Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cơ sở lý luận về quyền chọn chứng khoán và phòng ngừa rủi ro trên thị trường chứ...

Tài liệu Cơ sở lý luận về quyền chọn chứng khoán và phòng ngừa rủi ro trên thị trường chứng khoán

.DOC
68
61
99

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu tổng quan Thị trường chứng khoán đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế hiện đại, nó là cầu nối tài chính giữa những người cần vốn và những người có vốn nhàn rỗi, nhằm huy động các nguồn vốn trung và dài hạn trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế, bên cạnh đó TTCK còn là nơi để các nhà đầu tư kinh doanh kiếm lời thông qua hoạt động mua đi bán lại các chứng khoán, tuy nhiên thì việc kinh doanh chứng khoán có rất nhiều rủi ro khiến cho các nhà đầu tư không an tâm, gây nhiều tổn thất cho nhà đầu tư và để hạn chế bớt rủi ro cho nhà đầu tư thì trên thị trường chứng khoán cần phải có các công cụ phái sinh, trong đó có quyền chọn chứng khoán, nó giúp ích cho các nhà đầu tư không chỉ trong việc phòng ngừa rủi ro mà còn có thể kinh doanh kiếm lời (tất nhiên là bản thân quyền chọn cũng có rủi ro) – đây chính là hai chức năng kinh tế quan trọng của công cụ quyền chọn, kể từ khi thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời từ tháng 7 năm 2000 đến nay, nó đã trải qua rất nhiều những biến động về giá chứng khoán, gây ra nhiều mất mát cho nhà đầu tư, vì vậy để phòng ngừa rủi ro và tạo thêm sản phẩm cho thị trường chứng khoán thì công cụ quyền chọn đóng một vai trò rất quan trọng và hết sức có ý nghĩa trong việc tạo ra sự đa dạng về sản phẩm, hàng hóa mới cho thị trường và tăng thêm tính hấp dẫn cho các nhà đầu tư, nhằm giảm thiểu rủi ro và gia tăng lợi nhuận cho nhà đầu tư từ việc kinh doanh quyền chọn trên thị trường chứng khoán. Đây chính là lý do khiến tác giả chọn đề tài “Ứng dụng quyền chọn chứng khoán để kinh doanh và phòng ngừa rủi ro trên Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM”. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của quyền chọn chứng khoán. - Nghiên cứu các chiến lược quyền chọn chứng khoán trong kinh doanh và phòng ngừa rủi ro và sự hình thành và phát triển công cụ quyền chọn ở thị trường quyền chọn chứng khoán Chicago – Mỹ để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho việc triển khai quyền chọn chứng khoán trên SGDCK TP.HCM. 1 - Phân tích thực trạng SGDCK TP.HCM, nhận diện các loại rủi ro trên thị trường và từ đó đề xuất các giải pháp triển khai công cụ quyền chọn chứng khoán trên SGDCK TP. HCM. 3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về quyền chọn chứng khoán - Kinh nghiệm triển khai và ứng dụng quyền chọn chứng khoán của thị trường quyền chọn Chicago – Mỹ đề xuất các giải pháp trong việc ứng dụng quyền chọn chứng khoán trên SGDCK TP.HCM. - Đề tài không đi sâu vào việc định giá quyền chọn. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và kết hợp các phương pháp so sánh, đối chiếu, liên hệ, tổng hợp để khái quát bản chất của vấn đề nghiên cứu. 5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài - Nghiên cứu ứng dụng quyền chọn chứng khoán trên SGDCK TP.HCM để kinh doanh và phòng ngừa rủi ro cho nhà đầu tư, tạo thêm sản phẩm mới và cũng là để tạo thêm sự đa dạng, hấp dẫn cho thị trường, đồng thời cải thiện tính thanh khoản của thị trường. 6. Kết cấu của đề tài - Phần mở đầu - Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền chọn chứng khoán và phòng ngừa rủi ro trên TTCK - Chương 2: Vận dụng các chiến lược quyền chọn để kinh doanh và phòng ngừa rủi ro trong các điều kiện của thị trường. - Chương 3: Thực trạng SGDCK TP.HCM và sự cần thiết ứng dụng quyền chọn chứng khoán. - Chương 4: Các giải pháp ứng dụng quyền chọn chứng khoán để kinh doanh và phòng ngừa rủi ro trên SGDCK TP.HCM. - Kết luận 2 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CHỌN CHỨNG KHOÁN VÀ PHÒNG NGỪA RỦI RO TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1 Sự ra đời của quyền chọn Việc sử dụng quyền chọn trong một cố gắng bảo vệ các lợi ích kinh tế hay tài chính đạt được, được đề cập trong cuốn sách chính trị của Aristotle được xuất bản năm 332 trước công nguyên thì theo Aristotle, Thales là một triết gia và được cho là người sáng tạo ra quyền chọn. Thales không chỉ là nhà triết học lớn mà ông còn là nhà thiên văn học và nhà toán học. Để đáp lại lời chỉ trích rằng nghề của ông không đem lại giá trị. Thales đã sử dụng khả năng về thiên văn học của mình đọc các vì sao để dự báo về thời tiết. Kỹ năng này của ông đã cho phép ông tiên đoán được vụ thu hoạch Olive lớn trong năm tới. Tuy nhiên, Thales không đủ tiền để mua máy ép dầu Olive nên ông đã sử dụng số tiền ít ỏi của mình để mua quyền sử dụng các máy ép trong mùa thu hoạch chứ không mua các máy ép đó. Sở hữu cái quyền này đã cho Thales quyền sử dụng các máy ép trong mùa thu hoạch (hoặc ông có thể bán quyền sử dụng các máy ép dầu Olive của mình cho người khác mà nó cho ông lợi ích lớn hơn). Thales