đảng viên, v.v..
Có cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch,
vững mạnh thông qua việc thực hiện tốt quy chế giám sát và phản biện xã hội của
MTTQ, các đoàn thể chính trị-xã hội, quy chế để MTTQ, các đoàn thể chính trị-xã
hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Bốn là, chăm lo lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân dân, bao gồm cải thiện
đời sống dân sinh, nâng cao dân trí, phát huy dân chủ, những vấn đề liên quan đến
việc ăn, ở, học hành, công ăn việc làm, thu nhập, hưởng thụ văn hóa và quyền làm
chủ. Xây dựng đội ngũ cán bộ và củng cố MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội,
xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của đoàn viên, hội viên và nhân dân, v.v..
Năm là, tổ chức nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phong
trào nhân đạo, từ thiện, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, an ninh trật tự, sản
xuất kinh doanh, v.v… do chính quyền, MTTQ và các đoàn thể phát động. Bản thân
các tổ chức đảng trực tiếp tiến hành CTDV.
Các tổ chức và các cấp ủy đảng có quyết định đúng đắn về CTDV nói chung
hoặc các quyết định thực hiện các nghị quyết của Trung ương và tổ chức đảng cấp
trên về CTDV. Tất cả các quyết định đó phải được thể hiện bằng văn bản nghị
quyết. Sau khi có nghị quyết, phải coi trọng việc tổ chức thực hiện và kiểm tra,
giám sát việc thực hiện. Các tổ chức đảng, đảng viên đều phải làm CTDV theo chức
trách của mình; phải giáo dục, nâng cao năng lực, đạo đức và tính tiền phong gương
mẫu, tác phong gần gũi quần chúng cho cán bộ, đảng viên. Coi trọng việc bồi
dưỡng về văn hóa, chính trị, nghiệp vụ CTDV và đảm bảo chế độ chính sách đối với
những cán bộ, đảng viên làm chuyên trách CTDV của Đảng. Cấp ủy đảng phải tăng
cường và kiện toàn, đổi mới đội ngũ cán bộ làm CTDV. Cán bộ chủ chốt của Mặt
14
trận phải là những người có năng lực, có uy tín và trưởng thành từ phong trào quần
chúng, được nhân dân tín nhiệm. Các cấp ủy Đảng cần có kế hoạch tổng thể về tạo
nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ làm CTDV để bổ sung cán bộ cho Đảng
và Nhà nước. Phát huy những người có uy tín trong cộng đồng làm CTDV ở cơ sở.
Đảng lãnh đạo chính quyền nhanh chóng thể chế hóa và cụ thể hóa các nghị
quyết của Đảng về CTDV, tạo điều kiện thuận lợi mọi mặt cho nhân dân làm ăn,
sinh sống, học hành, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Đảng coi trọng lãnh
đạo việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tham gia và kiểm tra, giám sát công
việc của Nhà nước theo quy trình “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đảng
lãnh đạo chính quyền tăng cường mối quan hệ với Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân, xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận và các
đoàn thể. Đảng coi trọng lãnh đạo và kiểm tra, giám sát các cấp chính quyền thực
hiện QCDC ở cơ sở, tinh thần phục vụ nhân dân của công chức, viên chức và bộ
máy chính quyền; tiến hành cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng chính
quyền trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội
trước hết là định hướng chính trị, giúp đỡ các tổ chức này xác định mục tiêu, chức
năng, nhiệm vụ. Cần duy trì và thực hiện tốt chế độ làm việc giữa cấp ủy đảng với
lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể, định kỳ nghe báo cáo kết quả hoạt động và đưa
ra các chủ trương, góp ý về chương trình hoạt động, phương hướng công tác của
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, đồng thời tiếp thu những kiến nghị,từng bước
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức và hoạt động. Đối với Mặt trận, Đảng
ủy và chính quyền phải thực hiện thành nền nếp việc cùng bàn bạc, tham khảo ý
kiến của Mặt trận về những quyết định, chủ trương lớn. Qua sinh hoạt Mặt trận,
Đảng tiếp thu những ý kiến đóng góp của nhân dân về sự lãnh đạo của mình.
1.2.2. Nội dung công tác dân vận của chính quyền cơ sở
Một là, tuyên truyền phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và các văn bản của chính quyền cấp trên; đồng thời thực thi các
15
- Xem thêm -