Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Con người cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn việt nam sau 1975...

Tài liệu Con người cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn việt nam sau 1975

.PDF
200
364
104

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG CON NG-êi c¸ nh©n trong tiÓu thuyÕt Vµ truyÖn ng¾n viÖt nam sau 1975 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Hà Nội - 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG CON NG-êi c¸ nh©n trong tiÓu thuyÕt Vµ truyÖn ng¾n viÖt nam sau 1975 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62.22.01.21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS. Nguyễn Văn Long 2. TS. Nguyễn Văn Phƣợng Hà Nội - 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân tôi. Các số liệu trong luận án và kết quả nghiên cứu đều trung thực, chưa từng được công bố trong bất kì công trình khoa học nào khác. Tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc, đất nước bước sang thời bình với những biến chuyển lớn lao về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây cũng là thời điểm mở ra giai đoạn phát triển mới của văn học dân tộc. Đặc biệt, Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) với chủ trương đổi mới tư duy, đề cao tinh thần dân chủ đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới nền văn học trên mọi bình diện. Sự phát triển vượt trội của hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn đưa văn xuôi lên vị trí “thống trị” văn đàn, giữ vai trò quan trọng trong việc tạo ra gương mặt mới cho văn học. Với ý nghĩa này, tiểu thuyết và truyện ngắn sau 1975 cần được nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện. 1.2. Cuộc sống thời bình tạo điều kiện cho con người trở lại với nhu cầu tự nhiên, chủ trương mở cửa, hội nhập về kinh tế và từng bước mở rộng giao lưu văn hóa với thế giới… đã thúc đẩy sự xuất hiện trở lại của ý thức cá nhân, tác động mạnh mẽ đến tư tưởng và sáng tạo của nhà văn. Trong sự đổi mới tư duy nghệ thuật thì đổi mới quan niệm về con người là cốt lõi, “là biểu hiện cụ thể của xu thế dân chủ hóa và sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên nền tinh thần nhân bản” [146]. Ba mươi năm chiến tranh là một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, tạo ra sự thống nhất tương đối trong cách văn học nhìn con người. Từ chỗ nó được xem xét trong tư cách con người tập thể (chặng 1945 1954), rồi con người được đặt trong sự thống nhất riêng - chung (chặng 1954 - 1964) và dần đi tới kiểu mẫu con người sử thi, đại diện cho sức mạnh, phẩm chất, ý chí, khát vọng của cả cộng đồng (chặng 1965 - 1975). Con người trong văn học sau 1975 được thể hiện ở nhiều vị thế, trong tính đa chiều của các mối quan hệ, được soi chiếu dưới nhiều tiêu chí và thường được nhìn nhận như một cá thể, một số phận giữa cuộc sống đời thường, nhiều đa đoan, đa sự. Vượt qua nhận thức hạn hẹp, giản đơn, văn học sau 1975 nhìn con người như một thực thể phong phú và còn đầy bí ẩn. Sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người làm biến đổi mọi bình diện của sáng tác, từ cảm hứng, chủ đề, hệ thống nhân vật đến cơ cấu thể loại. Các chủ đề gắn với cảm hứng nhận thức lại được tập trung khai thác. Nhân vật đa số không được xây dựng theo nguyên tắc điển hình hóa mà chú trọng vào khám phá tính cá thể, đa ngã, phức tạp. Bên cạnh sự phát triển mạnh của tiểu thuyết và truyện ngắn, phóng sự lên ngôi cùng tự truyện và tản văn. Tư duy thể loại cũng biến chuyển rõ rệt kéo theo nhiều thủ pháp, kĩ thuật mới lạ, hiện đại trong nghệ thuật trần thuật, trong ngôn ngữ, giọng điệu… Mấu chốt của những đổi mới này suy cho cùng đều xuất phát từ ý thức về cá nhân và quan niệm con người cá nhân, cá thể. Con người cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam sau 1975 vì vậy là một đối tượng khảo sát, nghiên cứu thực sự cần thiết, giúp tiếp cận và lí giải yếu tố cơ bản chi phối sự biến đổi nội dung và nghệ thuật của văn xuôi sau 1975. 1.3. Con người cá nhân không chỉ là vấn đề của văn học hôm nay. Đó là sự tiếp nối một nguồn mạch quan trọng mang tính nhân bản của lịch sử văn học dân tộc đã manh nha từ văn học trung đại. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, có giai đoạn con người cá nhân đã bị phủ định, khước từ để thay thế bằng kiểu mẫu con người tập thể. Sự trở lại của con người cá nhân sau 1975 tiếp nối tinh thần nhân bản của truyền thống văn học dân tộc, gắn với quá trình trưởng thành nhân cách trong những điều kiện văn hóa, lịch sử mới. 1.4. Văn xuôi sau 1975 hiện có mặt và ngày càng có vị trí đáng kể trong chương trình nhà trường phổ thông và đại học. Việc nghiên cứu Con người cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam sau 1975 do đó không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn mang tính thời sự, tính thực tiễn đối với người học văn, người dạy văn vì nó cung cấp cơ sở lý luận cho việc xác lập các tiêu chí đánh giá văn học từ lập trường nhân bản và dân chủ. Đây là những lí do để chúng tôi triển khai đề tài luận án này. 2. Lịch sử nghiên cứu Văn xuôi sau 1975 đã ít nhiều được nghiên cứu ở cấp độ tổng quan và nhiều hơn ở cấp độ cụ thể (tác gia, tác phẩm). Con người cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam sau 1975 tuy chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nhưng đã được một số tác giả lưu tâm, hoặc từ hướng khảo sát có đặt vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người, hoặc xem xét thế giới hình tượng trong sáng tác của một nhà văn cụ thể. Sau đây là khái quát của chúng tôi về những ý kiến có liên quan đến đề tài của luận án. 2.1. Những nghiên cứu chung về con ngƣời cá nhân và vai trò, vị thế của nó trong tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Đầu thập kỉ tám mươi (thế kỉ XX), Trần Đình Sử khi nghiên cứu về những đổi mới trong tư duy nghệ thuật và hình tượng nhân vật văn học giai đoạn từ sau 1975 đã khẳng định: “Con người đạo đức thế sự là đặc điểm chủ yếu nhất của sự đổi mới tư duy nghệ thuật trong văn học ta thập kỷ qua”[211]. Ông tiếp tục nhấn mạnh trong một công trình nghiên cứu sự vận động quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam từ 1945 đến 1985 rằng, nếu như con người những năm đầu kháng chiến là con người của cái chung, “vấn đề cá tính, nhu cầu hạnh phúc cá nhân chưa thể là vấn đề có tầm quan trọng…” thì sau 1975, con người “đang được xem xét với những chiều sâu mới. Đời sống cá nhân, cá tính phải trở thành một đối tượng nhận thức, thể hiện...”[189; 90-91]. Theo ông: “chỉ từ sau năm 1986, với công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, con người trong văn học mới thật sự trải qua một bước ngoặt mới. Chất sử thi nhạt dần và quan niệm thế sự, đời tư, triết lý, văn hóa về con người nổi lên, trở thành một nét chủ đạo, làm thay đổi cả diện mạo văn học”[189; 95]. Ở một bài nghiên cứu khác, ông nhận định: khuynh hướng “phi sử thi hóa” khiến “con người trong văn học mất dần tính nguyên phiến sử thi mà hiện ra nhiều mâu thuẫn, nhất là trong tình cảm, đạo đức”, “ngoài ý chí, tư tưởng, tình cảm, còn được khắc họa ở các phương diện bản năng, vô thức, tâm linh, nghịch lí”; “Thay vào chỗ trung tâm của những chiến sĩ, anh hùng năm xưa là hình ảnh những con người thực dụng, tẻ nhạt, tầm thường”. Với hướng đi này, “con người trở về với con người cá thể, quan tâm tới cá nhân: đề tài cái tôi, ý thức chủ thể, con người thân phận, cảm hứng đạo đức, tự vấn lương tâm, nỗi buồn…đều là những biểu hiện của ý thức cá nhân”[215]. Bùi Việt Thắng khi điểm lại tình hình truyện ngắn trong năm 1986 đã nhấn mạnh: “Nhà văn tỏ rõ thái độ của mình đối với đời sống hôm nay – quan tâm đến mọi chuyện, đến từng con người trong những số phận hết sức khác nhau. Mỗi con người đều có một vị trí và giá trị nhất định trước cộng đồng và lịch sử, và mỗi cá nhân độc đáo, thú vị trong sự khám phá liên tục của nhà văn”[234]. Ông tiếp tục khẳng định ý này trong bài viết “Văn xuôi gần đây và quan niệm con người”. Theo tác giả, các nhà văn đã quan tâm đến vấn đề số phận con người và hoàn cảnh, chú ý “sự tồn tại chân chính của những nhân cách” cá nhân, mạnh dạn đi sâu vào “con người trong con người”, đó chính là “biểu hiện của việc dân chủ hóa nền văn học hiện nay ở ta”[235]. Với bài viết “Đổi mới văn học vì sự phát triển”, Vũ Tuấn Anh chỉ rõ: “Mười năm trở lại đây, văn học có một cách nhìn khác, một cách biểu hiện khác về con người, vừa phần nào mang tính chất đối lập, vừa mang ý nghĩa bổ sung cho thời kì văn học đã qua… Sự dân chủ hóa trong xã hội và văn học đã được biểu hiện ngay trong thế giới nhân vật. Gần như không có những nhân vật được lí tưởng hóa theo những công thức định sẵn. Các nhân vật, cùng với số phận và hành vi của họ, đều bình đẳng trước sự quan sát của nhà văn”[4]. Tác giả cho rằng văn học sau 1975 đã “cố gắng khám phá thế giới bí ẩn, khuất lấp, đầy bất trắc và bất thường bên trong mỗi con người, bên trong bản thể - người”, nhờ đó “văn học hiện nay cũng đang hòa vào con đường chung của văn học nhân loại ở phương diện khám phá những bí ẩn con người”[4]. Nguyễn Bích Thu nhận xét về cái mới của văn xuôi sau 1975: “Vấn đề con người, vấn đề cái riêng trở thành mối quan tâm hàng đầu của người viết”[144; 225]; “vấn đề con người cá thể được đặt ra một cách bức xúc, mạnh mẽ trong cảm hứng sáng tạo của nhà văn”, “các tác giả tiểu thuyết đã nhìn nhận con người như một cá thể bình thường trong những môi trường đời sống bình thường”[144; 230-231]. Theo bà, nhà văn Việt Nam những năm đổi mới không chỉ “đi sâu vào số phận con người mà còn đề cập tới khát vọng sống, về hạnh phúc cá nhân, về tình yêu đôi lứa (…), đi sâu vào thế giới nội tâm để khám phá chiều sâu tâm linh nhằm nhận diện hình ảnh con người đích thực”[144; 231]… Vấn đề con người cá nhân còn được đề cập đến trong một số công trình mang ý nghĩa tổng kết về văn xuôi sau 1975. Nguyễn Thị Bình với chuyên luận Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995, những đổi mới cơ bản đã nhấn mạnh đến những thay đổi lớn trên các phương diện: quan niệm về nhà văn, quan niệm về con người và một số đổi mới đáng chú ý trên phương diện thể loại. Nhấn mạnh đến sự biến chuyển trong quan niệm nghệ thuật về con người, bà khẳng định: “Từ quan niệm con người lịch sử, con người cộng đồng chuyển dần sang quan niệm con người cá nhân phức tạp bí ẩn”[33; 65]; “văn xuôi ít có những nhân vật đẹp đẽ, hoàn hảo… nó bị lấn át, bị lu mờ bởi thế giới nhân vật của đời thường phàm tục”[33; 76]. “Trình bày con người như nó vốn có, không lí tưởng hóa, thần thánh hóa nó là đặc điểm nổi bật trong quan niệm con người của văn xuôi từ sau 1975. Quan niệm “con người đời thường”, “con người phàm tục”, “không hoàn hảo” vừa giống như một sự đối thoại với quá khứ, khước từ những quy phạm cũ, vừa đề xuất hệ giá trị mới để đánh giá con người: hệ giá trị nhân bản”[33; 79]. Nguyễn Thị Bình nhấn mạnh: “tinh thần quan tâm đến “nhân tố con người” đã giúp văn xuôi từ sau 1975 thoát khỏi lối mòn quen thuộc, phá vỡ những quy phạm hình thành trong hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, dần dần đạt tới một quan niệm toàn diện, nhiều chiều về con người, mở ra những tầng sâu mới mẻ và thú vị về đời sống bí ẩn, vô cùng vô tận của những cá thể sinh động gần gũi”[33; 82]. Nguyễn Văn Long với công trình Văn học Việt Nam sau 1975 và việc giảng dạy trong nhà trường khẳng định: “Sự thức tỉnh ý thức cá nhân và tinh thần nhân bản là nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo, bao trùm trong nền văn học giai đoạn này”, “khi cuộc sống dần trở lại với những quy luật bình thường của nó, con người trở về với muôn mặt đời thường… bối cảnh đó đã thúc đẩy sự thức tỉnh trở lại ý thức cá nhân, đòi hỏi sự quan tâm đến mỗi người và từng số phận”; “Văn xuôi hôm nay đã tiếp cận con người ở nhiều tư cách, vị thế và trên nhiều bình diện, nó đặc biệt quan tâm đến con người như một cá thể, một thực thể sống, trong đó chứa đựng cả cái phần nhân loại phổ quát”[145; 43,44,68]. Lê Thị Hường trong luận án Tiến sĩ Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1995 đưa ra kết luận khá xác đáng về sự thể hiện hình tượng con người cá thể: “Quan niệm về con người cá thể là cái nhìn nghệ thuật chung của các nhà văn về con người hôm nay, nó bộc lộ tính loại hình về quan niệm nghệ thuật của một thời đại. Văn học Việt Nam từ sau 1975 đặc biệt là ở truyện ngắn – thực sự đã đặt vấn đề “con người trong văn học”; “Có thể nói chưa bao giờ văn học ta đề cập đến giá trị và đời sống của con người cá nhân như giai đoạn hiện nay”[115; 64]. Chuyên luận Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại của Mai Hải Oanh đã chỉ ra trung tâm của sự biến đổi nghệ thuật: “Sau 1975, khi cái nhìn của nhà văn nghiêng về thế sự - đời tư, con người trong tiểu thuyết là con người đời thường, tồn tại trong hàng loạt các mối quan hệ chằng chịt, phức tạp, lắm khi oái oăm không đoán trước được điều gì”. Tác giả đặc biệt quan tâm đến sự bừng tỉnh của ý thức cá nhân trong văn học: “Đến thời kì đổi mới, ý thức cá nhân lại được thức tỉnh một lần nữa, sâu sắc hơn, mạnh mẽ hơn trong văn học Việt Nam”; “Ý thức cá nhân thể hiện thái độ và bản lĩnh dám sống cho mình, theo quan điểm của mình (…), là sự hiện diện của cái tôi với tất cả sự phong phú và góc cạnh trong nhiều mối quan hệ phức tạp và bí ẩn chứa nhiều cạm bẫy”[192; 28,95,96]. Gần đây nhất, Nguyễn Thị Kim Tiến đưa ra cái nhìn khái quát về con người trong sự phát triển, vận động của tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới, đồng thời khảo sát hình tượng con người ở góc nhìn xã hội và góc nhìn loại hình văn học: “Con người trong văn học thời kì đổi mới được các nhà văn quan niệm không còn đơn giản, xuôi chiều, thay vào đó, nhà văn nhìn con người ở nhiều thang bậc giá trị, ở những tọa độ ứng xử khác nhau, ở nhiều chiều kích, chân thực và toàn diện hơn. Nhờ sự thay đổi quan niệm về con người, nhà văn đã cắt nghĩa các vấn đề cuộc sống liên quan đến con người theo chiều hướng đa chiều”[261; 1]. Như vậy, vấn đề con người cá nhân đã được đề cập đến qua khá nhiều chuyên luận, công trình, bài báo có tính chất tổng kết, khái quát. Các tác giả khá thống nhất trong quan niệm: ý thức cá nhân đã thức tỉnh trở lại và con người đời tư, cá thể được xem là hạt nhân trong sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người của văn xuôi Việt Nam sau 1975. 2.2. Những nghiên cứu về các phƣơng diện biểu hiện con ngƣời cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn sau 1975 Theo quan sát của chúng tôi, các nhà nghiên cứu có điểm gặp gỡ nhau ở chỗ khẳng định văn xuôi sau 1975 thể hiện cái nhìn nhiều chiều về con người, trong sự đa bội, phức tạp và sinh động của chính nó. Nguyễn Thị Bình nhấn mạnh đến các kiểu loại người phổ biến và khẳng định: “với sự mở rộng một số bình diện khám phá con người, các nhà văn đã bước đầu xác lập được một hệ thống tiêu chí giá trị phù hợp với con người trong thời đại mới, phù hợp tinh thần nhân bản, dân chủ của sự nghiệp đổi mới xã hội mà Đảng tiến hành”[33; 117]. Ở một bài viết khác, bà tiếp tục nhấn mạnh chiều sâu nhận thức thẩm mĩ và sự phong phú của văn xuôi nước ta giai đoạn này: “Sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Phan Thị Vàng Anh… quan tâm nhiều đến hành trình tự ý thức của con người. Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Chu Lai, Đỗ Hoàng Diệu, Phạm Hoa, Nguyễn Quang Lập… có những phát hiện sắc sảo về con người bản năng, vô thức. Bảo Ninh, Hồ Anh Thái, Thuận, Châu Diên… lại nhiều trăn trở với đời sống tâm linh của con người”[33; 208]. Nguyễn Văn Long chú ý đến tính đa chiều trong các mối quan hệ người, đến các tầng bậc nhân tính được soi chiếu: “văn xuôi sau 1975 mở ra cái nhìn ở nhiều bình diện khác: con người như một thực thể tự nhiên, con người trong tính cá thể đơn nhất và trong tính nhân loại phổ quát”; “cùng với việc tiếp cận con người ở nhiều bình diện, văn xuôi cũng mở ra sự khám phá con người ở nhiều tầng bậc. Con người ý thức, tư tưởng, con người trong chiều sâu của tiềm thức, vô thức, tâm linh”[145; 70], “rất khó có thể đưa ra một bảng phân loại hay liệt kê nào có khả năng bao quát được thế giới nhân vật của văn xuôi hiện nay. Nhưng cũng có thể dễ dàng nhận ra khá nhiều kiểu loại nhân vật mới, vốn chưa có hoặc rất ít trong văn xuôi trước 1975: con người cô đơn, nhân vật bi kịch, nhân vật lạc thời, nhân vật kì ảo…”[145; 72]. Mai Hải Oanh dành một chương chuyên luận lần lượt phân tích, lí giải các loại hình nhân vật chính trong tiểu thuyết sau 1975 như bằng chứng về sự đổi mới cách nhìn con người: kiểu nhân vật tự ý thức, nhân vật bi kịch, nhân vật tha hóa, nhân vật dị biệt. Theo bà, “thế giới nhân vật trong tiểu thuyết đương đại thực sự là thế giới “muôn mặt đời thường”[192; 289]. Con người tự ý thức (con người tự thú hay sám hối) được khá nhiều tác giả quan tâm. Tôn Phương Lan có “Một vài suy nghĩ về con người trong văn xuôi thời kì đổi mới”. Bà nhấn mạnh: “Khảo sát con người trong nhu cầu tự nhận thức, các nhà văn đã tìm nhiều cách để tiếp cận với cõi tận cùng trong tâm hồn con người. Con người luôn mong đợi. Con người luôn khát khao, hi vọng và tìm kiếm cho dù có khi họ biết cái đã qua sẽ không bao giờ trở lại cũng như điều mong ước chắc gì đã có được trong đời”[134]. Bích Thu cho rằng trong những năm gần đây, cảm hứng tự nhận thức được khơi dậy mạnh mẽ trong văn xuôi, đặc biệt là lĩnh vực tiểu thuyết. Sự thể hiện cảm hứng này thông qua nhiều nhân vật (Giang Minh Sài trong Thời xa vắng, Khiêm trong Ngược dòng nước lũ, Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh, lão Khổ trong Lão Khổ, Khoái trong Tiễn biệt những ngày buồn, Tâm trong Cơ hội của chúa, Bằng trong Cơn giông…). Theo bà, đó là “những mẫu người đứng trước sự thử thách và lựa chọn trên các cực đối lập để nhận về mình thành công hay thất bại trong dòng chảy của cuộc đời”, và “nhà văn đã nhận diện con người đích thực với nhiều kiểu dáng nhân vật, biểu hiện phong phú và đa dạng nhu cầu tự ý thức, sự hòa hợp giữa con người tự nhiên, con người tâm linh và con người xã hội”[144; 232]. Mai Hải Oanh đã khẳng định trong chuyên luận của mình: “trong tiểu thuyết, loại nhân vật tự ý thức… hết sức đa dạng (…), kiểu nhân vật này đủ đông đảo để hình thành một dòng văn học tự vấn – thể hiện nhu cầu tự thức tỉnh của con người trong xã hội hiện đại”[192; 106]. Con người với cảm thức cô đơn, cảm thức lạc loài có lẽ thu hút nhiều nhất các nhà nghiên cứu. Bùi Việt Thắng nói: “Vấn đề nỗi cô đơn của con người cũng được một số cây bút chú ý. Không ít người miêu tả nó và miêu tả khá hay, nhưng không “hù dọa” con người và đẩy nó thêm vào tuyệt vọng”[234]. Nguyễn Thị Bình nhận xét: “cảm thức cô đơn, nỗi hoang mang lo âu trước bao điều phi lí dường như đang đậm dần trong tâm thế con người hiện đại, khi khúc xạ vào văn chương cũng thường mang gương mặt của “cái bi”; “nhiều tác giả lên tiếng cảnh báo về tình trạng mất khả năng giao tiếp giữa các cá nhân”, hoặc ở một số tác giả khác “nỗi cô đơn triết học thấp thoáng ẩn hiện”[33; 146-147]. Tương tự, khi điểm qua dấu hiệu đổi mới của văn xuôi, Bích Thu khẳng định: “những năm gần đây với tư duy nghệ thuật mới về con người, các nhà văn đã quan tâm đến nhu cầu tự ý thức, đến sự thức tỉnh của cá nhân, đến trạng thái tâm lí cô đơn của con người”; “cô đơn trở thành một chủ đề thu hút sự chú ý của nhiều cây bút văn xuôi hôm nay bởi bản chất của tâm trạng cô đơn là khao khát cái đẹp, cái thiên lương của con người”; “Cô đơn là vấn đề của mỗi bản thể, cá nhân nhưng nó không hẳn là vấn đề riêng tư, nhỏ bé. Có thể nói từng cuộc đời riêng của mỗi cá nhân gộp lại thành vấn đề của cộng đồng, của xã hội, một khía cạnh của chủ nghĩa nhân đạo hôm nay”[246]. Tôn Phương Lan giải thích về sự xuất hiện của nhân vật cô đơn: “Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, nhà văn đã có thể nhìn vào tâm thức, vào đời sống tình cảm và phát hiện ra những khao khát riêng tư, mối mâu thuẫn giữa kỳ vọng của con người và thực tế khách quan. Điều đó được thể hiện qua hiện tượng nhân vật cô đơn xuất hiện khá nhiều trong văn xuôi những năm đổi mới”[134]. Lê Thị Hường nhấn mạnh: “Với quan niệm con người cá thể, với sự thức tỉnh ý thức cá nhân, con người có lúc cảm thấy cô đơn và có nhu cầu nói to lên trạng thái tâm lý này”, “cô đơn trở thành điểm xoáy thu hút sự chú ý của nhiều cây bút”, “cô đơn là ám ảnh thường xuyên của nhân vật, trở thành chủ đề nổi bật”[116]. Hai tác giả Trần Hạnh Mai và Ngô Thị Thu Hiền sơ bộ nhận diện cảm thức lạc loài trong văn xuôi đã đề cập đến “nỗi cô đơn, đau đớn của con người khi xa lạ, bơ vơ giữa hiện tại, bất hòa với xung quanh”, các tác giả bài viết cho rằng “trong sự chuyển biến mạnh mẽ của văn xuôi đương đại, cảm thức lạc loài đã hiện ra như một cách nhận thức sâu sắc hơn về những vấn đề nhân sinh thiết cốt, về trạng thái nhân thế đáng buồn lo và cả ước vọng thiết tha về cuộc sống tốt đẹp hơn”[156]. Trịnh Đặng Nguyên Hương nói đến “những thức nhận về thân phận di dân, tha hương và lưu lạc”, từ đó “đào sâu vào thân phận con người mang tính phổ quát” trong sáng tác của nhà văn Thuận. Chỉ ra cảm thức lạc loài của các nhân vật ngay nơi tổ ấm, giữa cộng đồng, tác giả nhấn mạnh đến đặc điểm riêng trong sáng tác của nhà văn này: “nhân vật lạc loài trở thành phổ biến, không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, màu da, giới tính, quốc gia: một thế giới lạc loài không biên giới. Với Thuận, cảm giác, trạng thái lạc loài đã được ý thức sâu sắc, trở nên nhất quán, xuyên suốt, thường trực trong tác phẩm như là một cách thức diễn giải mang cảm quan riêng của chị về con người, xã hội và văn chương hiện đại”[114]. Con người tự nhiên bản năng cũng được nhắc tới trong một số công trình. Nguyễn Thị Bình không dùng khái niệm “tự nhiên bản năng” mà diễn giải: “con người là sản phẩm của tự nhiên”. Bà khẳng định văn xuôi sau 1975 “có nhu cầu cân bằng lại” cái nhìn lí tưởng hóa một chiều ở giai đoạn trước khi đề cập đến khát vọng mang tính bản năng của con người, “giúp cho hình ảnh về nó chân thật hơn”[33; 103]. Võ Thị Thanh Hà khi nói đến sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi giai đoạn mới cũng cho rằng các nhà văn sau 1975 đã nhìn nhận “con người với những khát vọng bản năng như là một điều bình thường tất yếu”, “con người được khám phá từ bản năng làm mẹ, bản năng tình dục…”[82; 323-324]. Về con người kì ảo, nhân vật gắn liền với các yếu tố vô thức tiềm thức, tâm linh trong văn xuôi sau 1975, Mai Hải Oanh nhận xét: “nhiều nhà văn đã xây dựng kiểu nhân vật huyền thoại hoặc mang những dáng dấp huyền thoại”[192; 133]; Bùi Thanh Truyền cho rằng: “Hệ thống nhân vật trong văn xuôi có yếu tố kì ảo hôm nay khá đa dạng, phong phú. Có thể đó là những nhân vật huyền thoại hoặc có nguồn gốc từ thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, những nhân vật siêu thực, lịch sử đã thuộc về thiên cổ như ma, quỷ, vong hồn… hoặc là cỏ cây, đồ vật, con vật… có hành động, chức năng thần kì, là những con người dưới đáy bị biến dạng, hóa thân bởi sự khắc nghiệt, hoang dã bởi môi trường sống, bởi không tìm được chỗ đứng giữa dòng đời cuộn chảy, bởi phép thuật, lời nguyền”[280]. Võ Thị Thanh Hà nhấn mạnh: “Tiểu thuyết đương đại khắc họa con người không chỉ ở tính cách, những điều có thể lí giải được bằng lí tính mà còn khám phá con người ở cõi tâm linh vi diệu biến ảo, khám phá những dòng ý thức và những mảnh tiềm thức đan vào nhau như một ma trận cực kì phức tạp của thế giới bên trong con người”[82; 323-324]. Thế giới con người vô cùng đa dạng và mỗi nhà nghiên cứu đều có cách tiếp cận riêng ở những giới hạn nhất định. Chúng tôi mới chỉ bao quát những ý kiến, những nhận định chung về văn xuôi và một số nghiên cứu luận giải về thế giới nhân vật của các tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Sự quan tâm đến con người cá nhân trong các công trình nói trên là những gợi dẫn cần thiết cho chúng tôi khi đi sâu vào vấn đề này. 2.3. Những ý kiến về các phƣơng thức nghệ thuật thể hiện con ngƣời cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn sau 1975 Khá nhiều tác giả quan tâm tới sự đổi mới văn xuôi trên phương diện nghệ thuật. Tuy nhiên, nhìn nó như là kết quả của ý thức về con người cá nhân thì chưa có công trình nào đặt vấn đề trực diện hoặc nghiên cứu một cách hệ thống. Khi khái quát những đổi mới trên phương diện thể loại của văn xuôi sau 1975, Nguyễn Thị Bình khẳng định: “góc độ tiếp cận con người đời tư đã cho phép văn xuôi nước ta từ sau 1975 tự phân biệt với văn xuôi giai đoạn trước đó”. Tác giả cho rằng biểu hiện cụ thể nhất của sự khác biệt này nằm ở tính chất của không gian nghệ thuật (“không gian mang tính cá nhân riêng tư”; “không gian đời tư thấm đẫm cảm giác của cá nhân”; “cảm giác mang tính cá nhân tạo ra cả những không gian ảo giác, không gian hoang tưởng của tâm linh, của cảm thức tôn giáo”) và thời gian nghệ thuật (“thời gian sự kiện ngắn”; “thời gian tâm lí, thời gian hồi tưởng có thể mở ra đến vô cùng”; “quá khứ đồng hiện cùng thực tại và tương lai, các lớp thời gian chồng lên nhau, có khi nhòe mờ, có khi đứt nối lộn xộn đã phá vỡ cấu trúc truyện truyền thống, đưa kiểu cốt truyện tâm lí lên hàng đầu”, “thời gian nghệ thuật giữ vai trò không thể thiếu trong việc bộc lộ đời sống riêng tư của con người ”[33; 136-139]). Cái nhìn khái quát này đã thực sự khơi mở cho chúng tôi triển khai luận án. Nguyễn Văn Long nhấn mạnh: “Sự khám phá vào thế giới tiềm thức, vô thức, đời sống tâm linh đã dẫn đến nhiều phương thức biểu đạt mới, như dòng ý thức, huyền ảo hóa”[145; 70]. Theo Mai Hải Oanh thì “bên cạnh những thủ pháp nghệ thuật cổ điển (…) thì việc vận dụng kĩ thuật dòng ý thức, sử dụng huyền thoại, phi lí, tái tạo mô típ, đặc tả hành động… nhằm miêu tả tính đa diện của nhân vật chính là những nỗ lực hiện đại hóa tiểu thuyết của các nhà văn Việt Nam”[192; 151]. Tìm hiểu một số cách biểu hiện con người cô đơn bất hạnh, Bích Thu kết luận: “thủ pháp độc thoại nội tâm với nhiều dạng thể hiện độc đáo như tự bạch, độc thoại với người vắng mặt, dạng viết nhật kí, sự đan xen giữa ý thức và tiềm thức để khơi sâu vào nỗi đau có tính chất dồn nén, nín lặng của con người” và “bằng thời gian đồng hiện, bằng các mạch phát triển của thời gian tâm trạng, các nhà văn đã có điều kiện đi sâu khai thác và khám phá đến tận cùng cõi cô đơn của con người”[246]. Khi nói về ý thức cách tân trong tiểu thuyết, bà nhấn mạnh đến vấn đề ngôn ngữ: “ngôn ngữ đối thoại giữ vai trò đáng kể trong khắc họa tính cách nhân vật. Mỗi nhân vật được nhà văn quan niệm như một ý thức, một tiếng nói, một chủ thể độc lập”, “độc thoại nội tâm trở thành một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong quá trình tự ý thức của nhân vật, đi sâu vào thế giới nội tâm đầy bí ẩn của nhân vật”; “tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đã vận dụng thủ pháp dòng ý thức như một phương tiện đi vào thế giới tâm linh một cách có hiệu quả”[145; 234-235]. Chúng tôi nhận thấy giới nghiên cứu tỏ mối quan tâm sâu sắc tới hình tượng con người cá nhân, coi con người cá nhân chính là cốt lõi của sự đổi mới văn xuôi sau 1975. Các phương diện và phương tiện thể hiện con người cá nhân cũng đã được bàn đến, tuy nhiên mới chỉ ở mức độ khảo cứu ban đầu. Cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách trực diện, hệ thống vấn đề Con người cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, chúng tôi sẽ tập trung khảo sát một cách hệ thống các bình diện của con người cá nhân và những phương thức nghệ thuật tương ứng. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài lấy đối tượng nghiên cứu là con người cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Tư liệu dùng để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài là các tiểu thuyết, truyện ngắn từ sau 1975, đặc biệt là từ 1986 đến những năm gần đây. Đây là hai thể loại tiêu biểu, đạt được nhiều thành tựu nhất trong văn xuôi. Hơn nữa, hai thể loại này có mô hình nghệ thuật, nguyên tắc nghệ thuật tương đối gần nhau. Nhưng do số lượng tác phẩm của hai thể loại là quá lớn, luận án dành sự ưu tiên cho những sáng tác nổi bật, có ý thức tự giác trong nhìn nhận và đánh giá con người cá nhân. Sự lựa chọn này phù hợp với dung lượng, thời gian thực hiện đề tài. Nhằm làm rõ con người cá nhân trong tiểu thuyết, truyện ngắn từ sau 1975, cần sự đối sánh với văn học đoạn trước đó. Vì vậy, đề tài sẽ mở rộng tư liệu khảo sát đến văn xuôi trước 1975 trong những trường hợp cần thiết. 4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục tiêu nghiên cứu Luận án đề ra mục tiêu nhận diện, phân tích các dạng cơ bản của con người cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975, từ đó khẳng định và lí giải sự xuất hiện trở lại của con người cá nhân, đồng thời chỉ ra những đổi mới nghệ thuật tự sự trên phương diện thể hiện con người cá nhân ở hai thể loại này. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.2.1. Xây dựng cơ sở lí luận của đề tài, cụ thể là xác định khái niệm công cụ: con người cá nhân. 4.2.2. Tìm hiểu những tiền đề xuất hiện trở lại và sự vận động của con người cá nhân trong tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam sau 1975. 4.2.3. Phân tích các dạng biểu hiện cơ bản của con người cá nhân trong tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam sau 1975. 4.2.4. Phân tích những đổi mới trong nghệ thuật thể hiện con người cá nhân trong tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam sau 1975. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau đây: - Phương pháp loại hình Con người cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn sau 1975 là một thực thể nghệ thuật vô cùng đa dạng, phức tạp. Để nhận diện và tìm hiểu đối tượng này, phương pháp loại hình giúp người nghiên cứu khảo sát, phân loại các dạng thức con người cá nhân trong tiểu thuyết, truyện ngắn sau 1975. - Phương pháp tiếp cận thi pháp học Chúng tôi sử dụng “công cụ” của thi pháp học để tiếp cận đối tượng trong quá trình thực hiện đề tài. Cụ thể là từ việc tìm hiểu những biến đổi quan niệm nghệ thuật về con người, chỉ ra những dạng thức cơ bản của con người cá nhân, từ đó tìm hiểu tác động của nó đến những đổi mới nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết và truyện ngắn từ sau 1975. - Phương pháp so sánh Phương pháp này giúp chúng tôi liên hệ, tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa các loại hình nhân vật, chỉ ra sự giống và khác nhau giữa các nhà văn trong thể hiện con người cá nhân, giúp xem xét sự thể hiện con người cá nhân trong đối sánh với giai đoạn văn học trước đó nhằm làm rõ đặc điểm riêng của con người cá nhân ở tiểu thuyết và truyện ngắn sau 1975. - Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại Phạm vi khảo sát của luận án là tiểu thuyết và truyện ngắn. Do đó, khi nghiên cứu con người cá nhân trong các sáng tác, phương pháp này giúp cho sự phân tích bám sát những đặc trưng của loại hình tự sự, đồng thời quan tâm đến đặc điểm riêng của mỗi thể loại trong việc thể hiện con người cá nhân. - Ngoài các phương pháp nêu trên, chúng tôi còn vận dụng phương pháp liên ngành. Sự phối kết hợp các phương pháp xã hội học, văn hóa học, tâm lí học… trong quá trình nghiên cứu giúp chúng tôi đáp ứng tốt hơn mục tiêu của luận án. 6. Những đóng góp mới của luận án 6.1. Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách chuyên biệt, toàn diện về con người cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam sau 1975; nhận diện và phân tích những dạng thức cơ bản của con người cá nhân, chỉ ra những cách tân của nghệ thuật tự sự trên phương diện thể hiện con người cá nhân trong tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam sau 1975. 6.2. Từ việc nghiên cứu về con người cá nhân, luận án góp phần khẳng định sự đổi mới của văn xuôi sau 1975 ở một chiều sâu cốt lõi là trình độ tư duy thẩm mĩ về con người. 6.3. Luận án cung cấp một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu và giảng dạy văn học Việt Nam sau 1975 tại các trường phổ thông, cao đẳng và đại học ngành ngữ văn. 7. Giới thiệu bố cục luận án Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận án được triển khai trong 3 chương: Chương 1 (Từ trang 13 đến trang 48): Quan niệm Con người cá nhân - Tiền đề xuất hiện trở lại và sự vận động của con ngƣời cá nhân trong tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Chương 2 (Từ trang 49 đến trang 96): Những kiểu con ngƣời cá nhân trong tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Chương 3 (Từ trang 97 đến trang 148): Con ngƣời cá nhân và những đổi mới nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam sau 1975 CHƢƠNG 1 QUAN NIỆM “CON NGƢỜI CÁ NHÂN” – TIỀN ĐỀ XUẤT HIỆN TRỞ LẠI VÀ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CON NGƢỜI CÁ NHÂN TRONG TIỂU THUYẾT, TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 1.1. Quan niệm “con ngƣời cá nhân” Con người được hiểu như một phần, một sinh thể toàn năng của thế giới tự nhiên, là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như: sinh học, tâm lí học, đạo đức học, dân tộc học, y học, triết học, văn học… Mỗi khoa học có cách nhìn nhận, cách nghiên cứu khác nhau về con người, tùy theo mục tiêu cụ thể. Việc hình dung “con người” trong tính chỉnh thể của nó thật không đơn giản và cũng không dễ bề thống nhất. 1.1.1. “Con ngƣời” và bản chất của con ngƣời Con người là “sinh vật có tính xã hội. Một bước phát triển cao nhất của sự sống trên trái đất. Con người tạo ra xã hội, làm ra công cụ lao động, biến đổi thiên nhiên, ý thức và có tiếng nói”[260; 197-198]. Xét về mặt bản chất xã hội, “con người không những chỉ tạo ra lao động xã hội mà còn thiết lập ra các mối quan hệ xã hội, hình thành hiện thực văn hóa xã hội và tiến trình lịch sử ” [260; 199]. Mặt khác, “với tính cách là hiện thân những năng lực sáng tạo đã hình thành về mặt lịch sử, với tính cách là kẻ chịu trách nhiệm cá nhân về tất cả những hậu quả của những hành vi của mình, của những sự đánh giá về việc chấp nhận những tiêu chuẩn nhất định của sinh hoạt xã hội, con người là một cá nhân”[260; 199]. Trong lịch sử triết học cơ bản có hai quan niệm khác nhau khi nói về bản chất của con người. Quan niệm thứ nhất – xuất phát từ chỗ đề cao tự nhiên, lấy tự nhiên là trung tâm - cho rằng con người là một bộ phận của vũ trụ, là một tiểu vũ trụ, phụ thuộc vào Trời đấng toàn năng tối cao (Triết học Ấn Độ và Trung Quốc cổ trung đại). Quan niệm thứ hai đề cao con người, nhấn mạnh đến vị thế của con người trong xã hội và đặt nó trong mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với tự nhiên (Triết học phương Tây cổ đại khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại phát hiện ra con người trong thế giới và cả một thế giới trong con người. Các nhà Khai sáng quan niệm con người là một bộ phận của thế giới tự nhiên, một động vật, suy nghĩ nhờ các giác quan. Các nhà triết học cổ điển Đức đã đề cao sức mạnh trí tuệ của con người và cho rằng: tư duy, ý thức của con người chỉ phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới, con người là chủ thể, đồng thời là kết quả hoạt động của một thời đại lịch sử nhất định của nền văn minh do chính nó tạo ra.) Một số trào lưu triết học phương Tây hiện đại (từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX) lại đưa ra những quan điểm khác nhau về con người và bản chất con người. Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật đã giúp con người khắc phục nghèo đói, bệnh tật; con người học được cách chế ngự tự nhiên, thay lao động cơ bắp bằng lao động cơ khí, lạc quan nhìn về tương lai. Tuy nhiên, đại chiến thế giới hai đã tàn phá các thành tựu khoa học – kĩ thuật, đẩy con người vào tình trạng khủng hoảng và hoài nghi, mất lòng tin vào lịch sử. Triết học phương Tây hiện đại vì vậy diễn ra theo xu hướng “có sự điều hòa mâu thuẫn giữa khoa học với tôn giáo, sự tách biệt đối lập giữa chủ nghĩa duy lí và chủ nghĩa nhân bản”[243; 144]. Triết học hiện sinh thể hiện “ý thức thuần túy về bản thân” cũng như “sự tồn tại đích thực nhân cách con người”, coi sự tồn tại của con người là hiện thực tuyệt đối và duy nhất. Triết học Freud nhấn mạnh đến ba yếu tố hình thành nhân cách con người: “cái ấy” (tính dục), “cái tôi” (ý thức của con người) và cái “siêu tôi” (đại diện của xã hội, lí tưởng và những tác động bên ngoài trong tâm lí con người). Triết học tôn giáo (điển hình là chủ nghĩa Thomas mới) đề cao đức tin vào Chúa, lấy Chúa làm trung tâm để con người thấm nhuần những giá trị chân chính… Như vậy, trong thời đại mới, các trào lưu triết học phương Tây cũng đi theo hai chiều hướng: một là đề cao vị thế của con người, hai là nhấn mạnh vai trò của tự nhiên (triết học tôn giáo). Xu hướng thứ nhất lại tiếp tục được tách ra thành hai quan niệm: đề cao bản năng tự nhiên (triết học Freud) hoặc coi trọng ý thức nhân vị (triết học hiện sinh). Chủ nghĩa Marx đã đưa ra những nguyên lí cơ bản của quan niệm biện chứng duy vật về con người. Song, việc xây dựng một quan điểm hài hòa, hoàn chỉnh về con người là một việc vô cùng khó khăn vì những biểu hiện bản chất của con người cực kỳ nhiều vẻ (đó là lí tính, là ý chí, tính cách, xúc cảm, lao động, giao tiếp…). Marx cho rằng: điều kiện quyết định sự hình thành con người là lao động. Lao động và xã hội đã tạo ra bản chất của con người. Marx viết: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng vốn có của một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa của tất cả những quan hệ xã hội”[289; 7]. Quan niệm về con người như vậy thực ra đã được manh nha từ triết học cổ điển Đức, khi J.G Fichte cho rằng, khái niệm con người không liên quan tới một con người đơn nhất… mà có liên quan đến giống người. L.A Feurbach cũng nhấn mạnh không có con người cô lập. Đó chính là tiền đề cho quan niệm của Marx về con người và bản chất con người. Tâm lí học chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx về con người nhấn mạnh đến quan điểm về “sự thống nhất biện chứng của những thành tố tự nhiên và xã hội”, đồng thời cho rằng: “con người về cơ bản phải được xem xét như một hiện tượng xã hội lịch sử cụ thể với những thuộc tính của mình, nó trở thành một cá nhân đặc biệt so với các cá nhân khác. Con người phát triển thành cá nhân và thành nhân cách, phụ thuộc trước hết không phải vào mong muốn và ý chí, mà là vào quan hệ xã hội, kinh tế chính trị và vật chất khách quan mà trong đó con người sống”[53; 114]. Tuy nhiên, do quá nhấn mạnh vào bản chất xã hội của con người, triết học Marx và Tâm lí học chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx chưa coi trọng đúng mức yếu tố tự nhiên trong cấu trúc cá nhân ở mỗi con người. Như vậy, các học thuyết cơ bản cho thấy: con người là một thực thể, một sản phẩm của tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, đi vào cụ thể, quan niệm về bản chất của con người cũng được phân tách theo hai xu hướng: một đề cao yếu tố tự nhiên, bản chất tự nhiên; một nhấn mạnh vào bản chất xã hội, ý thức xã hội của con người. 1.1.2. Quan niệm “con ngƣời cá nhân” và quá trình phát triển của con ngƣời cá nhân trong lịch sử 1.1.2.1. Quan niệm con người cá nhân Từ điển Triết học (Cung Kim Tiến (2002), NXB Văn hóa thông tin Hà Nội) cho rằng con người cá nhân được thể hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng, chịu sự tác động mạnh mẽ bởi các yếu tố xã hội: “Con người với những phẩm chất được quy định về mặt xã hội và được biểu lộ ở mỗi cá nhân: trí tuệ, tình cảm, ý chí”, “các đặc tính vốn có của cá nhân không thể là bẩm sinh, mà xét cho cùng là bị quy định bởi chế độ xã hội hình thành trong lịch sử”; “cá nhân là một tổng thể gắn bó những nét bên trong và những đặc điểm của con người, qua đó mọi tác động từ bên ngoài được phản ánh”, “cái chủ quan trong cá nhân (cảm xúc, ý thức, nhu cầu) là không tách rời các quan hệ khách quan được hình thành giữa con người với hình thức chung quanh. Trình độ phát triển của cá nhân phụ thuộc vào chỗ các quan hệ này tiến bộ đến đâu về mặt lịch sử”[260; 144]. Theo quan điểm này, con người – cá nhân được hiểu là những thực thể mang tính xã hội, ở đó có mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng. Cá nhân vì vậy vừa mang tính cá thể (của riêng nó) lại vừa mang tính phổ quát (của nhân loại). Nó được phân biệt với các cá thể khác thông qua chính tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Tiếp tục phân tích mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, triết học Marx cho rằng cá nhân luôn luôn được phân biệt với những đặc trưng căn bản sau: - “Thứ nhất: cá nhân là phương thức tồn tại cụ thể của loài người một cách trực tiếp, cảm tính. Không có con người nói chung, mà chỉ có con người cụ thể - cá nhân của giống loài. - Thứ hai, cá nhân là phần tử đơn nhất, riêng lẻ, tạo thành cộng đồng xã hội, là cơ sở hình thành lịch sử xã hội loài người. - Thứ ba, cá nhân là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách, biểu hiện trong phẩm chất sinh lý và tâm lý riêng biệt của mỗi con người. - Thứ tư, cá nhân trong mối quan hệ với xã hội là một hiện tượng lịch sử, vận động phát triển phù hợp với mỗi thời đại nhất định. Do đó, trong bất kỳ xã hội nào, cá nhân cũng không tách rời khỏi xã hội, mỗi thời đại sản sinh ra một kiểu cá nhân có tính đặc thù, thậm chí đối lập nhau, trong những quan hệ xã hội nhất định”[283]. Ở đây, cá nhân được hiểu theo nghĩa vừa là mỗi cá thể đơn nhất, là cơ sở hình thành xã hội; vừa là những nhân cách độc lập với phẩm chất tâm lí, sinh lí riêng. Cá nhân gắn bó chặt chẽ với xã hội và mang đặc điểm riêng của từng thời đại. Quan niệm con người cá nhân trong triết học Marx khá toàn diện khi có nói đến cả phương diện tự nhiên (phẩm chất tâm lí, sinh lí), vừa quan tâm đến phương diện xã hội của con người (trong đặc điểm “không tách rời khỏi xã hội”). Tuy nhiên, nhìn tổng thể vẫn thấy quan niệm trên chú tâm nhiều hơn đến con người xã hội mà lướt qua bản chất tự nhiên của con người. Trong cuốn Lịch sử cá nhân luận, Alain Laurent đã tổng hợp các ý kiến nghiên cứu về quá trình thai nghén của cá nhân trong tâm thức phương Tây. Trên cơ sở đó, Alain Laurent đã đưa ra quan niệm của mình về con người cá nhân. Ông khẳng định: “Bản tính con người là cá nhân”[137; 4]. Con người cá nhân có những “ham muốn và những dục vọng riêng biệt,… bị thúc đẩy bởi những lợi ích riêng khiến anh ta muốn sống theo các lợi ích này”[137; 5]. Trong mỗi cá nhân luôn luôn có sự kết hợp giữa bản năng tự nhiên và ý thức xã hội, giữa tình cảm tự phát và ý chí đã trở thành tự giác. Cá nhân có tính độc lập, tự do trong hành động. Cá tính độc lập của mỗi cá nhân được xem như “biểu hiện hoàn mĩ nhất của bản chất con người”[137; 6]... Đi sâu vào ý tưởng này, tác giả cho rằng “quyền tự nhiên của cá nhân là kẻ sáng tạo ra chính cuộc sống của mình mà không bị ép buộc – và là kẻ sáng tạo ra chính bản sắc của mình mà không thấy nó bị áp đặt bởi những sở thuộc không do mình chọn”[137; 7].
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất