TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
NGUYỄN MỘNG CẦM
MSSV: 6116115
CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT BA LẦN VÀ MỘT LẦN
CỦA CHU LAI
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Văn học
CBHD: Th.S.GV NGUYỄN THỊ KIỀU OANH
Cần Thơ, năm 2014
ĐỀ CƢƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích yêu cầu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
CHƢƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tình hình văn học Việt Nam sau 1975
1.2. Nhà văn Chu Lai
1.2.1. Cuộc đời
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
1.3. Tác phẩm Ba lần và một lần
CHƢƠNG 2 : CON NGƢỜI TRONG CUỘC CHIẾN TRANH ÁC LIỆT
2.1. Con người tranh đấu cho lí tưởng và vượt lên thử thách
2.1.1. Con người chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp
2.1.2. Con người trong cuộc sống khó khăn của chiến tranh
2.2. Con người bị tác động bởi chiến tranh
2.2.1. Con người biến đổi trước nghịch cảnh
2.2.2. Con người gục ngã trong chiến tranh
2.3. Con người chiến tranh với xúc cảm tình yêu
2.3.1. Khát vọng tình yêu trong mỗi trái tim
2.3.2. Tình yêu trong mối tương quan giữa cá nhân và tổ quốc
CHƢƠNG 3 : CON NGƢỜI TRONG CUỘC SỐNG ĐỜI THƢỜNG
ĐA TẠP
3.1. Người lính trong cuộc sống sau chiến tranh
3.1.1. Nỗi hoài niệm đời lính trong cuộc sống đầy biến động
3.1.2. Người lính trong sự vận động của nền kinh tế mới
3.2. Con người tha hóa và con người bi kịch
3.2.1. Con người tha hóa bởi tham vọng
3.2.2. Con người bi kịch trong cuộc sống đời thường
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chiến tranh đã đi qua, nhưng những đau thương mất mát mà nó đem lại chưa
bao giờ kết thúc. Nó vẫn còn mãi vang vọng từ trong quá khứ len lỏi vào cuộc sống
thanh bình hôm nay. Cùng với những đổi thay trên mọi phương diện xã hội, nền văn
xuôi Việt Nam đã kịp thời phản ánh những khía cạnh còn thiếu hụt mà các nhà văn
chưa thể làm được trong những tháng năm đất nước chìm trong khói lửa chiến tranh
thông qua việc quan tâm đến từng số phận, từng cá nhân con người, đặc biệt là những
số phận của người lính trở về từ nơi chiến tuyến.
Trong số các nhà văn bắt đầu cho hành trình mới về đề tài chiến tranh và người
lính, Chu Lai là nhà văn đã đi qua những năm tháng ác liệt đó. Với kinh nghiệm mười
năm cầm súng và hơn ba mươi năm cầm bút, Chu Lai đã tạo cho mình một chỗ đứng
vững chắc trên văn đàn cũng như trong lòng độc giả đương thời. Không đơn thuần viết
về chiến tranh ở việc chỉ ra mối tương quan giữa ta và địch, mà nhà văn còn khai thác
con người ở nhiều bình diện và khuynh hướng khác nhau, bởi cuộc sống thực tế đòi
hỏi nhân vật cũng phải có tiếng nói riêng, thể hiện những tâm tư tình cảm, nhu cầu
phong phú, đa dạng trong đời sống cũng như khát vọng đi tìm hạnh phúc chân chính
và xây dựng cuộc đời mới.
Văn xuôi Việt Nam không ngừng thay đổi về đề tài, đồng thời, cách nhìn nhận
về con người cũng không ngừng phát triển qua từng giai đoạn văn học. Với việc
nghiên cứu “Con người trong tiểu thuyết Ba lần và một lần của Chu Lai,” người viết
sẽ bắt đầu khám phá tác phẩm để thấy được quan niệm của nhà văn Chu Lai về con
người trong và sau chiến tranh. Ngoài ra việc nghiên cứu này đóng vai trò quan trọng
trong việc nhìn nhận và đánh giá một cách toàn diện, khách quan sự đổi mới của nền
văn học nước nhà thời hậu chiến.
Tìm hiểu con người trong tiểu thuyết Chu Lai, người viết nhận thấy đây là đề tài
hữu ích cho công tác nghiên cứu và học tập. Mặc dù Chu Lai là một nhà văn còn rất
mới đối với người viết, và hành trình sáng tác của tác giả vẫn chưa hoàn thiện, nhưng
với sự đam mê văn học và mong muốn tìm hiểu sâu thêm tác phẩm của Chu Lai,
chúng tôi quyết định chọn đề tài “Con người trong tiểu thuyết Ba lần và một lần của
1
Chu Lai” làm đề tài nghiên cứu. Qua đây góp phần nhận diện con người một cách khái
quát hơn, hoàn thiện hơn qua cách nhìn nhận về con người của nhà văn Chu Lai.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay, Chu Lai được độc giả biết đến với nhiều tác phẩm có giá trị. Ông
đề cập đến nhiều vấn đề của cuộc sống xã hội, trong đó nổi bật nhất là đề tài về những
người lính trong chiến tranh và trong hòa bình. Đặc biệt, ở thể loại tiểu thuyết ông đã
gặt hái được nhiều thành công. Đã có nhiều công trình nghiên cứu và những bài báo
viết về tác phẩm của ông. Trong số đó có bài phỏng vấn: Nhà văn Chu Lai: Viết, nỗi
cơ cực dịu dàng của Hồng Thanh Quang. Khi nói đến các đề tài được nhà văn khai
thác, bài viết có những dòng như sau: “Viết gì thì viết, kinh tế, đời thường hay tuổi
trẻ… hình ảnh người lính, hình ảnh những cánh rừng bom đạn vẫn cứ mặc nhiên xen
vào một cách vô thức. Vì thực chất chiến tranh có nhiều chiều kích rất phức tạp và con
người cũng có vô vàn sự rối rắm đan xen trong tâm hồn, nếu không cẩn thận anh sẽ
mô tả người lính chỉ toàn dàn hàng ngang tiến lên như những chiến binh robot không
có tâm hồn, không có nội tâm, không có giằng xé, trăn trở gì cả. Cũng như chỉ thấy ta
là hoàn hảo, còn kẻ thù là một đám sinh vật tanh tưởi vứt đi hết.”[11]. Trong bài
phỏng vấn nhà văn như khẳng định viết về đề tài chiến tranh là điều mặc nhiên không
tránh khỏi những đau thương mất mát. Trong cách nhìn nhận về con người chiến tranh,
về những số phận bị chiến tranh cuốn vào vòng xoáy khói lửa, ai cũng có những suy
tư, trăn trở, những góc khuất trong tâm hồn không chỉ có ta là nạn nhân của chiến
tranh, mà cả những người lính bên kia chiến tuyến. Đó là một cái nhìn mới mẻ về
chiến tranh của nhà văn.
Còn trong bài Cảm nhận sự đổi mới trong quá trình tìm tòi của Chu Lai (Tạp
chí Văn nghệ Quân đội số 5 năm 1991), Hồng Diệu đã viết: “Tiểu thuyết của Chu Lai
đề cập đến nhiều vấn đề. Nhưng bao trùm lên tất cả là chuyện những người lính sau
chiến tranh rời chiến trường trở về, người thì tha hóa người thì bước vào cuộc chiến
đấu mới. Cuộc chiến đấu của những người lương thiện chống kẻ bất lương, mà thật
trớ trêu có những người trước kia là đồng đội của nhau, nay đứng trên hai mặt trận
đối lập”. [1]. Bản chất người lính thật sự được bộc lộ dưới ngòi bút của Chu Lai,
người lính không chỉ là những cổ máy chỉ biết chiến đấu mà trong họ cũng có những
2
góc khuất đen tối của tâm hồn. Bằng những trang tiểu thuyết phơi bày hiện thực, Chu
Lai đã mang đến cho ta những cái nhìn mới về nhiều khía cạnh trong chiến tranh.
Trong Một đề tài không cạn kiệt, Bùi Việt Thắng đã nêu ra một số điểm cốt lõi
trong việc phản ánh vấn đề con người thông qua việc khắc họa đời sống tinh thần
người lính: “Nhân vật Chu Lai được thể hiện như những con người tâm linh. Họ sống
bởi những ám ảnh của ảo giác, hối thúc bởi sự sám hối, luôn tìm kiếm sự giải thoát.
Đó là những con người trở về sau chiến tranh bị mất thăng bằng, khó tìm được sự yên
ổn trong tâm hồn.” [8]. Đa số nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai có đời sống tinh thần
bất ổn. Với mỗi nhân vật, nhà văn thường đi sâu khai thác những suy tư, trăn trở. Ông
mang đến cho độc giả nhiều bất ngờ thú vị, bởi những tìm kiếm sâu rộng về chính con
người trong thế giới nhân vật mà ông tạo ra.
Khi nói đến Nội lực của Chu Lai, Bùi Việt Thắng đã nhắc đến quan niệm nghệ
thuật về con người của nhà văn thông qua hai loại nhân vật đó là nhân vật nữ và nhân
vật người lính. Khảo sát nhân vật nữ, Bùi Việt Thắng cho rằng: “Trong tiểu thuyết Chu
Lai nhân vật nữ chiếm vị trí quan trọng, là điểm sáng của tác phẩm, là “dây neo trần
gian” đối với các nhân vật khác. Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Chu Lai là những con
người hành động nên tâm hồn họ khỏe khoắn, trong sáng và rạch ròi.” [9]. Còn với
nhân vật người lính tác giả đưa ra nhận định khá chuẩn xác: “Nhân vật người lính
trong tiểu thuyết Chu Lai thường ăn sóng nói gió, thường bị cuộc đời quằng quật, đều
được tôi luyện qua lửa đỏ và nước lạnh - vì thế họ trở nên rắn rỏi, từng trải, quyết
đoán và sắc bén trong hành xử. Điều đáng chú ý là mỗi nhân vật người lính lại thường
“cặp” với một nhân vật nữ xinh đẹp.” [9]. Chúng ta có thể thấy rõ điều này khi tiếp
xúc với nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai, đặc biệt là trong tác phẩm Ba lần và
một lần.
Trực tiếp bàn về hình tượng của người lính trong mối tương quan giữa thời
chiến và thời bình. Chu Lai nhận xét: “Người lính là đại diện cho phẩm chất dân tộc,
mà người lính không chỉ bộc lộ phẩm cách trong chiến tranh. Gần đây trong cơ chế thị
trường, người lính cũng đóng góp lớn về ý chí và nghị lực làm kinh tế. Họ vừa biết
đánh giặc, vừa làm kinh tế. Và đánh giặc quen rồi, khi làm kinh tế họ phải chuyển đổi
toàn bộ con người của mình và phải trả giá.” [10]. Cách nhìn nhận này của tác giả thể
hiện sự khám phá trong ý thức con người. Qua đó độc giả sẽ hiểu rõ về cuộc chiến, về
đời sống của những con người bước ra từ chiến tranh.
3
Trong bài phỏng vấn về nhà văn Chu Lai: Còn sống còn viết về chiến tranh để
đền đáp ân tình đồng đội, khi đề cập đến hiện thực trong tác phẩm Chu Lai, có những
dòng như sau: “Hiện thực trong những tác phẩm của ông được đề cập đến tận cùng
của sự trần trụi và tàn khốc, bên cạnh những trang viết với những mối tình, người tình
lãng mạn như những bài thơ. Không chỉ thế, Chu Lai cũng gặt hái được những thành
công nhất định khi thể hiện cái nhìn sắc sảo của mình về cuộc sống hôm nay.” [10].
Mặc dù không trực tiếp nêu ra những nhận đinh về con người trong tiểu thuyết Chu
Lai, nhưng thông qua nhận định trên chúng ta có thể thấy được cái nhìn mới mẻ về
hiện thực của chiến tranh, về con người trong cuộc sống thực tại của nhà văn.
Đồng thời tiểu thuyết Chu Lai cũng thể hiện số phận bi kịch của con người. Vấn
đề này được bàn đến trong bài viết Cuộc đời dài lắm – một tiểu thuyết có sức hấp dẫn.
Nguyễn Thanh Tú đã đề cập tới lối xây dựng nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai: “Ngòi
bút tiểu thuyết Chu Lai vẫn cách xây dựng nhân vật đẩy đến tận cùng của bi kịch. Có
thể nói một cách khái quát là con người của bi kịch, con người của những mâu thuẫn,
có khi thật quyết liệt dữ dội, có số phận tận cùng ngang trái, có nhân cách vô cùng
cao thượng” [5;tr.101]. Chúng ta có thể thấy rõ điều này khi tiếp xúc với thế giới nhân
vật đa đoan trong tiểu thuyết của ông nói chung và tiểu thuyết Ba lần và một lần nói
riêng, đặc biệt là nhân vật chính trong tác phẩm. Qua đây ông thầm gửi gắm những
tâm tư tình cảm và những vấn đề cấp bách của cuộc sống vào chính nhân vật của mình.
Qua Nhân vật người lính trong văn học, Chu Lai đã bộc lộ quan niệm của mình
về vấn đề con người thời chiến. Theo ông, “Chiến tranh và chiến hào bao giờ cũng là
một dung dịch cực mạnh nhỏ xuống để con người hiện lên hết màu hết nét. Chiến
tranh không có chỗ cho sự giả trá nương náu. Cái gì ra cái nấy, chẳng thể lập lờ đánh
lận con đen. Cái cao cả, cái thấp hèn, cái trung thực, cái lắt lay, điều vị tha và sự độc
ác… bao giờ cũng bộc lộ đến tận cùng. Và như thế trong làn ranh giới giữa sống và
chết, con người thể hiện chính cốt cách văn hóa ứng xử của mình.” [2]. Thật vậy để
phơi bày những suy nghĩ và tình cảm mãnh liệt của nhà văn đối với con người thời
chiến, tác giả đã không ngần ngại viết nên những trang văn chân thực và đầy triết lí.
Chiến tranh luôn mang đến sự tàn khốc cho bất cứ dân tộc nào, dù cuộc chiến
đó có chính nghĩa hay phi nghĩa. Chu Lai bằng ngòi bút dày dặn kinh nghiệm đã bóc
trần hết những bi kịch của thời chiến, nhưng đằng sau cái bi đó là cả một thời kỳ hùng
4
tráng chẳng thể phủ nhận của dân tộc. Chu Lai đặc biệt khẳng định:“Chiến tranh với
tất cả hình thái đặc thù của nó, hoàn toàn có thể đẩy nhân vật người lính đến tận cùng
số phận. Và chính với cái ý nghĩ tận cùng đó, người lính bỗng vỡ toạc ra tất cả những
khái niệm bị đánh loãng ra không nắm bắt được. Như vậy chiến tranh không phải biến
con người thành những chi tiết máy trong một cổ máy bạo lực chỉ biết bấm cò và chém
giết.” [2]. Những ý kiến và nhận xét trên phần nào giúp chúng ta hiểu rõ hơn con
người phức hợp trong tiểu thuyết Chu Lai.
Trên đây là những tài liệu bổ ích trong quá trình nghiên cứu vấn đề Con người
trong tiểu thuyết Ba lần và một lần của Chu Lai. Chúng tôi xem đây là những nhận
định mang tính tham khảo. Từ đó có cái nhìn khách quan hơn về vấn đề nghiên cứu.
3. Mục đích yêu cầu
Nghiên cứu đề tài “Con người trong tiểu thuyết Ba lần và một lần của Chu
Lai” chúng tôi đi sâu vào khám phá con người trên nhiều bình diện trong tác phẩm Ba
lần và một lần ở góc độ nhìn nhận về con người của tác giả. Từ đó ta thấy được những
chuyển biến đổi mới trong chặng đường sáng tác của tác giả, góp phần khẳng định
những đóng góp của ông trong quá trình đổi mới văn học. Đồng thời quá trình tìm hiểu
này là bước đầu rèn luyện cho người viết kỹ năng, phương pháp nghiên cứu văn học.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này chúng tôi tập trung đi sâu vào khảo sát vấn đề quan niệm nghệ
thuật về con người trong tác phẩm Ba lần và một lần. Ngoài ra trong quá trình khảo
sát chúng tôi có tìm hiểu thêm tác phẩm Chỉ còn một lần. Đây là tác phẩm tiếp nối
theo tiểu thuyết Ba lần và một lần. Bên cạnh đó chúng tôi còn khảo sát một số tài liệu
tham khảo như Tạp chí Văn nghệ Quân đội với những bài viết có liên quan, cùng các
sách tham khảo bao gồm lí luận văn học, thi pháp học, văn học Việt Nam sau 1975…
tất cả đều nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu mang tính xác thực hơn.
5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề “Con người trong tiểu thuyết Ba lần và một lần của Chu
Lai” là đi sâu tìm hiểu cảm hứng sáng tạo của nhà văn. Để làm rõ vấn đề nghiên cứu
chúng tôi xác định phương hướng triển khai và phối hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu như sau:
Phương pháp tiểu sử: Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi có kết hợp tìm hiểu
hoàn cảnh sống, quan niệm sống của nhà văn để hỗ trợ cho việc nhìn nhận và lí giải
vấn đề một cách khách quan. Bởi quan niệm nghệ thuật về con người là gắn liền với
dấu ấn sáng tạo của nhà văn.
Phương pháp so sánh: Với phương pháp này, chúng tôi sử dụng nhằm mục đích
làm nổi bật vấn đề nghiên cứu trong mối tương quan giữa các tác phẩm khác cùng đề
tài.
Phương pháp hệ thống, phân loại: Việc vận dụng phương pháp này nhằm giúp
chúng tôi xác định được hệ thống nhân vật, cùng sự phân tuyến nhân vật trong tác
phẩm. Trên cơ sở đó thấy được ý đồ xây dựng nhân vật của tác giả.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi còn kết hợp sử dụng các thao tác
như phân tích, giải thích, chứng minh…để làm rõ vấn đề đặt ra.
6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Tình hình văn học Việt Nam sau 1975
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước khép lại với thắng lợi vẻ vang của toàn
dân tộc đó cũng là lúc con người, xã hội Việt Nam đối đầu với những khó khăn chồng
chất và không ít thử thách hiểm nghèo của thời hậu chiến. Nhưng không gì có thể quật
ngã được một dân tộc kiên cường với ý chí bất khuất. Họ đã vượt qua những thử thách
khó khăn thời hậu chiến, vững bước trên con đường đổi mới. Đồng thời với sự đổi
thay của lịch sử thì nền văn học cũng không ngừng vận động phát triển. Văn học vốn
là tấm gương phản chiếu cuộc sống qua những thăng trầm của lịch sử dân tộc. Từ sau
1975 văn học trải qua nhiều thử thách gay gắt và đã có những biến đổi sâu rộng về mọi
mặt. Tìm hiểu nền văn học Việt Nam thời kỳ sau 1975, chúng tôi nhận thấy có những
đặc điểm cơ bản như sau:
Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa. Xuôi dòng lịch sử theo tiến trình
vận động của văn học, ta nhận thấy xu hướng dân chủ hóa chỉ mới xuất hiện trong văn
học sau 1975 và nhất là từ giữa những năm 80 trở đi: “Dân chủ hóa là xu thế lớn của
xã hội và đời sống tinh thần của con người, cũng đã trở thành xu hướng vận động bao
trùm của nền văn học.” [4;tr.48]. Nếu văn học giai đoạn trước như là vũ khí tư tưởng
cách mạng, thì văn học thời kỳ này lại giữ vai trò, khám phá hiện thực cuộc sống đời
thường thông qua số phận của những con người cá nhân. Văn học là phát ngôn của
mỗi cá nhân, không còn là tiếng nói chung của toàn dân tộc. Đội ngũ nhà văn thời kỳ
này cũng có nhiều sự đổi mới trong cách viết. Nhà văn viết trên tinh thần khai thác
chiều sâu của nhận thức và tâm hồn trong mỗi cá nhân, lên tiếng cho những khát vọng
riêng tư của con người thời đại. Trong nền văn học hướng tới tinh thần dân chủ hóa
đòi hỏi phải thừa nhận tư tưởng và cái nhìn riêng của mỗi người, phải để tác phẩm
chảy theo dòng hiện thực của cuộc sống, tác giả phải tự mình đổi mới ngòi bút và tự
tìm tòi hướng đi riêng cho mình.
Cùng với sự thay đổi này, quan niệm về hiện thực cũng được mở rộng. Không
chỉ nói về những biến cố lịch sử lớn lao của đất nước, mà còn hướng đến đời sống
hàng ngày trong mối quan hệ phức tạp, đa đoan của con người. Sự vận động theo
7
hướng dân chủ hóa đã tạo ra một không gian mở để các nhà văn có thể phát huy cá
tính sáng tạo của mình ở cả hai mặt nội dung và hình thức.
Sự vận động theo hướng dân chủ hóa, kéo theo là sự thức tỉnh ý thức cá nhân là
cảm hứng bao trùm của văn học. Chiến tranh kết thúc, con người quay lại với cuộc
sống đời thường, phải đối mặt với không ít khó khăn bởi những biến động và đổi thay
của xã hội, trong hoàn cảnh đó đã thúc đẩy sự thức tỉnh ý thức cá nhân, đòi hỏi phải có
sự quan tâm đến mỗi người và từng số phận. Chính vì sự thức tỉnh của hệ ý thức cá
nhân đã mở ra cho văn học nhiều đề tài và chủ đề mới. Làm thay đổi quan niệm về con
người của nhiều cây bút.
Văn học bấy giờ lấy con người làm trọng tâm chủ yếu để khai thác và khám
phá. Từ đó làm thước đo giá trị cho mọi vấn đề xã hội. “Điều dễ nhận ra là trong phần
lớn các tác phẩm văn học thời kỳ này, con người không còn là nhất phiến đơn trị, mà
luôn là con người đa diện, đa trị, lưỡng phân. Trong con người đan cài chen lấn, giao
tranh bóng tối và ánh sáng, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và quỷ sứ, cao cả và
bình thường.” [4;tr.55]. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân được đặt ra trong văn học thời kỳ
này không ngoài mục đích hướng người đọc sống cao đẹp, thực tại hơn và luôn hoàn
thiện nhân cách.
Sau 1975, văn học phát triển phong phú đa dạng, hướng tới tính hiện đại nhưng
không kém phần phức tạp. Trong nền văn học lúc này là cảnh tượng đa sắc màu,
hương vị, nhiều dáng vẻ, thậm chí có cả những hiện tượng kì dị, lạ lùng. Đó là sự phát
triển phong phú đa dạng ở nhiều bình diện. Nhưng đồng thời cũng đi kèm theo sự
phức tạp, không ổn định. Cùng với sự chi phối của cơ chế thị trường đã tạo nên đặc
điểm tất yếu của giai đoạn văn học sau 1975. Điều này được thể hiện trong các tác
phẩm như: Tiểu thuyết Nắng đồng bằng của Chu Lai, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh, Những vùng rừng không dân của Phạm Tiến Duật… và nhiều tác phẩm khác
mang đề tài phong phú và đa dạng ở nhiều lĩnh vực đời sống con người.
Về phương diện thể loại, văn học Việt Nam sau 1975 có những bước phát triển
đáng kể trong quá trình đổi mới. Văn xuôi bên cạnh các thể loại quen thuộc là truyện
ngắn, tiểu thuyết, tùy bút, thì hồi kí xuất hiện nhiều, có sự thu hút khá mạnh mẽ đối
với người đọc.
8
Về thơ, các nhà thơ có ý thức tìm hiểu và khai thác triệt để thế mạnh của các thể
thơ truyền thống, phù hợp với nhu cầu thẩm mĩ mới. Thơ trong giai đoạn này cảm
hứng lãng mạn lắng dần và xuất hiện những cảm xúc xót xa cho số phận con người,
nhìn nhận cuộc sống đa chiều đa diện hơn. Là thế hệ nhà thơ lớp trước cách mạng
tháng Tám, Chế Lan Viên sớm có những thay đổi trong cách nhìn, cách nghĩ, ông suy
ngẫm nhiều về thân phận con người sau chiến tranh, tất cả đều được thể hiện trong
sáng tác của ông như Thời thượng, Ai? Tôi!, Tìm đường…nhà thơ trăn trở, băn khoăn
khi nghĩ về cuộc sống hiện nay. Trước sự thay đổi của cuộc đời, Tố Hữu nhà thơ của
cách mạng, của những niềm vui, niềm kiêu hãnh một thời giờ đây cũng mang nỗi buồn
ưu tư, ngậm ngùi với Một tiếng đờn, Nguyễn Khoa Điềm cũng mang đến cho người
đọc một bức tranh với nhiều trăn trở suy tư trong tập thơ Cõi lặng mang nặng nỗi buồn
nhân thế và thắm đượm niềm tin yêu vào cuộc sống. Còn bao nỗi niềm trăn trở khác
trong nhiều bài thơ khác như: Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, Nhìn từ xa…tổ
quốc của Nguyễn Duy, Ngày hòa bình đầu tiên của Phùng Khắc Bắc, Có một chiều
tháng năm của Đỗ Trung Quân, Mẹ tôi người hay lo của Đỗ Minh Tuấn, Hai đời làm
mẹ của Trầm Hương… Trong bối cảnh đời sống xã hội sau 1975, thơ mới với nỗi
buồn cô đơn của cái tôi được thể hiện rất đa dạng và phong phú. Thơ thời kỳ này có
khuynh hướng hướng nội. Nổi bật lên là các tác giả Hoàng Trung Thông với các bài
thơ Bao giờ trở lại, Bài ca vỡ đất, Mời trăng, Chế Lan viên với bài thơ Hoa lau
đường 9, Xuân Quỳnh với bài Tự hát, Vĩnh Quang Lê với bài Nếu người lính chúng
tôi vắng thiếu nỗi buồn, Nguyễn Thị Hồng Ngát với bài Một chút vu vơ…
Bên cạnh đó, thơ Việt Nam sau 1975 còn viết về tình yêu đôi lứa, thế giới thơ
tình thời này có đủ những cung bậc tinh tế của nó, không chỉ mang những nét đặc
điểm chung của thơ tình mà con đa dạng, phức tạp và trần tục hơn so với thơ viết về
tình yêu trước đó. Với Nguyễn Thị Hồng Ngát, tình yêu còn được diễn tả với sắc thái
mới trong bài Cho người em yêu mến, hay sự giải bày nỗi nhớ, niềm khao khát về tình
yêu trong bài thơ Hai nửa vầng trăng của Hoàng Hữu, niềm hạnh phúc đến ngỡ ngàng
của Hoàng Vũ Thuật trong bài thơ Khoảnh khắc…cũng trong tâm trạng đó Hữu Thỉnh
đã sáng tác bài Em còn nhớ chăng, Anh Ngọc với bài Chẳng bao giờ, Phan Thị
Thanh Nhàn với bài Yêu.
9
Tóm lại tình yêu trong thơ sau 1975 rất đặc sắc ở mọi phương diện. Dù thể hiện
niềm vui hay hạnh phúc, nỗi đau bất hạnh, nhưng những vần thơ tình đều giúp người
đọc cảm nhận sâu xa hơn về vẻ đẹp tình yêu trong cuộc sống. Ngôn ngữ thơ sau 1975
có sự biến đổi theo hướng tăng cường chức năng biểu đạt, ngôn ngữ hướng đến sự tinh
diệu trong sáng, đặc biệt trong thơ thời kì này có sự xuất hiện một lớp từ ngữ có sắc
thái đời thường suồng sã mà trong thơ ca trước đó ít xuất hiện.
Văn xuôi giai đoạn sau 1975 có những đổi mới quan trọng về nội dung và nghệ
thuật. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới nhân vật. Bên cạnh việc
ca ngợi cái đẹp thì nhà văn được phép viết nhiều hơn về những mặt trái của xã hội,
như tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không
chồng của Dương Hướng, Chuyện làng Cuội của Lê Lựu, Mùa lá rụng trong vườn
của Ma Văn Kháng…trong bối cảnh hòa bình, cuộc sống dần bộc lộ ra những mặt
phức tạp mà cách cắt nghĩa giản đơn, công thức như trước đây không còn thuyết phục
nữa. Nhà văn cũng nhận ra rằng ý nghĩa lâu bền của tác phẩm không nằm ở dung
lượng hiện thực được phản ánh mà còn phụ thuộc vào độ nghiền ngẫm, vào chiều sâu
tư tưởng, tình cảm mà người viết gửi gắm trong đó. Đó là cơ sở để hàng loạt tác phẩm
ra đời soi chiếu vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau như Tướng về hưu của Nguyễn Huy
Thiệp, Thời gian của người, Một cõi nhân gian bé tí, Ông đại tá về hưu của Nguyễn
Khải, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Thời xa vắng của Lê Lựu, Ăn mày dĩ
vãng của Chu Lai…
Trong văn xuôi thời kì đổi mới, nhân vật dần trở về với quan hệ đa chiều như
nó vốn có, nhân vật có cấu trúc nhân cách phức tạp, không thể phân tuyến một cách
rạch ròi. Quá trình tự nhận thức của nhân vật ghi nhận sự phát triển mới của tư duy
nghệ thuật, gắn liền với ý thức ngày càng cao của nhà văn về những giá trị cá nhân, rất
nhiều cây bút thành công với kiểu nhân vật tự nhận thức, luôn triền miên trong dòng
hồi ức, độc thoại tâm linh để tự thú, sám hối, phản tỉnh. Có thể kể những tên tuổi tiêu
biểu: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang Sáng, Lê
Minh Khuê, Tạ Duy Anh…trong nghệ thuật trần thuật cũng có những đổi mới đáng kể.
Màu sắc hướng ngoại trong văn học giảm hẳn đi. Giọng điệu trần thuật chuyển từ chủ
yếu là trang trọng ngợi ca, phán truyền một chiều sang giọng đối thoại chân tình, cởi
mở, bình đẳng. Hình thức trần thuật bằng ngôi thứ nhất Tôi cũng được sử dụng khá
10
phổ biến, khiến cho khoảng cách giữa nhà văn với độc giả, giữa trang viết với cuộc đời
càng gần nhau hơn.
Nhìn chung ở mỗi thể loại đều có sự phát triển vượt bậc riêng. Để quá trình
sáng tác thêm đa dạng và phong phú thì đòi hỏi các nhà văn phải có sự tiếp thu và cảm
nhận sâu sắc sự biến đổi của nền văn học hiện đại. Để có cái nhìn bao quát và chính
xác những đặc điểm của nền văn học Việt Nam thời kỳ sau 1975 các nhà nghiên cứu
văn học cần giành nhiều thời gian để xem xét và tìm hiểu vì quá trình vận động của nó
vẫn còn tiếp diễn và phát triển trong sự đổi mới của đất nước. Đối với chúng tôi những
đặc điểm cơ bản xuyên suốt của nền văn học sau 1975 chỉ mới được tìm hiểu ở mức
khái quát như những gì đã được trình bày trên đây.
1.2 Nhà văn Chu Lai
1.2.1 Cuộc đời
Chu Lai tên khai sinh là Chu Văn Lai sinh ngày 5/2/1946 tại xã Hưng Đạo,
huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Gia đình sớm chuyển lên Hà Nội sinh sống. Ông là
đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam, hội viên hội Nhà văn Việt Nam. Chu Lai
nhập ngũ khi ông kết thúc năm đầu tiên trên giảng đường Đại học Quân y. Thời gian
đầu bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Chu Lai xin nhập ngũ và được
phân công công tác trong Đoàn Kịch nói Tổng cục Chính trị. Thế nhưng do chưa toại
nguyện với vai diễn viên mặc áo lính, ông xin được cầm súng trực tiếp trên chiến
trường. Từ đó, Chu Lai trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động tại vùng ven sông Sài
Gòn và chiến đấu trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, ác liệt cho đến ngày đất nước
thống nhất.
Sau 1975 khi đã tốt nghiệp tại trường viết văn Nguyễn Du, ông làm việc cho
Tạp chí Văn nghệ Quân đội trong vai trò biên tập và sáng tác cho đến ngày nay, ngoài
ra ông còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Ông
đã từng nhận giải thưởng Hội đồng Văn học chiến tranh Cách mạng và lực lượng Vũ
trang (Hội nhà văn) cho tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng (1993). Đây là tiểu thuyết gây cho
ông nhiều tiếng vang trên văn đàn bấy giờ. Ngoài ra ông còn nhận các giải thưởng như
Giải thưởng Văn học Bộ quốc phòng 1994, giải thưởng tiểu thuyết nhà xuất bản Hà
Nội với tiểu thuyết Phố (1993), giải thưởng nhà nước về Văn học Nghệ thuật 2007.
11
Qua những gì ta biết về Chu Lai, có thể thấy được ở ông có sự kết hợp hài hòa
giữa con người cách mạng và con người văn chương. Sự kết hợp đó tạo thành một hệ
thống nhất làm nên nét đặc trưng trong phong cách sáng tác của Chu Lai.
1.3.2 Sự nghiệp sáng tác
Chu Lai đã sống giữa những năm tháng chiến tranh đầy ác liệt, đã nếm trải cuộc
đời gian khổ của người làm cách mang. Và sau khi hòa bình lập lại thì chính những
trải nghiệm và hoài niệm đó đã giúp ông cho ra đời những trang tiểu thuyết về chiến
tranh đầy tâm huyết. Chu Lai từng nói:“Lịch sử Việt Nam là lịch sử trận mạc, con
người Việt Nam dù không muốn cũng là con người trận mạc nên dấu vết chiến tranh
vẫn in hằn trong từng ngõ xóm, trong từng tư duy, trong từng tâm hồn, tâm thế con
người kể cả thế hệ hôm qua và thế hệ hôm nay.”[8]. Với những kinh nghiệm của một
người từng trải qua cuộc chiến tranh đẫm máu của dân tộc, tác giả cảm nhận sâu sắc
được sự mất mát lớn lao của dân tộc nói chung và những người làm cách mạng nói
riêng. Cho nên đa phần những sáng tác của ông đều nói về người lính. Với ông, kỉ
niệm về những năm tháng chiến tranh là một gia sản vô giá:“Dù có ngã sang bất cứ
một hướng đề tài nào nhưng rồi cuối cùng vẫn quay về đề tài người lính và chiến
tranh cách mạng như là một đề tài quen thuộc, gần gũi nhất mà người ta chỉ có thể
viết tâm huyết được những gì người ta sờ thấy, ngửi thấy hình hài, hồn khí của nó.”[8].
Chu Lai đến với chiến tranh và những con người của chiến tranh trên một bình diện và
khía cạnh mới. Trong đó không thiên về ca ngợi những con người hào hùng của trận
mạc, mà thay vào đó là một sự lột xác hoàn toàn, với những tác phẩm khai thác những
góc khuất trong tâm hồn của người lính thời chiến cùng với sự tha hóa biến chất trong
người lính thời hậu chiến, vạch trần những nỗi bi lụy của người làm cách mạng. Qua
những trang viết của Chu Lai ta cảm nhận hình tượng người lính chân thật và đời
thường hơn.
Từ những lai láng khổ đau, từ máu thịt của đồng đội và của chính mình, Chu
Lai đã cho độc giả biết đến chiến tranh qua những trang tiểu thuyết và truyện ngắn
mang đầy hoài niệm của ông về một thời máu lửa. Với các tác phẩm tiêu biểu như sau:
Về tiểu thuyết:
Nắng đồng bằng (1978)
Đêm tháng hai (1979)
12
Sông xa (1986)
Gió không thổi từ biển (1984)
Vòng tròn bội bạc (1987)
Bãi bờ hoang lạnh (1990)
Ăn mày dĩ vãng (1991)
Phố (1992)
Ba lần và một lần (1999)
Cuộc đời dài lắm (2001)
Chỉ còn một lần (2006)
Khúc bi tráng cuối cùng (2004)
Người im lặng (2005)
Hùng karô (2009)
Về truyện ngắn:
Kỉ niệm vùng ven (1976)
Đôi ngã thời gian (1979)
Vùng đất xa xăm (1981)
Út Teng (1983)
Phố nhà binh (1992)
Truyện ngắn Chu Lai (2005).
Số lượng tác phẩm không quá lớn nhưng đó cũng là một phần đóng góp tiêu
biểu cho nền văn học nước nhà sau 1975. Chu Lai đã hiến dâng cuộc đời mình cho sự
nghiệp văn chương từ trong chiến tranh đến hòa bình, để lại trong lòng bạn đọc nhiều
ấn tượng thông qua những trang viết đầy tâm huyết. Cũng chính vì sự miệt mài không
mệt mỏi trong sự nghiệp sáng tác, mà ông đã nhận được những phần thưởng đáng giá
cho cuộc đời hoạt động văn chương của mình.
1.4 Tác phẩm Ba lần và một lần
Tác phẩm Ba lần và một lần được xuất bản năm 1999. Đây cũng là một trong
những tiểu thuyết nằm trong dòng chảy viết về chiến tranh của ông, lấy những trải
nghiệm về chiến tranh làm nguồn cảm hứng cho đề tài sáng tác với nhiều dạng thức đa
dạng của hệ chủ đề.
13
Ba lần và môt lần kể về cuộc sống của người lính trở về sau chiến tranh, nhân
vật chính của tác phẩm là Sáu Nguyện và Năm Thành. Họ vốn là đồng đội của nhau
trong thời kì chiến tranh. Tuy nhiên họ cũng chính là đại diện cho sự phân chia lực
lượng mang tính nội bộ trong công cuộc cách mạng lúc bấy giờ. Sáu nguyện là hiện
thân cho những con người chân chính, là người lính kiên trung giàu lòng nhân hậu và
chiến đấu hết mình cho sự nghiệp chung của dân tộc. Còn Năm Thành là tên phản trắc,
bất trung và đầy rẫy tội ác. Khi hòa bình lập lại, đất nước bước vào thời kì xây dựng và
phát triển trong nền kinh tế thị trường thì Sáu Nguyện và Năm Thành lại có một cuộc
chạy đua sau trận mạc. Năm Thành vẫn tính nào tật nấy, lợi dụng khe hở của pháp luật
làm chuyện phi pháp, đè đầu, cưỡi cổ những người lao động chân chính và họ cũng
chính là những người đồng đội, cùng vào sinh ra tử với Năm Thành thời chiến. Sáu
Nguyện không thể đứng nhìn trước những tội ác của kẻ tội đồ năm xưa. Một lần nữa
hai con người từng đứng trên cùng một trận mạc, nay trở thành hai phía đối nghịch
nhau, thật trớ trêu thay cho cuộc đời của người làm cách mạng. Sáu Nguyện, người
lính quân báo luôn tận lực vì nhiệm vụ, lại luôn bị cuộc đời bỡn cợt. Trong chiến tranh
bị người bạn thân là Năm Thành phản bội, khi hòa bình cũng lại bị con người tên
Thành Long (Năm Thành) làm cho cuộc sống lận đận, lao đao. Ba lần Năm Thành có
tội nhưng ông vẫn tha. Lần thứ nhất ông dằn vặt tha thứ khi Năm Thành chiêu hồi cầu
an, vì ông cho rằng sự yếu đuối của con người trong chiến tranh quá tàn khốc. Lần thứ
hai ông đau đớn tha thứ khi Năm Thành cướp đi người phụ nữ ông yêu thương nhất, vì
cho rằng cái mất mát của mình xét đến cùng cũng là vô nghĩa so với sự mất mát của
toàn dân tộc. Ông cũng lại tha thứ lần thứ ba sau hai mươi năm, khi Năm Thành chà
đạp lên tất cả và phạm vào nhiều tội ác. Vì ông cho rằng đặt Năm Thành với cuộc sống
ngang ngửa chụp giật cũng là vô nghĩa. Nhưng lần cuối cùng khi Năm Thành thản
nhiên đứng nhăn răng ra cười khi một con đàn bà ngoại quốc của tộc người ngày xưa
đã sang đây mổ bụng, ăn gan người Việt mình…Dám cầm dép đập vào giữa mặt công
nhân… Đây là cái nhục lịch sử cái nhục quốc thể… Thì khi ấy thay mặt những người
đã chết và những người đang sống, Sáu Nguyện không thể tha thứ. Quả thật với Sáu
Nguyện cuộc đời đã nếm đủ buồn vui, sướng khổ, học được bài học thể tất bao dung.
Nhưng chính cuộc đời nó lại bảo có những điều không thể bao dung, thể tất được. Nếu
cái gì cũng nhắm mắt bỏ qua hết thì sống trên đời còn ý nghĩa gì nữa... Vì thế Sáu
Nguyện đã đứng lên đấu tranh lại cái ác đang lọng hành, nhưng khi cuộc chiến chưa
14
kết thúc thì Sáu Nguyện đã ra đi để lại một nỗi mất mát lớn lao và nỗi buồn thương vô
hạn cho đồng đội. Để làm tròn di nguyện của người đã mất, những con người của rừng
xanh, của lương thiện lại tiếp tục chiến đấu trong niềm tin của chính nghĩa.
15
CHƢƠNG 2
CON NGƢỜI TRONG CUỘC CHIẾN TRANH ÁC LIỆT
2.1. Con ngƣời tranh đấu cho lí tƣởng và vƣợt lên thử thách
2.1.1. Con ngƣời chiến đấu vì lí tƣởng cao đẹp
Nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam trong đấu tranh là tinh thần yêu
nước nồng nàn, là sự đoàn kết bền chặt của cả dân tộc. Để có được những thắng lợi vẻ
vang đã có biết bao người ngã xuống, đó là những con người mang trong mình tinh
thần của cả dân tộc, họ chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp. Viết về những anh hùng trận
mạc các nhà văn thường ca ngợi và đề cao khí phách hiên ngang trong đấu tranh bảo
vệ đất nước. Họ còn là hình tượng cao đẹp tiêu biểu của một thời đại cha ông chúng ta.
Nhưng trong tiểu thuyết viết về chiến tranh trong những năm sau 1975, các nhà văn
viết về người hùng trận mạc không chỉ thiên về yếu tố hình tượng hóa, mà còn miêu tả
và bày tỏ thái độ một cách chân thật và đời thường hơn so với trước. Người lính của
chiến tranh bỗng gần gũi hơn với cuộc sống, họ như được trả về với cuộc sống thường
nhật. Trong họ cũng có những lúc bâng khuâng do dự, hèn nhát yếu đuối. Tuy lòng
yêu nước của họ không hăm hở phơi bày bằng những phát ngôn hùng hồn, nhưng bằng
hành động đầy quyết tâm trong chiến đấu đã nói lên khát vọng muốn cống hiến sức
mình cho dân tộc của họ. Đó cũng là hình tượng người lính trong sáng tác của Chu
Lai.
Đối với Sáu Nguyện, người quân báo có tiếng trong chiến đấu cũng chịu ảnh
hưởng sâu sắc truyền thống yêu nước của cả gia đình. Nó đã thành máu chảy trong
huyết mạch của anh: “Vốn là gốc dân ngoài kia, một vùng đìa bãi sồng Hồng nào đó
mà chính chú cũng không còn nhớ nữa, theo gia đình vào đây làm cao su đến nay đã
là đời thứ hai, đang học sắp hết tú tài phần hai thì ông già hoạt động bí mật bị bắt và
bị giết, bà già thương chồng cũng héo hắt mà mất theo, chú bỏ học lên xanh luôn,
quyết theo nghiệp cũ của người cha đã khuất.” [3;tr.27]. Một con người phiêu bạt
nhưng lí tưởng rất vững vàng và cho đến hôm nay, với hoài bảo cùng chí hướng và tài
năng của mình, Sáu Nguyện thật sự là mối đe dọa lớn cho bọn giặc ngoài kia cánh
rừng: “Chả là dân quân báo kỳ cựu vào cở số zách của toàn bộ vùng đất giáp ranh
liên hoàn này. Hình như chả sinh ra để làm cái nghề này, mọi giác quan trên thân thể
chả đều không giống người thường. Sáng ra chỉ cần vểnh cái mũi hít hít mùi đất mùi
16
trời, thè lưỡi nếm sương đêm, nếm nước suối một cái là chả có thể đoán trúng phóc
bữa nay có càn hay không, càn to hay càn nhỏ, càn vòng ngoài hay vòng sâu lút vào
trong. Cho nên đỡ lắm! Một mình chả có sức mạnh bằng cả một binh đoàn quân thiện
chiến. Một thứ thiện chiến ẩn hiện, lúc đóng giả lão nông tri điền, lúc là sĩ quan rằn ri
mang lon đại úy biệt động dù, lúc lại là kẻ cô hồn chuyên đâm thuê chém mướn, lúc
khác đã biến thành ông chủ xe đò chuyên chạy chuyến lục tỉnh rồi… Đã nhiều lần đối
phương tung biệt kích, biệt cách, tung cả mật vụ, chỉ điểm tìm diệt chả nhưng chả vẫn
sống nhăn, càng chết hụt chả càng lì lợm, càng không có một ngóc ngách một tin tức
nào là chả không moi ra được… Kẻ thù gọi chả là quái nhân, bà con kêu chả là người
trời ” [3;tr.28]. Ở anh hội tụ đầy đủ tài năng của một người làm cách mạng, anh như
con mắt bên ngoài của rừng, tầm quan trọng của anh thật sự tỏ rõ khi cuộc chiến ngày
càng trở nên khốc liệt hơn: “Có bận họp đến sáng râu ria mọc ra tua tủa bên những
vành băng trắng thấm máu ở đầu, ở ngực, ở tay…trong đến hãi. Chao ôi! Giữa màu
xanh ngút ngát của rừng, những vành băng kia nhìn mới trắng, mới rờn rợn sắc tử
thần làm sao!” [3:tr.30]. Trong hoàn cảnh đó thì con người cũng bị cuốn vào vòng
chiến đấu nghiệt ngã. Nơi cánh rừng đầy bom đạn vào những lúc khó khăn nhất, thì
mọi thứ lại yếu dần đi: “Các lực lượng trong rừng bỗng mỏng đi, teo tóp, các cánh
rừng đã không còn giữ được thế liên hoàn kì diệu như cũ. Các cuộc càn của kẻ thù
được mở ra liên miên. Cuộc càn sau mang tính hủy diệt bạo lực hơn cuộc càn trước.”
[3;tr.29]. Trước tình hình “nghìn cân treo sợi tóc” Sáu Nguyện với kinh nghiệm trong
nghề đã lên tiếng: “Không đồng ý phương án tiến công… Với lí do thế và lực của ta
lúc này không cho phép ta được đánh trước. Đánh trước là chọc vào tổ ong, là bộc lộ
năng lực tác chiến đang hết sức mỏng manh, tạo điều kiện cho chúng khoét sâu vào để
đánh cú đoàn phản kích quyết định.” [3:tr.32]. Con người từng trải và có kinh nghiệm
chiến đấu như Sáu Nguyện đã nhìn nhận trước sự việc. Nhưng anh cũng không ngăn
chặn được kịp thời hành vi nướng quân của bạn mình và tình thế bắt buộc anh phải
chiến đấu khi lực lượng của ta và địch chênh lệch quá lớn: “Quá biết lực lượng chủ
chốt của đối phương đã bị chém gục hoàn toàn trong trận tập kích không thành khi
đêm, địch vội vã tung quân bám theo những dấu chân, dấu máu anh em trinh sát để
lại, nhanh chóng mở cuộc tiến công tổng lực vào rừng trên tất cả các hướng chủ yếu.
Trên trời là đen đặc những cánh trực thăng các loại. Dưới đất là xe bọc thép dan hàng
bò kín rừng làm nhiệm vụ dọn mìn, dọn bãi cho bộ binh tiến sát đằng sau. Pháo cối
17
- Xem thêm -