đã sáng tạo ra một hợp đồng quyền chọn đầu tiên. Người bán quyền cũng rất hạnh phúc vì ông ta có được thu nhập mà không cần quan tâm xem vụ mùa có thành công hay không. Thales đã chứng minh cho mọi người thấy rằng kiến thức triết học, thiên văn học và toán học của ông là rất có giá trị và đem lại những giá trị rất lớn cho bản thân và xã hội. Và quyền chọn tiếp tục phát triển trong các hợp đồng hoa tulip năm 1636 và hoa Tulip đầu tiên được nhập vào Châu Âu từ Thổ Nhĩ Kỳ vào những năm của thập niên 1500s. Và đầu thế kỷ 17, hoa Tulip được xem là biểu tượng của sự phồn thịnh vì vậy mà cầu bắt đầu vượt cung (Hà Lan được xem là nơi sản xuất hoa Tulip lớn nhất) người Hà Lan bắt đầu kinh doanh các quyền chọn hoa Tulip với số lượng lớn. Việc sử dụng quyền chọn thì không đắt đỏ như mua trực tiếp với số lượng lớn. Chiến lược quyền chọn này tỏ ra rất có lời và giá cả không leo thang nữa. 3 Vào năm 1872, một nhà tài chính người Mỹ tên Rusell Sage đã phát minh ra các quyền chọn mua, quyền chọn bán cổ phiếu đầu tiên. Giống như các quyền chọn ngày nay, quyền chọn của Sage cho người mua quyền chọn quyền được mua hoặc bán một khối lượng cổ phiếu nhất định trong một khoảng thời gian nhất định. Và theo dòng thời gian thì vào những năm đầu của thập niên 1900, một nhóm các công ty gọi là Hiệp hội các Nhà môi giới và Kinh doanh quyền chọn mua và quyền chọn bán đã thành lập thị trường các quyền chọn. Nếu một người nào đó muốn mua quyền chọn, một thành viên của hiệp hội này sẽ tìm một người bán sẵn sang muốn ký hợp đồng bán quyền chọn. Nếu công ty thành viên không thể tìm được người bán, tự công ty sẽ bán quyền chọn. Vì vậy, một công ty thành viên có thể vừa là nhà môi giới – người mang người mua và người bán đến với nhau – hoặc nhà kinh doanh – người thật sự thực hiện vị thế giao dịch. Mặc dù thị trường quyền chọn phi tập trung (OTC) này có thể tồn tại, nhưng nó cũng có rất nhiều khiếm khuyết. Thứ nhất, thị trường này không cung cấp cho người nắm giữ quyền chọn cơ hội bán quyền chọn cho một người khác trước khi quyền chọn đáo hạn. Các quyền chọn được thiết kế để được nắm giữ cho đến khi đáo hạn, và rồi thì chúng sẽ được thực hiện hoặc để cho hết hiệu lực. Vì vậy, hợp đồng quyền chọn có rất ít thậm chí là không có tính thanh khoản. Thứ hai, việc thực hiện hợp đồng của người bán chỉ được đảm bảo bởi công ty môi giới kiêm kinh doanh. Nếu người bán hoặc công ty thành viên của Hiệp hội các Nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn mua và quyền chọn bán bị phá sản, người nắm giữ quyền chọn tuyệt đối không may mắn. Thứ ba, chi phí giao dịch tương đối cao, một phần là do hai vấn đề trên. Và cho tới năm 1973, đã có một thay đổi mang tính cách mạng trong thế giới quyền chọn. Sàn giao dịch Chicago Board of Trade (CBOT), sàn giao dịch lâu đời nhất và lớn nhất về các hợp đồng giao sau hàng hóa, đã tổ chức một sàn giao dịch dành riêng cho giao dịch quyền chọn cổ phiếu. Sàn giao dịch này được đặt tên là Chicago Board Option Exchange (CBOE) và mở cửa giao dịch quyền chọn mua vào ngày 26/04/1973. Các hợp đồng quyền chọn bán đầu tiên được đưa vào giao dịch trong tháng 6/1977. CBOE đã tạo ra một thị trường trung tâm cho các hợp đồng quyền chọn. Bằng cách tiêu chuẩn hóa các kỳ hạn và điều kiện của hợp đồng quyền chọn, nó đã làm tăng tính thanh khoản của thị trường. 1.2 Tổng quan về quyền chọn 4 1.2.1 Khái niệm quyền chọn Quyền chọn là một hợp đồng giữa hai bên – người mua và người bán – trong đó cho người mua quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài sản nào đó vào một ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay. Không giống như hợp đồng tương lai, quyền và nghĩa vụ của người mua và bán quyền chọn không cân xứng nhau. Người mua quyền chọn có quyền, còn người bán quyền chọn có nghĩa vụ. Gía phải trả cho quyền chọn thường được gọi là giá trị quyền chọn hay phí quyền chọn. Thực chất của việc kinh doanh quyền chọn là đánh cược trên sự biến động giá cả của chứng khoán, nếu sự dự đoán của nhà đầu tư là chính xác thì NĐT có lời và ngược lại sẽ bị thua lỗ. Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định hàng hóa cơ sở với một mức giá xác định (hay còn được gọi là giá thực hiện - Strike price) và trong một thời hạn nhất định. Các hàng hóa cơ sở (Underlying assets) : Có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai. 1.2.2 Đặc điểm quyền chọn (Characteristics of options) - Vị thế mua là người mua quyền chọn có quyền thực hiện hoặc không thực hiện quyền, còn vị thế bán là người phải thực hiện theo yêu cầu của người mua quyền. - Ngày thực hiện quyền là do người mua quyền quyết định trong thời hạn của hợp đồng quyền chọn, nếu quá thời hạn thì quyền chọn mất hiệu lực, đối với quyền chọn kiểu Mỹ thì người mua quyền có thể thực hiện vào bất cứ ngày nào trong thời hạn của quyền chọn. Đối với quyền chọn kiểu Châu Âu thì ngày thực hiện quyền là ngày cuối cùng của quyền chọn (tức là vào ngày đáo hạn của quyền chọn). - Gía thực hiện – Strike price là giá đã được thỏa thuận đối với mỗi cổ phần theo đó thì chứng khoán cơ sở có thể được mua hoặc bán bởi người nắm giữ quyền chọn khi họ thực hiện hợp đồng quyền chọn. - Người mua quyền phải trả cho người bán quyền một khoản phí – gọi là phí quyền chọn (option premium). 5 - Phí quyền chọn có hai yếu tố chính là : Gía trị nội tại (Intrinsic value) và giá trị thời gian (Time value). + Gía trị nội tại của quyền chọn mua – Intrinsic Value (Call options) khi thị giá của cổ phiếu cở sở cao hơn giá thực hiện thì quyền chọn mua có lời – và số chênh lệch giữa thị giá và giá thực hiện chính là giá trị nội tại của quyền chọn mua. + Gía trị nội tại của quyền chọn bán – Intrinsic Value (Put options) nếu giá thị trường của chứng khoán cơ sở nhỏ hơn giá thực hiện thì quyền chọn bán có lời – và số chênh lệch giữa thị giá và giá thực hiện chính là giá trị nội tại của quyền chọn bán. + Gía trị thời gian của quyền chọn – Time Value - trước khi đáo hạn, trong phí quyền chọn gồm hai phần, phần phí dôi dư ngoài giá trị nội tại của quyền chọn chính là giá trị thời gian của quyền chọn. Gía trị thời gian của quyền chọn được biết đến như là một lượng giá trị mà một nhà đầu tư sẵn lòng trả cho một quyền chọn lớn hơn phần giá trị nội tại với hy vọng rằng vào một lúc nào đó trước khi hết hạn thì giá trị của quyền chọn sẽ tăng lên vì sự thay đổi thuận lợi trong giá của chứng khoán cơ sở. Thời gian càng dài và các điều kiện thị trường hoạt động có lợi cho nhà đầu tư, thì giá trị thời gian càng tăng lên. - Các trạng thái của quyền chọn: 6 + Đối với quyền chọn mua + Nếu giá thị trường của cổ phiếu lớn hơn giá thực hiện của cổ phiếu thì quyền chọn có lời – In the money – ITM. + Nếu giá thị trường của cổ phiếu nhỏ hơn giá thực hiện của cổ phiếu thì quyền chọn bị lỗ - Out of the money – OTM. + Nếu giá thị trường của cổ phiếu bằng giá thực hiện cổ phiếu thì quyền chọn mua hòa vốn – At the money – ATM. + Đối với quyền chọn bán + Nếu giá thị trường của cổ phiếu nhỏ hơn giá thực hiện của cổ phiếu thì quyền chọn bán có lời – In the money – ITM. + Nếu giá thị trường của cổ phiếu lớn hơn giá thực hiện của cổ phiếu thì quyền chọn bán bị lỗ - Out of the money – OTM. + Nếu giá thị trường của cổ phiếu bằng giá thực hiện của cổ phiếu thì quyền chọn bán hòa vốn – At the money – ATM. 1.2.3 Các dạng hợp đồng quyền chọn - Quyền chọn mua (Call Option) Quyền chọn mua cho người mua quyền được mua một số lượng cổ phiếu nhất định (thường một hợp đồng quyền chọn mua có số lượng là 100 cổ phiếu) trong một thời gian xác định – thời gian này có thể là 3,6, 9 tháng. Người mua quyền chọn trả cho người bán quyền chọn một khoản phí, và được gọi là phí quyền chọn. Người mua quyền có thể thực hiện quyền vào bất kỳ ngày nào trong thời hạn của quyền chọn (nếu là quyền chọn kiểu Mỹ) nếu quá thời hạn của quyền chọn mà người mua không thực hiện quyền thì quyền chọn trở lên vô hiệu. Minh họa : (Trong các trường hợp sau đây thì phải giả định là không có thuế, phí và chi phí giao dịch). Khi một nhà đầu tư mua một hợp đồng quyền chọn mua cổ phiếu XYZ (lúc này nhà đầu tư đang kỳ vọng về sự tăng giá của cổ phiếu XYZ trong tương lai) với số lượng là 100 cổ phiếu, giá thực hiện là 100USD/cổ phiếu trong vòng 3 tháng tới, vậy nhà đầu tư có thể bán 100 cổ phiếu này vào ngày bất kỳ trong vòng 3 tháng tới, giả sử người mua phải trả cho 7 người bán quyền một khoản phí là 2USD/cổ phiếu hay 200USD/hợp đồng. Gỉa sử trong thời gian tới giá cổ phiếu XYZ tăng lên 120 USD/cổ phiếu thì khi đó nhà đầu tư sẽ thực hiện quyền chọn là mua 100 cổ phiếu XYZ với giá là 100USD/cổ phiếu rồi sau đó đem bán ngoài thị trường với giá là 120USD/cổ phiếu. Như vậy lúc này nhà đầu tư đã lời 20USD/cổ phiếu và được tính như sau : (120USD x 100) - (100USD x 100) = 2000USD Trừ đi phí quyền chọn mua là : 2USD x 100 = 200USD Vậy số tiền lời thực của nhà đầu tư : 1800USD = 2000USD - 200USD - Quyền chọn bán (Put Option) Quyền chọn bán cho người mua quyền được bán một số lượng cổ phiếu (thường là 100 cổ phiếu/hợp đồng quyền chọn bán) nhất định trong một thời gian nhất định và người mua quyền phải trả cho người bán quyền một khoản phí. Quyền chọn bán ngược lại với quyền chọn mua (nếu quyền chọn mua áp dụng cho nhà đầu tư kỳ vọng vào sự tăng giá cổ phiếu trong tương lai thì quyền chọn bán lại được các nhà đầu tư kỳ vọng vào sự sụt giảm giá trong tương lai của cổ phiếu). Khi nhà đầu tư mua một hợp đồng quyền chọn bán cổ phiếu XYZ nào đó (có nghĩa là nhà đầu tư đang kỳ vọng vào sự sụt giá của cổ phiếu XYZ trong tương lai) với số lượng là 100 cổ phiếu với giá là 100USD/cổ phiếu, thời gian là 3 tháng, người mua quyền chọn bán phải trả một khoản phí là 2USD/cổ phiếu hay 200USD/hợp đồng. Gỉa sử một tháng sau giá cổ phiếu XYZ trên thị trường giảm xuống còn 80USD/cổ phiếu vậy lúc này nhà đầu tư sẽ mua 100 cổ phiếu XYZ trên thị trường với giá là 80USD/cổ phiếu và sau đó bán lại theo hợp đồng quyền chọn bán cũng 100 cổ phiếu XYZ này nhưng với giá là 100USD/cổ phiếu, vậy nhà đầu tư đã lời 20USD/cổ phiếu và được tính như sau : (100USD x 100) - (80USD x 100) = 2000USD Trừ đi phí quyền chọn là : 2USD x 100 = 200USD Số tiền lời thực của nhà đầu tư là : 1800USD = 2000USD - 200USD - Quyền chọn 2 chiều (Call and put options) 8 Trong trường hợp giá cả của cổ phiếu biến động nhiều thì nhà đầu tư nên chọn quyền 2 chiều – nhà đầu tư sẽ mua cả quyền chọn mua và quyền chọn bán để phòng ngừa rủi ro và kiềm lời, nếu trong trường hợp giá cả cổ phiếu trên thị trường tăng lên thì nhà đầu tư nên thực hiện quyền chọn mua và ngược lại nếu giá cổ phiếu trên thị trường giảm giá thì nhà đầu tư sẽ thực hiện quyền chọn bán để kiếm lời. Tuy nhiên thì nhà đầu tư cũng phải quan tâm tới biên độ biến động giá, nếu biên độ biến động giá lớn thì việc kinh doanh quyền chọn mới có lời, còn nếu biên độ dao động hẹp hoặc không có sự biến động giá thì số tiền kiếm được sẽ không đủ bù đắp chi phí và sẽ bị thua lỗ. 1.3 Chức năng kinh tế của quyền chọn 1.3.1 Ứng dụng quyền chọn trong kinh doanh Cổ phiếu của công ty Z hiện đang giao dịch trên thị trường với mức giá 20.000đ/cổ phần. Nhà đầu tư dự đoán mức giá này sẽ tăng lên trong vòng 1 tháng tới. Gỉa sử quyền lựa chọn được niêm yết để giao dịch đối với cổ phiếu Z, nhà đầu tư có thể mua một quyền chọn mua cổ phiếu Z ở mức giá 20.000đ, với số lượng 100.000 cổ phiếu. Gỉa sử phí của quyền chọn là 2% giá trị hợp đồng tương đương với : 20.000đ x 100.000CP x 2% = 40.000.000đ Nhà đầu tư bỏ ra 40 triệu đồng để mua quyền chọn mua này. Sau một tháng cổ phiếu Z tăng lên 21.000đ/cổ phiếu vậy phần chênh lệch giá NĐT được hưởng là 100.000.000đ, trừ phí 40.000.000đ còn lại lãi ròng là 60.000.000đ. Như vậy trong vòng 1 tháng nhà đầu tư đã thu được khoản lợi nhuận là 60.000.000đ trên khoản đầu tư là 40.000.000đ, tương đương với lãi suất 150%. Nếu thay vì sử dụng quyền chọn, nhà đầu tư phải bỏ ra 2 tỷ đồng để mua 100.000 cổ phiếu Z sau 1 tháng giá tăng lên 21.000đ, nhà đầu tư bán cổ phiếu và thu được tiền lời là 100.000.000đ trên vốn đầu tư là 2 tỷ đồng tương đương mức lợi tức là 5%. 1.3.2 Ứng dụng quyền chọn phòng ngừa rủi ro Chức năng kinh tế quan trọng nhất của quyền chọn là nhằm cung cấp công cụ giảm thiểu rủi ro. Một người đang phải chịu rủi ro từ một sự thay đổi giá bất lợi có thể sự dụng các quyền chọn để loại trừ rủi ro đó. Một quyền chọn mua có thể được xem như là một công cụ đảm bảo một mức giá mua tốt (nếu giá thị trường của chứng khoán cao hơn mức giá thực 9 hiện, quyền chọn sẽ giúp nhà đầu tư mua được chứng khoán tại mức giá thực hiện). Một quyền chọn bán sẽ đảm bảo một mức giá bán tốt (việc thực hiện quyền sẽ giúp cho nhà đầu tư bán chứng khoán ở mức giá thực hiện trong trường hợp giá thị trường của chứng khoán thấp hơn giá thực hiện). Như vậy, các quyền chọn có thể được xem như một công cụ phòng ngừa những sự thay đổi giá bất lợi. 1.4 Lợi nhuận và rủi ro trong hợp đồng quyền chọn Hầu hết trong các chiến lược mà các nhà đầu tư quyền chọn sử dụng để giới hạn rủi ro, nhưng đồng thời thì lợi nhuần tiềm năng cũng có giới hạn. Vì lý do này, các chiến lược quyền chọn không phải là những kế hoạch làm giàu nhanh chóng. Các giao dịch quyền chọn thường cần vốn ít hơn so với các giao dịch kinh doanh cổ phiếu nhưng lại đem lại tỷ suất sinh lợi cao hơn so với việc kinh doanh cổ phiếu. Thậm chí đối với các nhà đầu tư mà sử dụng quyền chọn trong các chiến lược đầu cơ, như là viết quyền chọn mua (bán quyền chọn mua) thường cũng không nhận được lợi nhuận cao. Lợi nhuận tiềm năng thì giới hạn trong phí quyền chọn mà họ nhận được từ mỗi hợp đồng, và lỗ tiềm năng là không giới hạn. Mặc dù vậy thì quyền chọn không phải dành cho mọi người và chúng là những sự lựa chọn linh hoạt nhất trong các lựa chọn đầu tư. Tùy thuộc vào các hợp đồng, quyền chọn có thể bảo vệ hoặc tăng cường sự đa dạng của các danh mục đầu tư khác nhau của các nhà đầu tư trong các thị trường hướng lên, hướng xuống và các thị trường có sự biến động không nhiều. - Đối với vị thế mua : Một trong những lợi ích của việc mua quyền chọn là sự lời lỗ không cân xứng. Mua quyền chọn mua tạo lợi nhuận tiềm năng không giới hạn nếu giá chứng khoán tăng trong khi khoản lỗ do rủi ro giá chứng khoán rớt xuống chỉ giới hạn trong khoản phí quyền chọn đã trả trước. Tương tự, mua quyền chọn bán sẽ mang lại khoản lợi nhuận không giới hạn nếu giá cổ phiếu rớt xuống trong khi khoản tổn thất tối đa khi giá cổ phiếu tăng chỉ bằng phần phí quyền chọn ban đầu. Kết quả không cân xứng này mang đặc tính của bảo hiểm, là lý do mà ta phải trả tiền khi mua quyền chọn được gọi là phí quyền chọn (option premium). Đối với người mua, hợp đồng quyền chọn cho một đòn bẩy tài chính (leverage) với rủi ro có thể tính trước. Phí mua hợp đồng (premium) chỉ là một phần rất nhỏ so với giá thị 10 trường của chứng khoán cơ sở (Underlying stock). Vì thế người mua hợp đồng có thể tham gia vào bất cứ trường hợp biến chuyển giá chứng khoán mà không phải mua chính chứng khoán đó, nên không phải bỏ một số tiền lớn để đầu tư. Ngoài ra, người mua quyền chọn biết rằng sự thua lỗ tối đa chỉ bằng tổng số phí mua quyền chọn. Đối với hầu hết các nhà đầu tư, quyền chọn là các công cụ quản lý rủi ro rất hữu ích, quyền chọn đóng vai trò như là các chính sách bảo hiểm chống lại sự sụt giá của cổ phiếu trên thị trường. Nếu một nhà đầu tư đang lo lắng về sự sụt giá cổ phiếu của công ty A chẳng hạn, NĐT có thể mua quyền chọn bán và quyền chọn bán này cho người mua quyền bán cổ phiếu ở mức giá thực hiện mà không cần quan tâm đến sự sụt giá của cổ phiếu công ty A trên thị trường. Việc thực hiện quyền chọn này được xem như là một sự bảo hộ. Sự bảo hộ của quyền chọn giúp quản lý rủi ro, các nhà đầu tư cần nhớ rằng tất cả các khoản đầu tư đều ẩn chứa rủi ro và lợi luận thì không bao giờ được đảm bảo chắc chắn. Các nhà đầu tư sử dụng quyền chọn để quản lý rủi ro và cũng là để giảm thiểu các khoản lỗ tiềm năng. Họ có thể lựa chọn mua các loại quyền chọn, vì sự thua lỗ được giới hạn trong khoản phí quyền chọn. Đổi lại, họ có được quyền để mua hoặc bán cổ phiếu ở một mức giá có thể chấp nhận được đối với họ. Họ cũng có thể nhận được lợi nhuận từ sự gia tăng trong giá trị của phí quyền chọn, nếu họ chọn cách bán lại quyền chọn cho thị trường hơn là thực hiện quyền đó. Vì người viết quyền chọn (người bán quyền chọn) thường buộc phải bán hoặc phải mua cổ phiếu ở mức giá không thuận lợi lắm, loại rủi ro thường gắn với các vị thế bán nhiều hơn. Hầu hết các chiến lược quyền chọn được thiết kế để giảm thiểu rủi ro bằng cách bảo vệ cho các danh mục đầu tư. Trong khi các quyền chọn đóng vai trò như là các mạng lưới an toàn thì bản thân chúng cũng không phải là không có rủi ro. Vì thông thường các giao dịch mở và đóng trong khoảng thời gian rất ngắn, lợi nhuận được thực hiện cũng rất nhanh chóng. Điều này có nghĩa là những khoản thua lỗ cũng có thể gia tăng rất nhanh chóng. Điều quan trọng là phải hiểu được tất cả các loại rủi ro liên quan đến việc nắm giữ, bán hay kinh doanh quyền chọn trước khi NĐT gộp chúng vào trong danh mục đầu tư của NĐT. - Đối với vị thế bán : Người bán hợp đồng quyền chọn được gọi là người viết hợp đồng. Mục tiêu cơ bản của người bán hợp đồng là kiếm thêm tiền bằng phí quyền chọn do người mua trả. Số lợi 11 tức này đôi khi có thể được công thêm vào tổng số lợi nhuận trong danh mục đầu tư. Tất cả người bán hợp đồng quyền chọn có thể mua ngăn chặn (Buy in) hay mua chấm dứt (Closing purchase), đây là phương thức nhằm chấm dứt trách nhiệm giao hay nhận chứng khoán, nghĩa là người bán hợp đồng sẽ mua một hợp đồng quyền chọn tương tự như hợp đồng quyền chọn đã bán (nhưng chỉ có phí quyền chọn và giá điểm là khác nhau). Hợp đồng quyền chọn thứ hai sẽ bù đắp cho hợp đồng quyền chọn thứ nhất. Người bán sẽ lời hay lỗ tùy thuộc vào chênh lệch giữa hai phí quyền chọn. Nói chung, các công cụ phái sinh như hợp đồng tương lai và quyền chọn là các công cụ bảo hiểm giá chứng khoán rất hữu hiệu. Tuy nhiên thì nó cũng hàm chứa rủi ro như là khoản phí quyền chọn mà nhà đầu tư phải bỏ ra để có được quyền, giống như các loại chứng khoán khác – cổ phiếu, trái phiếu và các chứng chỉ quỹ - thì các quyền chọn cũng không có sự đảm bảo chắc chắn nào, và NĐT phải nên nhớ rằng họ có thể mất tất cả vốn khi đầu tư vào quyền chọn và thậm chí đôi khi NĐT còn mất nhiều hơn thế. Đối với người nắm giữ quyền chọn, NĐT có rủi ro đối với toàn bộ phí quyền chọn mà NĐT đã trả. Nhưng đối với người viết quyền chọn, họ nhận nhiều rủi ro hơn. Chẳng hạn, nếu NĐT viết (bán) quyền chọn mua không phòng ngừa, NĐT sẽ phải đối mặt với một khoản lỗ không giới hạn vì NĐT không biết chắc được giá cổ phiếu sẽ tăng cao bao nhiêu. Tuy nhiên, thì khoản phí đầu tư quyền chọn ban đầu thường thì đòi hỏi vốn ít hơn vị thế kinh doanh cổ phiếu, khoản thua lỗ tiềm năng của các nhà đầu tư quyền chọn thường nhỏ hơn so với khoản thua lỗ từ việc NĐT mua cổ phiếu cơ sở và bán chúng trong thời gian ngắn. Trường hợp ngoại lệ này là quy tắc chung khi NĐT sử dụng quyền chọn như là một đòn bẩy : Tỷ suất sinh lợi cao nhưng NĐT cũng phải luôn nhớ rằng tỷ lệ thua lỗ cũng rất là cao. 1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến giá của quyền chọn 1.5.1 Gía thị trường của chứng khoán cơ sở và giá thực hiện (Market price and strike price of the underlying stock). Giá trị của quyền chọn phụ thuộc rất lớn vào giá của chứng khoán cơ sở. Như đã được giải thích ở phần trên, nếu giá thị trường của cổ phiếu cao hơn giá thực hiện của cổ phiếu (đối với quyền chọn mua) thì quyền chọn có lời – In the money. Ngược lại, nếu giá thị 12 trường của cổ phiếu nhỏ hơn giá thực hiện của cổ phiếu (đối với người mua quyền chọn bán) thì quyền chọn bán có lời – In the money. Sự chênh lệch giữa giá thực hiện và giá thị trường của cổ phiếu cơ sở được biết đến như là giá trị nội tại của quyền chọn. Chỉ các quyền chọn có lời mới có giá trị nội tại. 1.5.2 Thời gian cho đến khi đáo hạn (Time remaining until expiration) Đối với các quyền chọn kiểu Mỹ (kể cả quyền chọn mua và quyền chọn bán) tất cả các yếu tố khác giữ nguyên, thời gian cho đến khi hết hạn càng dài thì giá của quyền chọn càng cao, vì giá của cổ phiếu cơ sở càng có khả năng biến động để cho quyền chọn trở thành có lãi và đem lại lợi nhuận. Đối với quyền chọn kiểu Châu Âu, ảnh hưởng của thời gian cho đến khi hết hạn phụ thuộc vào việc quyền chọn là quyền chọn mua hay bán). Gía trị thời gian sẽ giảm xuống nhanh chóng trong một vài tuần cuối cùng trong vòng đời của quyền chọn. 1.5.3 Độ bất ổn trong giá của cổ phiếu cơ sở (Volatility) Độ bất ổn của giá cổ phiếu cơ sở càng cao thì phí quyền chọn càng cao bởi sự biến động giá của cổ phiếu rất có thể làm chọn quyền chọn trở lên có lời hơn. Độ bất ổn giá cổ phiếu chính là điều kiện tốt để triển khai công cụ quyền chọn. 1.5.4 Cổ tức (Dividend) Cổ tức tiền mặt được trả cho các cổ đông. Do vậy, cổ tức tiền mặt ảnh hưởng đến phí quyền chọn thông qua sự ảnh hưởng của giá cổ phiếu cơ sở. Bởi vì giá của cổ phiếu cơ sở sẽ giảm xuống đúng bằng số tiền mặt cổ tức được chi trả, việc chi trả cổ tức tiền mặt càng cao thì phí quyền chọn mua giảm và phí quyền chọn bán càng tăng. 1.5.5 Lãi suất ngắn hạn phi rủi ro (Free short term interest rate) Trong suốt thời hạn của quyền chọn, khi các yếu tố khác không thay đổi, giá của một quyền chọn mua của một trái phiếu sẽ tăng khi lãi suất ngắn hạn phi rủi ro tăng. Đối với một quyền chọn bán của trái phiếu thì ngược lại : một sự gia tăng mức lãi suất ngắn hạn phi rủi ro sẽ làm giảm giá của một quyền chọn bán. 1.5.6 Lãi suất danh nghĩa (Coupon interest rate) Đối với các quyền chọn của các trái phiếu, lãi suất danh nghĩa sẽ có xu hướng làm giảm giá của quyền chọn mua bởi vì lãi suất danh nghĩa sẽ làm cho việc nắm giữ trái phiếu 13 trở nên hấp dẫn hơn so với nắm giữ quyền. Vì vậy các quyền chọn mua của các trái phiếu sẽ bị định giá thấp hơn so với các quyền chọn mua của các trái phiếu không có lãi suất danh nghĩa. Ngược lại, lãi suất danh nghĩa có xu hướng làm tăng giá của các quyền chọn bán. 1.6 Những điều kiện cần thiết để ứng dụng quyền chọn 1.6.1 Điều kiện về luật pháp Để thị trường quyền chọn có thể hoạt động công bằng và hiệu quả thì luật pháp là không thể thiếu, cần phải xây dựng luật pháp đủ mạnh và có hiệu lực để quản lý, giám sát và xử phạt đối với các hành vi gian lận thị trường. Mọi hoạt động của các chủ thể tham gia trên thị trường đều phải tuân theo những qui định của UBCKNN về công bố thông tin và các hoạt động giao dịch của thị trường. Và cần phải có Đạo luật tư vấn đầu tư và thành lập công ty bảo vệ nhà đầu tư nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của NĐT khi tham gia giao dịch trên thị trường quyền chọn. 1.6.2 Điều kiện về cơ sở hạ tầng kỹ thuật Xây dựng một hệ thống công nghệ thông tin thật sự hiện đại nhằm cung cấp các thông tin tới NĐT nhanh chóng, chính xác và kịp thời. Thông tin tại các sở giao dịch phải được thông suốt, có thể xóa đi tối đa sự chênh lệch về giá và sự lệch pha về thông tin. Để làm được việc này cần phải tập trung xây dựng hệ thống công nghệ thông tin thật sự hiện đại và đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của thị trường. 1.6.3 Điều kiện đối với thị trường chứng khoán cơ sở Để có thể triển khai ứng dụng quyền chọn chứng khoán thì điều quan trọng đối với thị trường chứng khoán cơ sở là : Thứ nhất, vì quyền chọn chứng khoán là sự đánh cược trên sự chuyển biến giá cả của chứng khoán, do vậy thị trường chứng khoán phải luôn đảm bảo được tính thanh khoản cao, nếu thiếu tính thanh khoản của thị trường chứng khoán thì không thể triển khai ứng dụng quyền chọn. Hạn chế tối đa các hình thức gian lận trên thị trường chứng khoán, tránh tình trạng làm mất niềm tin của NĐT đối với thị trường và gây tác động xấu đến tính thanh khoản của thị trường. Thu hút các NĐT nước ngoài tham gia giao dịch trên thị trường bằng việc mở thêm room cho họ và nâng cao chất lượng của các công ty niêm yết. 14 Thứ hai, bảo vệ tính trong sáng và minh bạch của thị trường bằng cách tăng cường công tác quản lý, giám sát của UBCKNN nhằm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý thật nghiêm minh các trường hợp gian lận gây tác động xấu cho thị trường, làm mất niềm tin của NĐT đối với thị trường. Thị trường chứng khoán hoạt động tốt là điều kiện tiên quyết để triển khai thành công thị trường quyền chọn chứng khoán. 1.7 Những mặt tích cực và tiêu cực khi ứng dụng quyền chọn 1.7.1 Những mặt tích cực - Giúp các NĐT có thêm sản phẩm mới giao dịch trên thị trường, NĐT có thể kinh doanh quyền chọn chứng khoán để kiếm lời với chi phí bỏ ra ít mà tỷ suất sinh lợi lại cao (đòn bẩy), tỷ suất sinh lợi cao hơn so với việc kinh doanh chứng khoán và việc kinh doanh quyền chọn của NĐT còn làm gia tăng tính thanh khoản cho thị trường chứng khoán. - Hạn chế tối đa những rủi ro khi có sự biến động bất lợi về giá cả của chứng khoán mà NĐT đang nắm giữ và giới hạn rủi ro trong phí quyền chọn. Đây là chức năng quan trọng nhất của quyền chọn. 1.7.2 Những mặt tiêu cực - Việc kinh doanh quyền chọn đòi hỏi NĐT phải thật sự am hiểu về lợi ích cũng như rủi ro của các chiến lược quyền chọn vì việc kinh doanh quyền chọn có thể làm cho NĐT (người bán quyền chọn) rơi vào rủi ro không giới hạn do sự thay đổi bất lợi của giá cả chứng khoán buộc họ phải thực hiện theo yêu cầu của người mua quyền chọn. - Người viết quyền chọn phải đặt cọc theo yêu cầu của nhà môi giới để hạn chế rủi ro khi người mua quyền thực hiện quyền chọn và nếu thị trường hoạt động bất lợi cho người bán quyền thì họ phải đặt cọc bổ sung nếu không nhà môi giới sẽ khóa tài khoản giao dịch của người viết quyền và người viết quyền phải chịu toàn bộ rủi ro. - Những điều kiện của thị trường như tính thanh khoản thấp, lỗi do công nghệ giao dịch… làm tăng rủi ro cho nhà đầu tư khi họ muốn thoát vị thế, hay không thể giao dịch. 1.8 Bài học kinh nghiệm ứng dụng quyền chọn trên Sở giao dịch CKTP.HCM 1.8.1 Thị trường phái sinh ở Thái Lan Sở giao dịch sản phẩm phái sinh Thái Lan là thị trường giao dịch các sản phẩm phái sinh nhằm cung cấp thêm các sản phẩm cho thị trường chứng khoán và giúp phòng ngừa rủi 15 ro cho các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán phái sinh của Thái Lan được thành lập vào năm 2004 và hoạt động theo luật công cụ phái sinh năm (2003), cho phép sở giao dịch được phép giao dịch các hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn với các loại tài sản cơ sở là chứng khoán, chỉ số chứng khoán, và các loại khoáng sản. Sở giao dịch sản phẩm phái sinh của Thái Lan được trang bị công nghệ giao dịch tự động, có trung tâm thanh toán bù trừ (Clearing Center) là công ty trách nhiệm hữu hạn thanh toán bù trừ – thực hiện thanh toán bù trừ cho tất cả các giao dịch của sở. Công ty này cung cấp các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh hợp đồng và xử lý các loại rủi ro cho các thành viên. Khối lượng giao dịch bình quân trên ngày tại sở giao dịch này tăng liên tục từ 3.000 hợp đồng giao dịch quý I/2007 đến quý IV/2007 đạt bình quân 6.000 hợp đồng/ ngày, tương ứng với khối lượng giao dịch khoảng 150 triệu USD/ngày. Kết quả này phản ánh xu thế phát triển tất yếu của thị trường phái sinh ở các nước đang phát triển. 1.8.2 Thị trường chứng khoán Trung Quốc TTCK Trung Quốc ra đời vào cuối thập niên 1990, làm nhiệm vụ huy động vốn cho công cuộc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Nhưng phải đến năm 2005, thị trường mới bắt đầu sôi động khi chính phủ cho đấu giá cổ phần lần đầu (IPO) nhiều doanh nghiệp nhà nước có vị trí độc quyền trong nền kinh tế quốc dân. Từ đó sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ là một đặc trưng nổi bật của TTCK Trung Quốc. Có rất nhiều NĐT nước ngoài tham gia vào TTCK Trung Quốc, điều này khiến cho TTCK trở nên hấp dẫn và sôi động hơn. Tháng 4/2007, TTCK Trung Quốc ghi nhận con số NĐT mở tài khoản ở mức kỷ lục 4,79 triệu người. Người dân đổ xô vào chứng khoán đã khiến TTCK nóng lên và rơi vào tình trạng bong bóng. Kết thúc nửa đầu năm 2008, chỉ số chứng khoán CSI 300 của TTCK Thượng Hải xoay quanh mức 2.600 điểm, mất 58% tính từ mức đỉnh 6.214 điểm đạt được vào tháng 10 năm 2007. Giá trị giao dịch cũng giảm tương ứng, bình quân mỗi phiên giao dịch trong tháng 6/2008 chỉ có 98,6 tỷ nhân dân tệ (14,43 tỷ USD) cổ phiếu được khớp lệnh, chưa bằng một nửa so với mức 212,5 tỷ nhân dân tệ (31,1 tỷ USD) bình quân hồi tháng 6/2007. Trong tháng 6/2008 chỉ có thêm 7 tỉ “cổ phiếu phi thương mại” của 98 doanh nghiệp niêm yết được chuyển đổi và bán ra thị trường với giá trị 98 tỉ nhân dân tệ (14,34 tỉ USD), giảm 65% so với tháng 4/2008. Ngay sau đó, thuế chuyển nhượng chứng khoán được 16 giảm từ 0,3% xuống 0,1%. Và tháng 4/2007 chính quyền Trung Quốc đã đưa ra những quy định mới áp dụng cho thị trường chứng khoán, cho phép thực hiện các giao dịch quyền chọn đối với các loại cổ phiếu và ngoại tệ. Chính phủ Trung Quốc cũng đã chính thức yêu cầu các công ty quản lý quỹ đầu tư hạn chế việc bán tháo cổ phiếu họ đang nắm giữ và khuyến khích doanh nghiệp niêm yết mua cổ phiếu của chính mình để làm cổ phiếu quỹ. Ngoài ra, Trung Quốc còn áp dụng biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động phát hành cổ phiếu với số lượng lớn và thành lập một quỹ đặc biệt của chính phủ để nâng đỡ giá cổ phiếu. Và sự can thiệp của chính phủ Trung Quốc đã đáp ứng sự mong mỏi của giới đầu tư. Điều này cho thấy sự quyết tâm của chính phủ trong việc duy trì và phát triển TTCK trở thành một kênh huy động vốn hữu ích cho sự phát triển kinh tế. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Chương này nhằm giới thiệu những vấn đề cơ bản của quyền chọn như là khái niệm, đặc điểm, chức năng kinh tế, các yếu tố ảnh hưởng đến giá quyền chọn, những điều kiện căn bản để triển khai ứng dụng quyền chọn, và những mặt tích cực và tiêu cực khi ứng dụng quyền chọn, cũng như bài học kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực trong việc quản lý và điều hành TTCK và thị trường công cụ phái sinh… đem lại một cái nhìn tổng quan về quyền chọn – những vấn đề nền tảng để nghiên cứu sâu hơn ở các chương tiếp theo. Và cũng cho thấy quyền chọn là một trong những công cụ phái sinh đóng một vai trò hết 17 sức quan trọng và không thể thiếu trong sự vận động, phát triển và tạo tính đa dạng các sản phẩm, hàng hóa trên SGDCK. CHƯƠNG 2 VẬN DỤNG CÁC CHIẾN LƯỢC QUYỀN CHỌN ĐỂ KINH DOANH VÀ PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG CÁC ĐIỀU KIỆN CỦA THỊ TRƯỜNG 2.1 Ứng dụng quyền chọn chứng khoán trong kinh doanh Ứng dụng quyền chọn chứng khoán để kinh doanh trong các điều kiện của thị trường : thị trường hướng lên (Bull market), thị trường hướng xuống (Bear market), thị trường ổn định - không có nhiều biến động về giá chứng khoán (Neutral market), thị trường có sự biến động mạnh về giá chứng khoán (Volatile market). Tính linh hoạt của quyền chọn bắt nguồn từ sự đa dạng của các chiến lược đáp ứng cho nhu cầu của nhà đầu tư. Trong các chiến lược quyền chọn sẽ phải giả định không có hoa hồng, không có chi phí giao dịch và không có thuế vì những yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến kết quả tiềm năng của các chiến lược kinh doanh quyền chọn, vì vậy trong thực tế NĐT phải 18 nên hỏi nhà môi giới và nhà tư vấn về thuế và các khoản chi phí giao dịch trước khi lựa chọn các chiến lược quyền chọn. Trong phần này chỉ tập trung vào các chiến lược kinh doanh quyền chọn kiểu Mỹ, vì thế các quyền chọn có thể được thực hiện bất kỳ lúc nào trước khi hết hạn quyền chọn. - Khi thị trường hướng lên (Bull market) NĐT có thể sử dụng các chiến lược sau : - Mua quyền chọn mua - Chiến lược quyền chọn mua Bull Spread - Chiến lược quyền chọn bán Bull Spread - Chiến lược quyền chọn Bull Spread tỷ lệ (Dài hạn) - Khi thị trường hướng xuống (Bear market) NĐT có thể sử dụng các chiến lược sau : - Mua quyền chọn bán - Chiến lược quyền chọn mua Bear Spread - Chiến lược quyền chọn bán Bear Spread - Chiến lược quyền chọn Bear Spread tỷ lệ (Dài hạn) - Khi thị trường ổn định - không có nhiều biến động về giá chứng khoán (Neutral market) NĐT có thể sử dụng các chiến lược sau : - Chiến lược quyền chọn Straddle (Ngắn hạn) - Chiến lược quyền chọn Strangle (Ngắn hạn) - Khi thị trường biến động mạnh về giá chứng khoán (Volatile market) NĐT có thể sử dụng các chiến lược sau : - Chiến lược quyền chọn Straddle (Dài hạn) - Chiến lược quyền chọn Strangle (Dài hạn) 2.1.1 Kinh doanh quyền chọn trong điều kiện thị trường hướng lên(Bull Market) 2.1.1.1 Mua quyền chọn mua (dự đoán sự tăng giá của cổ phiếu trong tương lai). Mua quyền chọn mua là một chiến lược tăng giá có mức lỗ có giới hạn (phí quyền chọn) và có mức lợi nhuận tiềm năng không có giới hạn. 19 Chiến lược này giúp NĐT không chỉ phòng ngừa rủi ro tốt mà còn giúp nhà đầu tư kinh doanh kiếm lời trong điều kiện thị trường hướng lên. Đây là chiến lược rất hữu ích và áp dụng thực tế dễ dàng và phổ biến. NĐT muốn mua cổ phiếu ngay vì NĐT dự đoán giá cổ phiếu sẽ tăng trong tương lai nhưng không đủ điều kiện về tài chính có thể chốt giá mua bằng cách mua quyền chọn mua thì nhà đầu tư chỉ mất phí quyền chọn nhưng không phải lo lắng về sự tăng giá cổ phiếu trên thị trường. Ngoài ra, nhà đầu tư có thể kinh doanh quyền chọn mua bằng cách bán quyền chọn mua đã mua để hưởng chênh lệch giá quyền chọn. 2.1.1.2 Chiến lược quyền chọn mua Bull Spread Nhà đầu tư thiết lập một chiến lược quyền chọn mua Bull Spread khi NĐT mua một quyền chọn mua với giá thực hiện thấp hơn và bán một quyền chọn mua với giá thực hiện cao hơn. Vì lúc này giá của chứng khoán cơ sở đang có xu hướng tăng lên, khi đó NĐT sẽ bị thiệt do họ mua quyền chọn mua với giá thực hiện thấp thì phải trả giá quyền chọn cao (phí quyền chọn) trong khi NĐT bán một quyền chọn mua với giá thực hiện cao thì sẽ thu về một khoản phí quyền chọn thấp, hay nói cách khác NĐT đã làm giảm bớt phần nào phí quyền chọn mua đã bỏ ra khi NĐT mua quyền chọn bằng cách bán quyền chọn mua để thu về một khoản phí (Phí thu về do bán quyền chọn mua bù đắp phần nào cho phí đã bỏ ra để mua quyền chọn mua). * Lợi nhuận trong trường hợp này là có giới hạn. Lợi nhuận tối đa chính là phần chênh lệch giữa hai giá thực hiện của hai quyền chọn mua trừ đi phần phí quyền chọn mà NĐT đã bỏ ra mua quyền chọn mua lúc đầu. Lợi nhuận tối đa đạt được khi mà giá chứng khoán cơ sở tại thời điểm đáo hạn cao hơn giá thực hiện. * Điểm hòa vốn – là điểm mà giá của cổ phiếu cơ sở tại thời điểm đáo hạn cao hơn giá thực hiện của quyền chọn mua mà NĐT đã bỏ phí để mua và bằng đúng phần chênh lệch giữa hai phí quyền chọn mua. * Rủi ro trong trường hợp này là có giới hạn. Phần chênh lệch giữa hai phí quyền chọn mua là khoản lỗ tối đa. Khoản lỗ tối đa này xảy ra khi mà giá của cổ phiếu cơ sở tại thời điểm đáo hạn nhỏ hơn giá thực hiện của quyền chọn mua mà NĐT bỏ phí để mua vào. 2.1.1.3 Chiến lược quyền chọn bán Bull Spread 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất