Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Con người cô đơn trong tiểu thuyết trăm năm cô đơn của gabriel garcía márquez...

Tài liệu Con người cô đơn trong tiểu thuyết trăm năm cô đơn của gabriel garcía márquez

.PDF
97
410
118

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 PHẠM THỊ MINH PHƯƠNG CON NGƯỜI CÔ ĐƠN TRONG TIỂU THUYẾT “TRĂM NĂM CÔ ĐƠN” CỦA GABRIEL GARCÍA MÁRQUEZ Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRƯƠNG ĐĂNG DUNG HÀ NỘI, 2015 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa học thạc sỹ cũng như đề tài luận văn này là nhờ sự giảng dạy giúp đỡ tận tình của các thầy cô trong tổ Lý luận văn học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội II, các thầy cô trong Viện văn học. Vì vậy, từ đáy lòng mình, tôi muốn được gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô. Tôi xin được gửi lời biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Trương Đăng Dung, người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn tôi trong suốt quá trình tìm tài liệu, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn Thầy cô trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội II, những người thân trong gia đình, bạn bè đã luôn bên tôi chia sẻ với tôi những khó khăn và giúp đỡ tôi để tôi có thành quả như ngày hôm nay. Hà Nội, ngày 6 tháng 7 năm 2015 Tác giả Phạm Thị Minh Phương LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các tài liệu khác. Tôi cũng xin cảm đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 6 tháng 7 năm 2014 Tác giả Phạm Thị Minh Phương MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 3 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu................................................. 8 4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 9 5. Cấu trúc luận văn ....................................................................................... 9 6. Dự kiến đóng góp mới ............................................................................. 10 Chương 1. TÂM THỨC HẬU HIỆN ĐẠI VÀ TIỂU THUYẾT “TRĂM NĂM CÔ ĐƠN”.............................................................................................. 11 1.1. Cơ sở xã hội của lý thuyết hậu hiện đại ................................................ 11 1.2. Tư tưởng triết học hậu hiện đại ............................................................ 15 1.3. G.G.Márquez và “Trăm năm cô đơn” .................................................. 21 Chương 2. CẢM THỨC CÔ ĐƠN HẬU HIỆN ĐẠI BẢN ĐỊA TRONG “TRĂM NĂM CÔ ĐƠN” ............................................................................... 31 2.1. “Trăm năm cô đơn” và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo ......................... 32 2.2. Con người cô đơn trong dòng chảy lịch sử .......................................... 41 2.3. Con người cô đơn trong cộng đồng ...................................................... 52 2.4. Con người cô đơn bản mệnh ................................................................. 62 Chương 3. NGHỆ THUẬT MÔ TẢ CÁI CÔ ĐƠN TRONG “TRĂM NĂM CÔ ĐƠN”.............................................................................................. 71 3.1. Tự sự mê lộ ........................................................................................... 71 3.2. Xây dựng ngôn ngữ nhân vật................................................................ 80 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 90 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Từ đầu thế kỷ XX đến nay, nền Lí luận văn học thế giới đã xuất hiện không ít những lý thuyết phê bình có sức ảnh hưởng lớn tới quá trình sáng tác và phê bình văn học trên toàn cầu. Tác giả Nguyễn Hưng Quốc trong bài giới thiệu “Các lý thuyết phê bình văn học” đăng trên trang web Tienve.org đã vẽ sơ lược “tấm bản đồ” về một số lý thuyết chính, có ảnh hưởng nhiều nhất, trong đó ông đề cập tới lý thuyết hậu hiện đại. Lý thuyết văn học hậu hiện đại được đánh giá là một thành tựu quan trọng của khoa nghiên cứu Lí luận văn học thế giới, đến nay vẫn đang vận động và phát triển. Bởi là một gương mặt trẻ nên lý thuyết văn học hậu hiện đại luôn mời gọi những khả thể sáng tạo mới. Nhân loại đang sống trong thời hậu hiện đại, do đó, việc áp dụng lý thuyết hậu hiện đại vào khoa nghiên cứu văn học ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Khác với chủ nghĩa hiện đại, lý thuyết hậu hiện đại gắn liền với chủ nghĩa hậu cấu trúc, đề cao tính bất định, tính đứt đoạn, tính đa dạng và tính phần mảnh. Được đánh giá là lý thuyết giàu tính nhân văn, lý thuyết hậu hiện đại nỗ lực xóa nhòa mọi sự phân biệt, xóa nhòa ranh giới giữa bình dân và cấp cao, tính đặc tuyển và tính đại chúng. Lý thuyết hậu hiện đại chủ trương phi trung tâm hóa. Đó là sự sụp đổ của cái đơn nhất và toàn trị để nhường chỗ cho những phần mảnh và ngoại biên. Trong cuốn “Hoàn cảnh hậu hiện đại”, F.Lyotard đi sâu vào nghiên cứu hai điều: một là, “hoàn cảnh tri thức trong các xã hội phát triển nhất”; hai là, “sự hoài nghi đối với các siêu tự sự”. Nếu như chủ nghĩa hiện đại được coi là “Thời đại lý tính” dựa trên những phát kiến khoa học của Galileo, Newton; thuyết “nhận thức luận” của Michel de Montaigne và René Descartes hướng 2 con người tin vào tri thức, chân lý, niềm tin… thì đến chủ nghĩa hậu hiện đại, con người hoàn toàn mang trạng thức hoài nghi, mất niềm tin trước những định đề mà chủ nghĩa hiện đại coi nó là chân lý vĩnh cửu. Như thế, chủ nghĩa hậu hiện đại đã bóc tách cho con người thấy sự bơ vơ, lạc loài của chính mình. Con người trở nên cô đơn khi mất niềm tin vào những tường thành chân lý tưởng chừng như vĩnh hằng. Thực ra, nghiên cứu về tâm thức cô đơn không phải vấn đề mới trong văn học. Bởi, trên những chặng đường của mình, không thời đại nào gương mặt văn học lại thiếu vắng cái cô đơn. Cô đơn như một nỗi niềm khắc khoải đeo bám nghệ sĩ của mọi thời đại. Và như thế, khoa nghiên cứu văn học coi nỗi cô đơn như một đối tượng của sự khám phá. Nhìn lại văn học nhân loại, cái cô đơn luôn chiếm vị trí trọng yếu trong sáng tạo nghệ thuật. Hầu hết các tác phẩm văn học thành công đều ít nhiều đều có sự gắn bó với cái cô đơn. Giống như một quy luật lạ kỳ, các tác phẩm hay đa phần gắn với nỗi buồn, mà nỗi buồn nào không mang chứa cái cô đơn? Nỗi cô đơn là trạng huống tinh thần đặc thù của thời hậu hiện đại khi các đại tự sự, những chân lý bị dỡ bỏ thì con người bị bỏ rơi và trở nên bơ vơ trước thế giới. Trước G.Márquez, nỗi cô đơn từng hiện hữu từ thời Hy Lạp cổ đại trong hình tượng của Herakles, Ulysses trong sử thi Homer hay ngay cả Hamlet và Don Quixote cũng vậy… Mỗi cá thể họ đều là những con người cô đơn trên bước đường khẳng định cái bản thể. Họ có những lý do riêng để hành động nhưng sự khẳng định mình ấy lại biến họ thành một cá nhân dũng cảm đơn lẻ, biến thành một ai đó đặc biệt, ai đó khác đi. Ngay cùng thời đại với Márquez, F.Kafka khắc khoải trước cái phi lý, Ernest Hemingway trăn trở trong cái hư vô… Và suy cho cùng, cả phi lý và hư vô đều dung chứa trong nó trạng thức về nỗi cô đơn. Dù không phải là người đầu tiên, duy nhất nói về nỗi cô đơn nhưng có lẽ trong văn học ông là người tạc được bức chân dung ám ảnh nhất về nỗi cô đơn. 3 Về đề tài cô đơn, “Trăm năm cô đơn” có thể coi là “cuốn sách cô đơn” bởi bản thân nó đã vượt lên trở thành đặc biệt, trở thành ám ảnh nhất trong số những tác phẩm cùng khắc khoải về nỗi cô đơn của loài người. Đó là nỗi cô đơn không chỉ của cá thể mà của cả một tập thể; không chỉ là nỗi cô đơn bản thể mà nó có căn tính từ cội nguồn lịch sử ngàn đời của nhân dân Colombia, của con người Mỹ Latin và ám ảnh cả tâm thức nhân loại. Nghiên cứu về nỗi cô đơn, chúng tôi không chỉ nhằm mục đích diễn giải trạng thức cô đơn trong tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” của G.Márquez, tâm thức cô đơn thời chúng ta đang sống mà thú vị hơn, đây như một lần khoan sâu vào cái bản thể chất chứa đầy những nỗi cô đơn mông muội của mỗi cá thể. Nỗi cô đơn không còn là đề tài mới, “Trăm năm cô đơn” không phải là một mảnh đất mới, hậu hiện đại đã trở thành một lý thuyết quen thuộc nhưng khám phá tâm thức cô đơn trong “Trăm năm cô đơn” nhìn từ lý thuyết hậu hiện đại là một hướng đi thú vị hứa hẹn nhiều khả thể sáng tạo. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đoạt giải Nobel văn chương năm 1982, G.Márquez đã khẳng định vị trí của mình trong nền văn học nhân loại. “Trăm năm cô đơn” là cuốn tiểu thuyết lớn của Márquez đã trở thành đối tượng nghiên cứu của giới kinh viện trên toàn thế giới. Những công trình nghiên cứu ở mức độ nông sâu khác nhau đã phần nào soi chiếu được những giá trị của tác phẩm và nhà văn đại tài G.Márquez. 2.1. Tình hình nghiên cứu “Trăm năm cô đơn” trên thế giới Trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về G.Márquez và “Trăm năm cô đơn” nhưng ở đây chúng tôi chỉ điểm qua những công trình cơ bản. Có thể nói, “Trăm năm cô đơn” là một hiện tượng của văn học thế giới. Tác phẩm đã được dịch ra trên 30 thứ tiếng khác nhau. Con số độc giả 4 đón đọc tác phẩm này lên đến hàng tỉ người và có “nguy cơ” chưa dừng lại (nói theo cách của tác giả). Không những vậy, tác phẩm này đã thu hút sự nghiên cứu của nhiều nhà khoa học văn chương. Giới nghiên cứu phê bình văn học Âu – Mỹ đánh giá cuốn tiểu thuyết này: “có thể là một tác phẩm vĩ đại nhất của văn học Mĩ Latin và văn học thế giới và chắc chắn là một tác phẩm được nhiều người biết đến nhất”. Một nhà nghiên cứu văn học Nga và là một trong hai người dịch tác phẩm này sang tiếng Nga, V.Stolbov đánh giá: “Ông (Marquez) đã sáng tạo ra một tác phẩm không những duy nhất trong văn học Mĩ Latin mà cả văn học thế giới hiện đại : một cuốn tiểu thuyết sử thi độc đáo với một sự bao quát hùng vĩ các sự kiện với những tính cách anh hùng đồ sộ, một cuốn tiểu thuyết chứa đựng trong một dòng duy nhất cả sự thật lẫn tưởng tượng, vừa cái bi vừa cái hài, tính kịch với chất thơ, nhưng vẫn thường xảy ra trong cuộc sống”. Pablo Neruda – một nhà thơ vĩ đại của Chile, người được tặng giải thưởng Nobel văn học năm 1971, đánh giá: “tác phẩm này là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất trong nền văn học Mĩ Latin hiện đại”. Có nhiều xu hướng nghiên cứu tiểu thuyết của Márquez trong đó xu hướng dựa theo các phân tích xã hội học và tiểu sử học, xem tiểu thuyết của Márquez là sự phản ánh thực tại hậu hiện đại Mỹ Latin chiếm ưu thế hơn cả. Các vấn đề hậu hiện đại được nghiên cứu trong tiểu thuyết Márquez chủ yếu nhằm giải thích điều kiện hậu hiện đại đã sản sinh ra chúng như: hậu thực dân, bạo lực, hỗn chủng… Có thể kể tới các công trình nghiên cứu tiêu biểu theo hướng này của G.Martin, I.Stavans, J.L.Anderson, K.J.Hampares… trong đó công trình nghiên cứu của I.Stavans và tiểu luận của J.L.Anderson là hai đóng góp tiêu biểu. Trong hai công trình ấy, cái huyền ảo trong tác phẩm của Márquez đều được phân tích như là hệ quả của sự phản ánh thực tại Mỹ Latin với những cuộc chiến đẫm máu, những băng nhóm ma túy, quyền lực của những nhà độc 5 tài, sự xâm lược của nước Mỹ…Các nhà nghiên cứu theo đường hướng này có thói quen đi tìm nguyên mẫu hiện thực của các hình tượng huyền ảo trong tiểu sử đời tư của tác giả mà ít quan tâm đến giá trị mỹ học và quan niệm nghệ thuật của nhà văn khi viết nên các hình tượng huyền ảo đó. 2.2. Tình hình nghiên cứu “Trăm năm cô đơn” ở Việt Nam Với “Trăm năm cô đơn”, Márquez đã lập được kỷ lục ở Việt Nam với số lần tái bản (trên 10 lần) kể từ bản in đầu tiên năm 1986. Trong một khoảng thời gian tương đối dài, giới nghiên cứu văn học trong nước đã có nhiều những công trình, bài viết về Márquez và đặc biệt là tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn”. Nghiên cứu về tác phẩm này vẫn chưa có những chuyên luận riêng biệt đào sâu. Tuy nhiên, cần phải kể đến: Dịch giả, nhà nghiên cứu Nguyễn Trung Đức trong “Lời giới thiệu” về bản dịch tác phẩm “Trăm năm cô đơn” (Nxb Văn học, HN, 2000) đã đưa ra các kiến giải rất đích đáng về các vấn đề như: cốt truyện và đề tài, kết cấu và thời gian nghệ thuật, nhân vật và thông điệp. Tuy nhiên, với một tác phẩm đồ sộ trên nhiều phương diện thẩm mỹ, bài viết chỉ với nhiệm vụ đúng như tên gọi của nó là “giới thiệu” nên sự tìm tòi chỉ dừng lại ở mức khái quát, chưa đi sâu vào nội dung cũng như hình thức tác phẩm. Trong cuốn “Văn học Mĩ Latin” do Lại Văn Toàn chủ biên (Nxb Thông tin Khoa học xã hội – chuyên đề, HN, 1999) đã tổng hợp một số bài dịch của Nguyễn Thị Khánh, Lê Sơn, Thi Nguyên, Đinh Công Bắc, Đinh Quang Trung từ các bài viết của cac tác giả nước ngoài. Cuốn sách đã giới thiệu cho ta một cách rõ nét về tình hình phát triển của nền văn học Mĩ Latin, trong đó cũng giới thiệu một cách khái quát về tác giả G.Márquez và tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn”. Đào Thị Thu Hằng trong bài viết Yếu tố huyền ảo trong tác phẩm Kawabata và Márquez trong cuốn “Văn học so sánh – nghiên cứu và triển 6 vọng” (Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lưu Oanh tuyển chọn; Nxb Đại học Sư phạm, 2005). Tác giả đã so sánh chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong sáng tác của hai nhà văn nói trên và qua đó đã khám phá đặc sắc về không gian và thời gian trong tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn”. Tuy nhiên, bài viết vẫn chưa đi sâu vào nghiên cứu cụ thể về tác phẩm. Đỗ Xuân Hà trong bài viết Tiểu thuyết hiện thực huyền ảo: “Trăm năm cô đơn” của Gabriel García Marquez trong cuốn Văn học thế giới thế kỷ XX (Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội, 2006) đã thông qua những nét tiêu biểu nhất về con người cũng như những sáng tác của G.Márquez, nêu lên một số thành tựu của Márquez trong “Trăm năm cô đơn” trên các mặt nội dung và nghệ thuật. Đồng thời, tác giả chỉ ra phương pháp sáng tác trong “Trăm năm cô đơn” là chủ nghĩa huyền ảo kết hợp với chủ nghĩa hiện thực và các yếu tố hoang đường. Bên cạnh những cái có thực trong đời sống xã hội Mĩ Latin thời bấy giờ tác giả cũng đã phân tích những yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm và chỉ ra những đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu như: sự kết hợp nhiều loại thời gian trong quá trình kể chuyện của tác giả, nghệ thuật cá tính hóa nhân vật làm cho người đọc không bị nhầm lẫn giữa các nhân vật có tên gần giống nhau. Thông qua đó, tác giả khẳng định những thành công của Márquez trong việc thể hiện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Gần đây, tác giả Phan Tuấn Anh đã bảo vệ thành công luận án với đề tài “Nghệ thuật hậu hiện đại trong tiểu thuyết G.G.Márquez” tại Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Trong suốt những trang dài của luận án, người nghiên cứu có quan tâm tới tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” nhưng tác phẩm được nhắc đến như một cứ liệu phục vụ cho việc khai thác “nghệ thuật hậu hiện đại”. Bởi đối tượng hướng tới là toàn bộ tiểu thuyết của G.Márquez nên tác giả không có đủ không – thời gian đi sâu vào “Trăm năm cô đơn”. Luận án đã chỉ ra được cội nguồn nỗi cô đơn trong tiểu thuyết của Márquez: thứ 7 nhất, nỗi cô đơn như là thân phận và bản mệnh cá nhân; thứ hai, nỗi cô đơn như là không gian văn hóa và đặc tính lịch sử. Nhưng như chúng tôi đã nói, bởi đối tượng của luận án là tiểu thuyết của Márquez nên việc nghiên cứu tâm thức cô đơn như một cái nhìn khái quát, mới chỉ ở mức độ tổng thể. Phan Tuấn Anh cũng là tác giả của khoảng 20 bài nghiên cứu có liên quan tới G.G.Márquez được đăng trên các sách, tạp chí nghiên cứu khoa học trong số đó có bài viết “Hình tượng Macondo trong Trăm năm cô đơn – từ góc nhìn văn hóa Mĩ Latin” (Tạp chí Sông Hương, 2010, số 259 tr.78-82). Trong bài viết, Phan Tuấn Anh đã chỉ ra cội nguồn và lý giải hình tượng ngôi làng Macondo trong tác phẩm. Bởi thế, bài viết dừng lại ở một hình ảnh trong tổng thể bức tranh đa sắc, đa tầng mà Márquez đã kì công kiến tạo. Và phải kể đến cuốn chuyên luận “Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và Gabriel García Márquez” của nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc (Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009). Đây là cuốn sách nghiên cứu sâu về G.Márquez và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Người viết đã cho thấy một tư duy khoa học mạch lạc kết hợp với óc suy luận sâu sắc trong từng nhận định, những phát hiện về Marquez và “Trăm năm cô đơn”. Trong cuốn chuyên luận này, tác giả đã dành một chương để nói về cuốn tiểu thuyết của nổi tiếng của Márquez. Cuốn sách đã tóm lược được nội dung của tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” một cách cụ thể và khái quát nhất qua từng chương để người đọc có thể hình dung được diễn biến của cốt truyện. Tiếp đó, tác giả đi sâu vào nghiên cứu tác phẩm ở một số mặt về nội dung và nghệ thuật để người đọc có thể hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm. Tuy nhiên, đây là một chuyên luận lấy “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” và G.G.Márquez làm đối tượng nghiên cứu chính nên việc đi sâu vào cá thể tiểu thuyết vẫn còn là những điều ấp ủ. Những chuyên luận và bài nghiên cứu kể trên là nguồn tư liệu quý giá để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu về cuốn tiểu thuyết từ nhiều góc nhìn. Về cơ 8 bản, khi nghiên cứu kiệt tác này, hầu hết các tác giả đã chú ý tới nỗi cô đơn nhưng chưa nhìn nhận nó như một tâm thức thời hậu hiện đại. Vậy nên, những khoảng còn để mở trên lại là hướng tiếp cận cho luận văn để tiếp tục khám phá tâm thức cô đơn trong “Trăm năm cô đơn” được soi sáng bởi lý thuyết hậu hiện đại. 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích Với luận văn “Con người cô đơn trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của Gabriel García Márquez”, người viết mong muốn tìm được căn tính của nỗi cô đơn trong tác phẩm cũng là cảm thức cô đơn bản địa Mĩ Latin. Trong sự đối sánh tương tác với các tác phẩm cùng viết về nỗi cô đơn thời hậu hiện đại ở các quốc gia và châu lục khác, người viết còn mong muốn tìm thấy sự độc đáo trong nghệ thuật thể hiện và nội dung tư tưởng của nhà văn vĩ đại xứ Colombia. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đi sâu vào tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” dưới sự soi chiếu của lý thuyết hậu hiện đại để tiếp cận, phân tích, khái quát. Từ đó, người viết tìm thấy con người cô đơn - cảm thức hậu hiện đại trong “Trăm năm cô đơn” của G.Márquez được thể hiện qua con người cô đơn trong dòng chảy lịch sử, con người cô đơn giữa cộng đồng và con người cô đơn bản mệnh. Đồng thời còn thấy được tâm thức và nghệ thuật lý thuyết hậu hiện đại phần nào biểu hiện qua quá trình thực hiện đề tài. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Số lượng những tác phẩm có giá trị của G.Márquez là không nhỏ. Đặc biệt, những tác phẩm viết về nỗi cô đơn gần như bao trùm toàn bộ sáng tác của ông. Ông từng tuyên bố, cuốn sách mà cả đời ông dành để viết đó là cuốn sách về cái cô đơn. Chính bởi vậy, đi tìm cái cô đơn trong sáng tác của 9 G.Márquez là một công việc dài hơi đòi hỏi sự kiên trì và dày công trong những công trình nghiên cứu lớn. Với quy mô của một luận văn, chúng tôi chỉ có thể khảo sát và nghiên cứu trọng tâm trong tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” (Nxb văn học, 2003, Nguyễn Trung Đức dịch và giới thiệu). Ngoài ra, để đảm bảo cho việc phân tích, so sánh chúng tôi còn tìm cứ liệu trong một số tác phẩm khác của G.Márquez như: - Tình yêu thời thổ tả (Nguyễn Trung Đức dịch) - Cụ già có đôi cánh khổng lồ (Nguyễn Trung Đức dịch) Thêm vào đó, chúng tôi khảo sát trong các sáng tác viết về nỗi cô đơn thời hậu hiện đại của các tác giả khác như: F.Kafka, Kwabata, Haruki Murakami, Bảo Ninh… để cho luận văn thêm sâu sắc. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn kết hợp vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp tiếp cận từ lý thuyết văn học hậu hiện đại. - Phương pháp lịch sử - loại hình - Phương pháp cấu trúc - hệ thống - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp so sánh, đối chiếu. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn bao gồm ba chương: Chương 1: Tâm thức hậu hiện đại và tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” Chương 2: Cảm thức cô đơn hậu hiện đại bản địa đặc thù trong “Trăm năm cô đơn” của G.Márquez Chương 3: Nghệ thuật mô tả cái cô đơn trong tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” Cuối cùng là thư mục tài liệu tham khảo. 10 6. Dự kiến đóng góp mới - Lý giải tâm thức cô đơn hậu hiện đại trong “Trăm năm cô đơn” - Khái quát nỗi cô đơn trong “Trăm năm cô đơn” như là căn tính bản địa trong sự đối sánh với tâm thức cô đơn cùng thời trên những quốc gia, châu lục khác nhau. 11 Chương 1 TÂM THỨC HẬU HIỆN ĐẠI VÀ TIỂU THUYẾT “TRĂM NĂM CÔ ĐƠN” Chủ nghĩa hậu hiện đại là một hiện tượng văn hóa tinh thần phức tạp, có nguyên nhân sâu xa từ cơ sở xã hội và ý thức thời đại. Việc nghiên cứu chủ nghĩa hậu hiện đại được thực hiện từ sự nhận thức về mặt lịch sử của chính nó. Theo các nhà nghiên cứu, sự ra đời của chủ nghĩa hậu hiện đại xuất phát từ những tiền đề căn bản sau: 1.1. Cơ sở xã hội của lý thuyết hậu hiện đại Chủ nghĩa hậu hiện đại là khái niệm lần đầu tiên được biết đến vào năm 1870 khi họa sĩ người Anh Watkins Chapman dùng chữ “hội họa hậu hiện đại” để chỉ phong cách sáng tác theo khuynh hướng hiện đại hơn, tiên phong hơn Trường phái Ấn tượng của Pháp. Sau đó, khái niệm này đi vào nghệ thuật không chỉ trong lĩnh vực hội họa mà cả âm nhạc, văn học, kiến trúc…Theo cách hiểu thông dụng, khái niệm “hậu hiện đại” mang tính tiến trình chỉ giai đoạn “sau thời hiện đại” mà lịch sử trải qua. Tuy nhiên, theo J.F.Lyotard – ông tổ của lý thuyết hậu hiện đại, chữ “hậu” là nhấn mạnh “tính chất” chứ không phải “tiến trình”: “Hậu – hiện đại là một từ không chặt chẽ, và chính vì thế mà được tôi chọn để chỉ muốn nói lên một báo hiệu rằng: có điều gì đó đang suy tàn ở trong tính hiện đại”. Như vậy, theo Lyotard, Hậu - hiện đại không phải là một thời kỳ mới mà nó là việc xử lý lại những đặc điểm của Hiện đại khi mang tham vọng giải phóng nhân loại bằng khoa học và kỹ thuật. Chủ nghĩa hậu hiện đại, hiểu một cách đơn giản, nó chỉ một tâm trạng hay đúng hơn nó chỉ một trạng thái tâm thức của loài người. Khi nghiên cứu, chúng tôi thống nhất việc xem chủ nghĩa tư bản hậu kỳ là điều kiện trực tiếp cho ra đời chủ nghĩa hậu hiện đại. Đây được coi là thời 12 kỳ bùng nổ của sản xuất hàng hóa và tri thức, làm xuất hiện trạng huống toàn cầu hóa – một trật tự thế giới mới. Toàn cầu hóa đã xóa bỏ rào cản, khắc phục ngăn trở về không gian, thời gian, vật chất, lãnh thổ để thực hiện quá trình siêu chu chuyển văn hóa, tiền tệ, tri thức… mà thế giới internet là một minh chứng rõ ràng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II (1939 – 1945), thế giới không những không ổn định mà còn rơi vào một tình trạng bất ổn mới: chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang, vũ khí hạt nhân, đối kháng thế hệ năm 1968, sự đàn áp trí thức, chủ nghĩa độc tài, quân phiệt tồn tại ở nhiều quốc gia… tạo tâm thế hoang mang, bi quan, bất tín vào chân lý khoa học và lý tính. Hoàn cảnh đó đã trực tiếp tạo ra những diễn ngôn chấn thương hậu thế chiến thứ hai. Chính trạng huống tinh thần này chứ không phải toàn cầu hóa đã trực tiếp thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa hậu hiện đại. Trong lĩnh vực khoa học, ngay từ cuối thế kỷ XIX, những kết quả nghiên cứu về sóng điện từ của Heinrich Hertz (1982), sự phát minh ra tia X của Wilhelm Conrad Rontgen (1895), việc phát hiện ra hạt electeron trong cấu trúc nguyên tử của J.Thomson (1897)…đã buộc con người phải suy nghĩ lại về cái nhìn của mình với thế giới. Sang thế kỷ XX, các nhà khoa học tiếp tục có những phát minh đột phá, tác động mạnh đến nhận thức và tư duy con người như thuyết tương đối, cơ học lượng tử, định lý bất toàn… Rồi tiếp đến là sự ra đời của cac lý thuyết mới như: lý thuyết tai biến (R.Thom, 1972), lý thuyết hỗn độn (E.Lorentz, 1960), lý thuyết phức hợp, điều khiển học (1946), lý thuyết về “cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học” (T.Klun, 1970). Đặc biệt, sự thức nhận mới về khái niệm “hệ hình” đã tạo ra những tiền đề mới cho cách nhìn nhận và tiếp cận thế giới: hệ hình mới không nhất thiết phải hay hơn mà quan trọng hơn là đưa ra một cách nhìn mới về thực tại dưới hình thức tự sự như một cách tiếp cận riêng, không chứa đựng chân lý tuyệt đối… 13 Cùng với nó, sự phát triển ở tốc độ và trình độ rất cao của khoa học kỹ thuật cũng góp phần hình thành nên kiểu “chủ nghĩa kỹ trị”. Các phương tiện truyền thông, công nghệ tinh vi khiến thông tin và tri thức được vi tính hóa. Theo đó, cái gì không số hóa, vi tính hóa được dường như bị loại khỏi cuộc chơi. Sự thống trị của chủ nghĩa kỹ trị kéo theo hệ quả là, trong đời sống văn hóa, yếu tố nhân văn phai nhạt. Văn hóa trở nên đại chúng, sản phẩm văn hóa được thương phẩm hóa. Con người nhận ra, không phải mình đang làm chủ ngôn ngữ, mà ngôn ngữ, các kiểu quyền lực diễn ngôn đang trở thành ngục tù khống chế mình… Nói về hiện trạng này, nhà triết học người Mỹ I.Hassan nhận xét: “chúng ta đang giết chết thần thánh của mình… không cái gì là không tạm thời… chúng ta xây dựng phát ngôn của mình trên cõi hư vô”. Không phải ngẫu nhiên, Barry Lewis đã gọi đây là thời kỳ mà “thế giới bứt rứt trước những thay đổi khoa học kỹ thuật nhanh chóng và những sự bất ổn về ý thức hệ”. Về nghệ thuật, vào năm 1967, nhà văn Mỹ John Bath cho rằng: “Trong suốt thập niên 60, danh từ postmodernism được nhiều giới nghệ sĩ, nhà văn, nhà phê bình như Rauschenberg, Cage, Burroughs, Barthelme, Fielder, Hassan và Sontag sử dụng để chỉ trích sự cạn kiệt của chủ nghĩa hiện đại và để mô tả những khuynh hướng nghệ thuật muốn vượt qua những phạm vi giới hạn của chủ nghĩa đó”. Như vậy, thời điểm này, các văn nghệ sĩ bắt đầu chỉa trích sự cạn kiệt ý tưởng của chủ nghĩa hiện đại đồng thời cổ vũ những nỗ lực vượt qua giới hạn của chủ nghĩa hiện đại. Đây cũng là thời kỳ bùng nổ của sản xuất hàng hóa và tri thức làm xuất hiện trạng huống toàn cầu hóa – một trật tự thế giới mới. Toàn cầu hóa biến thế giới thành ngôi làng toàn cầu hay thế giới phẳng. Sự lạm dụng kỹ thuật bậc cao khiến cho thông tin lẽ ra được bảo mật lại bị rò rỉ. Các thế lực tội phạm, Hồi giáo cực đoan và khủng bố đã triệt để khai thác công nghệ bậc cao 14 này nhằm khơi dậy mâu thuẫn chủng tộc và tôn giáo. Và khi thế giới xích lại gần nhau hơn, sự cọ xát của các nền văn hóa và xung đột sắc tộc là điều không tránh khỏi… Nhân loại đang thật sự sống trong một thế giới mất an toàn với nguy cơ khủng bố và chiến tranh, ô nhiễm môi trường và bệnh dịch. Theo Lyotard trong cuốn “Hoàn cảnh hậu hiện đại” cho rằng: hậu hiện đại là trạng huống tri thức trong bối cảnh tin học hóa. Chúng ta đang sống trong một nền tảng văn hóa mới – nền tảng văn hóa được kiến tạo từ mạng internet và máy tính. Trong diễn ngôn hậu hiện đại, nền văn hóa ấy được kiến tạo từ chính ngôn ngữ nhị phân – một thuật ngữ được vay mượn từ lập trình mạng. Nền văn hóa mới mẻ này có hai đặc tính cơ bản: chu chuyển , lưu trữ thông tin siêu hạng và kiến tạo thế giới một cách vạn năng. Nó là cơ sở cho sự xuất hiện một nền tảng nghệ thuật mới – nền nghệ thuật tương tác. Nghĩa là, nghệ thuật hình thành trên cơ sở sáng tạo của tác giả và độc giả. Độc giả trở thành nhân tố quan trọng trong quá trình tạo nghĩa cho nghệ thuật. Người đọc tham dự vào quá trình sáng tác thông qua những comment, sử dụng những incon như hình thức ngôn ngữ mới, các đường link kết nối, các văn bản âm thanh, hình ảnh… Chính văn học mạng cũng đã tác động lên văn học viết truyền thống. Cấu trúc văn bản không còn khép kín như trước mà mang tính mở tạo điều kiện cho những khả thể sáng tạo mới tham gia vào quá trình thiết lập văn bản. Cảm quan đa trị xuất hiện trong văn học tạo nên tính đa/đối người kể, đa/đối điểm nhìn, đa/đối giọng điệu cùng hệ thống ngôn ngữ nghịch dị… Đó là thời đại sụp đổ của những đại tự sự, sự tan rã những tượng đài tưởng chừng vĩnh cửu thay vào đó là trạng huống mất niềm tin, trống rỗng, đổ vỡ, tâm lý lo âu, hoang mang. Nền tảng ngôn ngữ nhị phân chính là điều kiện quan trọng cho sự phát triển của lý thuyết hậu hiện đại. Nhìn chung, những biến đổi trong tình hình chính trị, xã hội, văn hóa nghệ thuật là cơ sở tiền đề cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa hậu hiện 15 đại. Với cái nhìn nhân văn hơn, chủ nghĩa hậu hiện đại đánh thức con người trong xã hội tư bản hậu kỳ trong ước muốn phi trung tâm hóa chấp nhận những “cái khác” như: không hợp lý, không văn minh, không da trắng, không đàn ông, đồng tính luyến ái, văn hóa thiểu số… Đồng thời, nó chỉ ra cho con người thấy trạng huống tinh thần của thế giới bản thể: tính phi lý, tan vỡ, trống rỗng, vô nghĩa của đời sống; tâm thức cô đơn, lạc loài mang tính bản thể của con người… khi đối mặt với những nguy cơ chiến tranh, bệnh dịch, ô nhiễm môi trường như căn nguyên hủy diệt đời sống. Và, ngoài cơ sở xã hội, văn hóa nghệ thuật, văn học hậu hiện đại còn bắt nguồn từ những cơ sở triết học hậu hiện đại – như một nền tảng vững chắc cho sự ra đời của lý thuyết văn học đương đại. 1.2. Tư tưởng triết học hậu hiện đại Cho tới thời điểm hiện tại, triết học hậu hiện đại được coi là một khái niệm hết sức phức tạp bởi sự trải rộng trên nhiều lĩnh vực, sự tham gia của nhiều triết gia, nhưng tất cả họ đều có chung một nền tảng và mối quan tâm trong tư tưởng, đó chính là triết học ngôn ngữ. Khái niệm này được khởi nguồn từ triết học ngôn ngữ của L.Wittgenstein. Thông qua “Luận thuyết mô phỏng về ý nghĩa”, Wittgenstein trình bày quan điểm về mối quan hệ giữa thế giới (thực tại), tư tưởng và ngôn ngữ. Đặc biệt, trong giai đoạn cuối đời, ông đã đưa ra quan niệm về trò chơi ngôn ngữ. Ông cho rằng, hoàn toàn không có sự tương ứng logic nào giữa ngôn ngữ và thế giới. Triết học ngôn ngữ có thể chia làm hai diễn trình chính: diễn trình tư tưởng của những nhà Hiện tượng luận, Tường giải học và diễn trình tư tưởng của những nhà Cấu trúc, Giải cấu trúc. Sáng lập ra triết học Hiện tượng luận, E.Husserl dù thừa nhận tính tồn tại khách quan của đời sống hiện thực nhưng ông luôn đề cao tính chủ ý của ý thức hướng tới khách thể, chính ý thức tạo ra khách thể. Ông bắt đầu với ý tưởng cho rằng, mọi hành vi ý thức của con người đều có một đối tượng để 16 hướng tới. Husserl cho rằng, tính ý hướng không chỉ đơn giản là sự định hướng của ý thức về phía các sự vật tồn tại bên ngoài, mà nó còn có nghĩa là, ý thức “dựng” nên các sự vật. Khi thừa nhận tính ý hướng là ý thức “tạo dựng” nên các sự vật, Husserl đặt vấn đề: Ý thức của con người hướng tới một đối tượng xác định, nhưng tại sao có những đối tượng giống nhau mà ý nghĩa có nó đối với mỗi người lại khác nhau. Husserl lý giải hiện tượng này là do hành vi ý hướng trong ý thức của con người tạo ra đối tượng, chứ không phải đối tượng bên ngoài quy định ý thức của con người về bản thân đối tượng đó. Như vậy, chúng ta thấy rằng, Hiện tượng học của Husserl chính là sự nghiên cứu và các quan điểm khác nhau từ góc độ chủ thể tính. Hiện tượng học tập trung vào chủ thể tính và dựa trên sự khác biệt về kinh nghiệm, về nền tảng văn hóa, mỗi chủ thể tự cấu trúc hay tạo lập thế giới theo những cách khác nhau, đồng thời cũng dựa trên sự chấp nhận cách thức tạo lập của những chủ thế khác trong quá trình tương tác và giao tiếp. Như vậy, theo thuyết của Husserl, tác phẩm văn học là vật có chủ ý chứ không phải là thứ hoàn toàn khách quan, tiên nghiệm. Tuy nhiên, Husserl mới chỉ chú ý đến chủ ý của tác giả mà chưa chú trọng đến vai trò của ngôn ngữ. Tiếp sau Husserl là những nhà Tường giải học – học trò của ông, như: Heidegger, Ingarden, Gadamer, Ricoeur, trường phái Mỹ học tiếp nhận Konstanz… đã bổ sung thêm chủ ý của người đọc vào tác phẩm văn học, đề cao vai trò của người tiếp nhận đồng thời biến tác phẩm thành vật hai lần có chủ ý. Ngôn ngữ được các nhà triết học Tường giải học quan tâm. Nó không còn bị coi là phụ phẩm của quá trình sáng tạo mà là “ngôi nhà của hữu thể”. Nghĩa là, ngôn ngữ được đưa lên vị trí trung tâm trong đời sống văn học, chính ngôn ngữ đã sáng tạo ra con người, lịch sử văn học chính là lịch sử tiếp nhận, mỹ học sáng tạo hay chính là lịch sử tiếp nhận và mỹ học tác động…
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan