Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cơ chế quản lý ngân sách nhà nước cho ngành giáo dục và đào tạo của việt nam. th...

Tài liệu Cơ chế quản lý ngân sách nhà nước cho ngành giáo dục và đào tạo của việt nam. thực trạng và giải pháp

.DOC
63
212
73

Mô tả:

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ NSNN CSVC BHYT BHXH HCSN MTEF NCKH SGK TCC THCS THPT TW UBND XHH XDCB SV: Phạm Văn Minh Nghĩa Ngân sách Nhà nước Cơ sở vật chất Bảo hiểm y tế Bảo hiểm xã hội Hành chính sự nghiệp Khuôn khổ chi tiêu trung hạn Nghiên cứu khoa học Sách giáo khoa Tài chính công Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung Ương Ủy ban nhân dân Xã hội hóa Xây dựng cơ bản Lớp: K42/01-02 LỜI MỞ ĐẦU Với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và đến năm 2020 “ Cơ bản trở thành một nước công nghệ hiện đại”, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: “ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” và “Muốn tiến hành CNH-HĐH thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục- đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đầu tư cho giáo dục và đào tạo trong những năm qua không ngừng tăng lên đã giúp cho giáo dục đào tạo đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, đầu tư tăng nhưng việc thực thi chưa hiệu quả, công tác quản lý chưa chặt chẽ, hiệu quả giáo dục còn thấp so với yêu cầu, phương pháp giáo dục còn lạc hậu do chậm đổi mới, đội ngũ giáo viên vừa thừa vừa thiếu, trình độ chuyên môn chưa đồng bộ, cơ sở vật chất còn thiếu thốn và lạc hậu,…. Từ thực tiễn ấy thi bên cạnh nỗ lực tăng đầu tư NSNN cho giáo dục và đào tạo, việc không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục và đào tạo là hết sức quan trọng. Chuyên đề “Cơ chế quản lý Ngân sách nhà nước cho nghành giáo dục và đào tạo cảu Việt Nam. Thực trạng và giải pháp” phân tích cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục và đào tại Việt Nam hiện nay, đánh giá những mặt tích cực và hạn chế đồng thời cũng đưa ra nguyên nhân của những hạn chế đó. Từ đó, chuyên đề đã chỉ ra sự cần thiết cũng như đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục. SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 Chuyên đề được trình bày thành 3 chương. Chương 1: Giáo dục đào tạo và cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo. Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo tại Việt Nam Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý NSNN cho giáo dục và đào tạo. SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 CHƯƠNG I GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VÀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ NSNN CHO GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 1.1 VAI TRÒ VÀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN 1.1.1 Vai trò của giáo dục và đào tạo trong nền KTQD Giáo dục được quan niệm như một hoạt động đặc thù riêng có ở xã hội loài người với mục đích rõ ràng là duy trì phát triển xã hội loài người như một thực thể có tổ chức- dù chưa còn hoàn thiện như ngày nay.Thực chất đó là quá trình hình thành và nâng cao phẩm chất, kiến thức, kỹ năng, khả năng học tập nhận thức của con người qua học tập. Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển bền vững cũng phải xây dựng và phát triển con người, đặc biệt là trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá, khi kinh tế tri thức đang trở thành một xu thế thời đại.Chất lượng cuộc sống được đánh giá qua các tiêu chí thu nhập, giáo dục, sức khoẻ và dinh dưỡng, mức nghèo khổ,…Vì vậy giáo dục là một trong những mục đích phát triển kinh tế. Giáo dục được xem là hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế- xã hội, đồng thời có tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển nhanh hay chậm của một quốc gia.Nghị quyết trung ương 4 khoá VII nêu rõ: “cùng với khoa học công nghệ, GD-ĐT là quốc sách hàng đầu “ và báo cáo Chính trị của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định : “Phát triển giáo dục- đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH- HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.Giáo dục là tiên đề, là yếu tố hàng đầu SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 thuộc năng lực nội sinh, có tầm quan trọng hơn so với các hệ thống yếu tố khác như tài nguyên thiên nhiên, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.Giáo dục là nền tảng phát triển khoa học công nghệ. Có kiến thức mới làm chủ được công nghệ và làm chủ được chính mình không phải phụ thuộc vào bên ngoài. Nâng cao chất lượng giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu nhằm tạo ra những thay đổi sâu sắc trong giáo dục, từ xây dựng chất lượng giáo dục, xây dựng nhân cách người học đến cách tổ chức quá trình và hệ thống giáo dục. Giáo dục đào tạo có 3 chức năng chính: - Chức năng kinh tế: Thứ nhất, giáo dục là con đường cơ bản nhất để tích luỹ vốn nhân lực- nhân tố quyết định tăng năng suất lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đào tạo nên một lớp người mới có năng lực cần thiết để đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất cụ thể. Đối với sự phát triển nền kinh tế thì đây là lực lượng quan trọng vào bậc nhất. Thứ hai, giáo dục có vai trò quyết định đến phát triển và làm chủ KHCN hiện đaih – nhân tố bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Giáo dục đào tạo có chức năng truyền bá kiến thức khoa học cho những người có năng lực học tập và vận dụng vào thực tế. Không những đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học mà còn sản sinh ra kiến thức khoa học thông qua hệ thống NCKH của các trường Đại học. Thứ ba, giáo dục góp phần quan trọng thúc đẩy việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu nền KTQD phù hợp với xu hướng phát triển của mọi thời đại. Sự phát triển của giáo dục về cả quy mô, cả chất lượng với một cơ cấu hợp lý về vùng miền, trình độ, nghành nghề đào tạo… sẽ góp phần tích cực thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu nền KTQD phù hợp với xu thế của thời đại, từ đó đảm bảo cho sự tăng trưởng cao và bền vững của nền kinh tế. - Chức năng chính trị- xã hội: Chính trị là lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người mà đặc trưng là các vấn đề liên quan đến quyền lực và lợi ích của con người, cộng đồng giai cấp trong xã hội. Trong lịch sử phát SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 triển xã hội loài người, từ khi xã hội có giai cấp, có Nhà nước thì giáo dục đào tạo luôn là công cụ quan trọng của Nhà nước. Xét về bản chất, giáo dục đào tạo thực sự gắn bó với xu hướng chính trị tiến bộ. Nền giáo dục nước ta hiện nay là nền giáo dục được ra đời và phát triển nhờ một thể chế chính trị cách mạng tiến bộ. Mục tiêu xã hội chủ nghĩa và độc lập được quán triệt một cách sâu rộng trong toàn bộ hệ thống giáo dục giáo dục Việt Nam. Như vậy, giáo dục không chỉ tạo ra một lớp người lao động mới cho xã hội mà còn thay đổi bộ mặt chính trị xã hội thông qua mục đích tổ chức của nền giáo dục, các chính sách cho giáo dục thể hiện tính nhân văn, tính đại chúng hay đẳng cấp của giáo dục. - Chức năng tư tưởng văn hoá: Giáo dục đào tạo không chỉ tạo ra con người phát triển về trí tuệ, kỹ năng lao động mà còn đảm bảo cho việc hình thành một hệ tư tưởng, hình thành một nếp sống mới trên nền tảng của một nền văn hóa mới, nhân sinh quan mới. Xét về góc độ lịch sử văn hoá chỉ được hình thành thông qua một quá trình sáng tạo lâu dài, xây dựng và truyền kinh nghiệm từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong quá trình này không thể thiếu giáo dục đào tạo, đó chính là truyền lại các giá trị văn hoá. Sự sáng tạo trong quá trình giáo dục đào tạo làm phong phú hơn những giá trị văn hóa vốn có, làm nảy sinh những giá trị văn hoá mới. 1.1.2 Hệ thống giáo dục quốc dân Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam bao gồm Giáo chính quy và Giáo dục thường xuyên. Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:  Giáo dục mầm non có nhà trẻ mẫu giáo  Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02  Giáo dục dạy nghề có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề  Giáo dục đại học và sau đại học đào tạo trình độ Cao đẳng, trình độ Đại học, trình độ Thạc sỹ, trình độ Tiến sỹ. Gắn với hệ thống giáo dục quốc dân nước ta, khối giáo dục bao gồm giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông; khối đào tạo bao gồm giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 TIẾN SỸ THẠC SỸ ĐẠI HỌC CAO ĐẲNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP DẠY NGHỀ THCS TIỂU HỌC MẪU GIÁO NHÀ TRẺ SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 1.2 VAI TRÒ CỦA NSNN VỚI GIÁO DỤC ĐÀO TẠO 1.2.1 Khái niệm bản chất của NSNN 1.2.1.1 Khái niệm NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế bao giờ cũng gắn liền với sự xuất hiện, tồn tại của Nhà nước phát triển đến một trình độ nhất định. Sự xuất hiện của Nhà nước trong lịch sử đòi hỏi phải có những nguồn lực tài chính để đáp ứng chi tiêu nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước” ( Theo Luật NSNN ) 1.2.1.2 Bản chất - Về phương diện pháp lý: NSNN là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi bằng tiền mặt của Nhà nước trong một thời gian nhất định thường là một năm. - Về bản chất kinh tế: NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. Các quan hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác: + Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các doanh nghiệp + Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với hộ gia đình + Quan hệ kinh tế với cá nhân trong và ngoài nước gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ ngân sách. -Về tính chất: NSNN là bảng tổng hợp các khoản thu, chi của Nhà nước, là mức động viên các nguồn tài chính vào tay Nhà nước, là khoản cấp phát của Nhà nước cho các nhu cầu tiêu dùng và đầu tư phát triển, đó cũng là đóng góp theo nghĩa vụ hay tự nguyện của mỗi thành viên trong SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 xã hội cho Nhà nước và Nhà nước cấp phát kinh phí đầu tư cho mỗi thành viên trong xã hội. 1.2.2 Vai trò của NSNN với giáo dục đào tạo Phát triển GD- ĐT là một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, là điều kiện tiên quyết để phát triển nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đặc biệt trong bối cảnh thế giới đang bước sang thời đại mới- thời đại trí tuệ và trong môi trường toàn cầu hóa, trong đó, các yếu tố tri thức và thông tin trở thành những yếu tố hàng đầu và là nguồn tài nguyên giá trị nhất thì giáo dục trở thành đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế. Chính vì vậy đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, đầu tư cho tương lai, đầu tư hiệu quả nhất. Đầu tư tài chính giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành, mở rộng và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân từ giáo dục mầm non , giáo dục phổ thông, đáo tạo công nhân, trung học chuyên nghiệp, đại học cho đến đào tạo sau đai học. Trong số các nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục đào tạo thì đầu tư từ ngân sách Nhà nước là tất yếu đóng vai trò chủ đạo trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giao dục. Sở dĩ NSNN đong vai trò chỉ đạo là vì: - Trong hệ thống tài chính nước ta thì tài chính Nhà nước chiếm một tỷ trọng lớn. Mà trong tài chính Nhà nước bao gồm NSNN và tín dụng Nhà nước thì NSNN có tỷ trọng lớn nhất. Trong các nhu cầu tiêu dùng xã hội mà NSNN đảm bảo thì theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước thì nhu cầu cho giáo dục đào tạo đứng hàng đầu. Mặt khác, giáo dục đào tạo là dịch vụ hàng hoá công cộng tạo ra những ngoại ứng tích cực và có vai trò đến sự phát triển nguồn nhân lực- nhân tố quyết định đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Đầu tư từ NSNN cho giáo dục nhằm đảm bảo điều kiện tài chính để phát triển hệ thống giáo dục, nâng cao mang lưới các cơ sở giáo dục, điều chỉnh quy mô, cơ cấu SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 và nâng cao chất lượng hiệu quả của giáo dục. Do đó nguồn tài chính từ NSNN la nguồn cơ bản, to lớn nhất để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục theo đúng đường lối của Đảng và Nhà nước. - Thứ hai, đầu tư của NSNN có tác dụng hướng dẫn, huy động các nguồn vốn khác đầu tư cho giáo dục đào tạo vì giáo dục là hàng hoá công cộng, tạo ra ngoại ứng tích cực và có vai trò quyết định đến sự phát triển nguồn nhân lực. Đầu tư từ NSNN cho giáo dục khuyến khích nhân dân đóng góp xây dựng và sửa chữa trường lớp, đóng góp của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thực hiện phuơng châm “ Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo”, đồng thời là nguồn chính để phát huy nguồn viện trợ và cho vay của nước ngoài để đầu tư cho giáo dục đào tạo . Lợi ích của việc đầu tư cho giáo dục đem lại không chỉ cho những người trực tiếp được hưởng giáo dục mà còn cho cả xã hội nói chung. Tuy nhiên trong thực tế các cá nhân hầu như không tính đến những tác động này trong việc lựa chọn quyết định có nên đầu tư vào giáo dục hay không. Nếu như trong trường hợp họ có biết tác động tích cực của giáo dục song thiếu sự khuyến khích và tạo điều kiện của Nhà nước để đi đến quyết định đầu tư. Như vậy, nếu không có sự đầu tư của NSNN để hỗ trợ và khuyến khích thì mức đầu tư của các tổ chức cá nhân trong xã hội cho sự phát triển giáo dục sẽ thấp hơn khả năng sẵn có. - Thứ ba, NSNN đầu tư cho giáo dục đào tạo sẽ đảm bảo từng bước ổn định đời sống của cán bộ công nhân viên làm trong nghành giáo dục. NSNN ngoài chi trả tiền lương chính cho đội ngũ giáo viên giảng dạy còn dành một phần để ưu đãi riêng cho nghành giáo dục như phụ cấp giảng dạy, phụ cấp thâm niên, phụ cấp trách nhiệm , phụ cấp dạy thêm giờ,… - Thứ tư, NSNN có vai trò điều phối cơ cấu giáo dục toàn nghành. Thông qua định mức chi ngân sách giáo dục đào tạo hàng năm đã góp phần định hướng sắp xếp cơ cấu các cấp học, mạng lưới trường. Tập SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 trung NSNN cho những chương trình mục tiêu quốc gia như chốn mù chữ, phổ cập giáo dục, xây dựng hệ thống trường dân tộc nội trú, khuyến khích phát triển giáo dục ở vùng núi và dân tộc ít người, tăng cường cơ sở vật chất cá trường học,… - Thứ năm, đầu tư từ NSNN cho giáo dục nhằm đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục. Nếu giáo dục được cung cấp hoàn toàn theo cơ chế thị trường không có sự đầu tư từ NSNN thì bộ phận dân cư không có khả năng chi trả các khoản chi phí giáo dục sẽ không có cơ hội được học tập, tiếp thu kiến thức, từ đó mất công bằng xã hội trong giáo dục. Hơn nữa, công bằng xã hội trong giáo dục còn là điều kiện quan trọng để đạt đến công bằng xã hội nói chung. - Thứ sáu, đầu tư của Nhà nước cho giáo dục nhằm để khắc phục khiếm khuyết của thị trường vốn. Trên thực tế, thị trường vốn cho việc đầu tư vào giáo dục là không hoàn hảo. Vì hầu như không có cơ sở nào cho việc xác định khả năng chắc chắn để hoàn trả lại các khoản vay cho việc học tập của các cá nhân sau khi đã kết thúc khoá học. Do vậy, các chủ thể cho vay không dễ dàng chấp nhận bỏ vốn để đầu tư vào giáo dục. Để khắc phục khiếm khuyết này cần thiết phải có sự can thiệp và đầu tư của Nhà nước cho giáo dục. Nhìn chung trên thực tế tại Việt Nam hiện nay nguồn lực tài chính để phát triển giáo dục chủ yếu từ nguồn NSNN. NSNN đóng vai trò quan trọng, là yếu tố chính quyết định tới sự nghiệp giáo dục đào tạo. 1.2.3 Cơ chế chi tiêu NSNN cho giáo dục đào tạo Hiện nay, theo Luật NSNN, nội dung chi tiêu NSNN được phân theo tính chất kinh tế của các khoản chi được sử dụng. Theo tính chất kinh tế, chi NSNN cho giáo dục đào tạo được phân chia theo các nội dung: - Chi thường xuyên bao gồm các khoản chi lương và các khoản củng cố CSVC, thiết bị trường lớp…Kế hoạch chi thường xuyên được lập SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 chủ yếu dựa trên định mức phân bổ và kế hoạch chi thường xuyên của năm trước. - Chi đầu tư bao gồm các khoản chi xây dựng CSVC, củng cố và phát triển mạng lưới trường lớp cho sự phát triển của nền giáo dục. Chi đầu tư đóng vai trò quan trọng trong phát triển giáo dục. Chi đầu tư phát triển cho giáo dục từ NSNN bao gồm: chi xây mới, cải tạo,nâng cấp trường học, phòng học, phòng thí nghiệm, phòng thực hành, thư viện, công sở làm việc và mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy học tập và nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục đào tạo. - Chi NSNN cho CTMT cho quốc gia về giáo dục nhằm thực hiện những mục tiêu cụ thể có tính cấp bách trong phát triển nền giáo dục quốc dân ở từng thời kỳ. CTMT quốc gia về giáo dục thường được thực hiện bao gồm: Phổ cập giáo dục, xoá mù chữ, hỗ trợ giáo dục cho những vùng miền có điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn như: Vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; tăng cường CSVC như xoá phòng học cấp 4, phòng học ca 3, tăng cường chất lượng và chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, giáo viên; đổi mới chương trình, nội dung SGK… 1.3 CƠ CHẾ QUẢN LÝ NSNN CHO GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO. 1.3.1 Khái niệm cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục và đào tạo Quản lý NSNN là việc sử dụng NSNN làm công cụ quản lý hệ thống xã hội thông qua việc sử dụng những chức năng vốn có của nó. Quản lý NSNN là việc làm cần thiết gắn với việc chi NSNN nhằm tạo ra những khoản chi đúng mục đích và đạt hiệu quả cao. Cơ chế quản lý NSNN là hệ thống các nguyên tắc, các hình thức và phương pháp quản lý điều hành NSNN trong từng giai đoạn phát triển kinh tế. Cơ chế quản lý NSNN bao gồm các cơ chế thu, chi ngân sách, cân đối ngân sách, cấp phát ngân sách. Yêu cầu của cơ chế quản lý NSNN trong nền kinh tế thị trường là ưu tiên sử dụng NSNN để thực hiện những SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 nhiệm vụ của Nhà Nước, những công việc mà thị trường không thể thực hiện hoặc không thể giao cho thị trường thực hiện. 1.3.2 Nội dung cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo. 1.3.2.1 Cơ chế phân cấp ngân sách. Trong cơ chế quản lý NSNN, cơ chế phân cấp ngân sách có vị trí rất quan trọng, thể hiện mối quan hệ phân cấp, phân quyền, phối hợp hoạt động giữa các cấp chính quyền trong việc quản lý, điều hành ngân sách. Yêu cầu đối với cơ quan Trung ương phải giữ vai trò chủ đạo tập trung các nguồn thu có tính chất quốc gia và giải quyết các nhu cầu chi tiêu có tính chất trọng điểm trên phạm vi cả nước. Ngân sách địa phương phải được phân cấp một số nguồn thu và nhiệm vụ chi nhất định để đảm bảo thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương trên địa bàn. Mối quan hệ giữa ngân sách TW và ngân sách địa phương phải được giải quyết hài hòa thông qua cơ chế điều tiết và trợ cấp ngân sách giữa TW và địa phương. Việc địa phương quản lý ngân sách có thể giúp huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn và làm cho cung cấp dịch vụ phù hợp hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu và mong muốn của người dân địa phương. Tuy nhiên nếu phân cấp không tốt dẫn đến tình trạng chồng chéo,làm suy yếu sự điều phối TW và địa phương. Việt Nam có bốn cấp chính quyền. Ở cấp TW, quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, cơ quan có trách nhiệm quyết định ngân sách Nhà nước. NSNN gồm không chỉ ngân sách của chính quyền Trung ương mà còn có cả ngân sách tổng hợp của các cấp tỉnh- huyện- xã. Cơ cấu của ngân sách mang tính thứ bậc: Ngân sách mỗi cấp không chỉ được HĐND cấp đó quyết định mà còn phải được chính quyền cấp trên phê chuẩn. Chính quyền ở mọi cấp hoạt động theo một hệ thống song trùng lãnh đạo và chịu trách nhiệm giải trình. Từng cấp ngân sách phải chịu trách nhiệm lập dự toán ngân sách hàng năm ( bao gồm các khoản thu, chi trên phạm vi địa bàn mình quản lý), chịu trách nhiệm hướng dẫn, giám sát việc thực SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 hiện ngân sách cấp dưới. Cấp huyện tổn hợp dự toán ngân sách cấp xã, báo cáo lên tỉnh. Tỉnh tổng hợp dự toán ngân sách các huyện báo cáo lên Bộ tài chính. Mục đích của phân cấp quản lý ngân sách giữa các cấp chính quyền là nhằm giảm bớt sự ỷ lại của cơ quan cấp dưới, đồng thời xoa bớt sự bao biện, làm thay đổi của chính quyền cấp trên. Nhờ đó mà sự phân định trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý NSNN một cách rõ ràng hơn và tọa ra cac điều kiện cần thiết cho việc nâng cao hiệu quả quản lý ở lĩnh vực này. 1.3.2.2 Cơ chế lấp dự toán và phân bổ NSNN cho giáo dục đào tạo * Căn cứ để lập kế hoạch phân bổ NSNN Căn cứ để lập kế hoạch phân bổ NSNN cho giáo dục đào tạo: - Đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ công tác được giao trong năm kế hoạch. - Luật NSNN và thông tư ngân sách hàng năm của Bộ tài chính. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển nghành giáo dục, thông tư hướng dẫn của Bộ giáo dục và đào tạo. - Kế hoạch phân bổ ngân sách năm trước. - Những nhiệm vụ cụ thể của nghành giáo dục và đào tạo. - Định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục đào tạo. - Các quy định về phân cấp quản lý ngân sách trong nghành giáo dục. * Công tác lập dự toán và phân bổ NSNN: Trình tự lập dự toán ngân sách và phân bổ NSNN hằng năm được thực hiện như sau: i) Trước ngày 31 tháng 5, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và dự toán NSNN năm sau. SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 ii) Căn cứ vào quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trước ngày 10 tháng 6, Bộ tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn về yêu cầu, nội dung, thời hạn nộp dự toán NSNN và thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách với tổng mức và từng lĩnh vực thu, chi ngân sách đối với các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương và tổng số thu, chi, một số lĩnh vực chi quan trọng đối với từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. iii) Căn cứ vào quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư hướng dẫn, số kiểm tra về dự toán ngân sách của Bộ tài chính, Bộ kế hoạch đầu tư và yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của cơ quan, địa phương, Bộ giáo dục và đào tạo, các Bộ, các cơ quan liên quan thuôc Chính phủ thông báo số kiểm tra về dự toán NSNN cho các đơn vị trực thuộc; UBND cấp tỉnh tổ chức hướng dẫn và thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và UBND cấp huyện; UBND cấp huyện thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và UBND cấp xã. iv) Các đơn vị sử dụng ngân sách lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi, nhiệm vụ được giao, gửi cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp. Cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp ( Trường hợp không phải là đơn vị dự toán cấp I) xem xét, tổng hợp dự toán của các đơn vị cấp dưới trực thuộc gửi đơn vị dự toán cấp I. v) Bộ tài chính chủ trì phối hợp với Bộ kế hoạch đầu tư tổng hợp, lập dự toán NSNN trình Chính phủ. Trong quá trình làm việc, lập dự toán NSNN, xây dựng phương án phân bổ ngân sách TW, nếu có ý kiến khác nhau giữa Bộ tài chính với Bộ giáo dục đào tạo, các Bộ và cơ quan liên quan thuộc Chính phủ thì Bộ tài chính phải trình Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ những ý kiến còn khác nhau để quyết định theo thẩm quyền. Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong quá trình lập dự toán ngân sách, xây dựng phương án phân bổ ngân sách địa phương. SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 vi) Chính phủ trình Quốc hội dự toán NSNN và phương án phân bổ ngân sách TW hàng năm; dự toán điều chỉnh NSNN trong trường hợp cần thiết. Quốc hội quyết định dự toán NSNN, phân bổ Ngân sách TW năm sau trước ngày 15 tháng 11 năm trước. vii) Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội về dự toán NSNN, phân bổ ngấn sách TW, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tỷ lệ phần trăm (%) phân chia đối với các khoản thu phân chia, Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ thu, chi cho từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở TW, nhiệm vụ thu, chi, tỷ lệ phần trăm (%) phân chia đối với các khoản thu phân chia và mức bổ sung từ ngân sách TW cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc TW. Căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên giao, UBND các cấp có trách nhiệm lập dự toán ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình trình HĐND cùng cấp quyết đingj và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. HĐND cấp tỉnh quyết định dự toán ngân sách địa phương, phân bổ ngân sách cấp tỉnh năm sau trước ngày 10 tháng 12 năm trước. HĐND cấp dưới quyết định dự toán ngân sách địa phương, phân bổ ngân sách cấp tỉnh năm sau trước ngày 10 tháng 12 năm trước. HĐND cấp dưới quyết định dự toán ngân sách địa phương, phân bổ ngân sách năm sau của cấp mình chậm nhất là mười ngày kể từ ngày HĐND cấp trên trực tiếp quyết định dự toán và phân bổ ngân sách. viii) Sau khi được Thủ tướng Chính phủ, UBND giao dự toán ngân sách, các cơ quan Nhà nước ở TW và địa phương, các đơn vị dự toán có trách nhiệm phân bổ và giao dự toán ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc, đảm bảo đúng với dự toán ngân sách được giao về cả tổng mức, chi tiết theo từng lĩnh vực chi, đồng thời gửi cơ quan tài chính cùng cấp. SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 1.3.2.3 Cơ chế cấp phát và chấp hành chi NSNN Căn cứ vào dự toán NSNN được giao và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách quyết định chi gửi Kho bạc Nhà nước. Kho bạc Nhà nước kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu cần thiết theo quy định của pháp luật và thực hiện chi ngân sách khi có đủ các điều kiện: đã có trong dự toán ngân sách được giao, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức, được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi. Thủ trưởng cơ quan Kho bạc Nhà nước có quyền từ chối thaqnh toán, chi trả các khoản chi không đủ các điều kiện quy định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Ở cấp địa phương, cơ quan tài chính có trách nhiệm bố trí nguồn để thực hiện kịp thời các khoản chi theo dự toán, kiểm tra việc thực hiện chi tiêu và có quyền tạm dừng các khoản chi vượt nguồn cho phép hoặc chi sai chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, có quyền yêu cầu cơ quan giao dự toán điều chỉnh nhiệm vụ, dự toán chi của đơn vị trực thuộc để đảm bảo thực hiện ngân sách theo đúng mục tiêu, tiến độ quy định. Cơ quan tài chính cùng cấp có quyền tạm đình chỉ chi ngân sách của các đơn vị, cá nhân không chấp hành đúng chế độ báo cáo kế toán, quyết toán và báo cáo tài chính khác và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Các khoản chi thường xuyên theo định kỳ được bố trí kinh phí đều trong năm để chi. Các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc mua sắm lớn được bố trí trong dự toán chi quý để thực hiện. Chi đầu tư phát triển phải đảm bảo cung cấp đủ và đúng tiến độ thực hiện trong phạm vi dự toán được giao. Đối với những dự án, nhiệm vụ chi cấp thiết được tạm ứng trước dự toán để thực hiện. Các cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm đề ra những biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo hoàn thành SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 tốt nhiệm vụ chi ngân sách được giao, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham ô, chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật tài chính. Trách nhiệm về việc quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản của Nhà nước theo đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức và dự toán được giao do thủ tướng cơ quan sử dụng ngân sách chịu trách nhiệm. Ngoài các cơ quan tài chính, trong Luật NSNN cũng quy định nhiều cơ quan khác có trách nhiệm giám sát việc thực hiện NSNN như: - Bộ kế hoạch và đầu tư phối hợp với Bộ tài chính và các Bộ, nghành hữu quan kiểm tra, đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư các công trình công cộng xây dựng cơ bản. - Ở cấp địa phương, HĐND giám sất việc thực hiện ngân sách ở cấp mình. - Chính phủ kiểm tra việc thực hiện NSNN. ĐỊnh kỳ, Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, UBND báo cáo Thường cụ HĐND về tình hình thực hiện NSNN, các dự án và các công trình quan trọng quốc gia, các chương trình phát triển kinh tê- xã hội, các dự án và công trình xây dựng cơ bản quan trọng khác. 1.3.2.4 Kế toán, kiểm tra và quyết toán NSNN * Các nguyên tắc phải đảm bảo khi thực hiện nguyên tắc quyết toán ngân sách và báo cáo quyết toán ngân sách. - Phải lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời các loại báo cáo đó cho cơ quan có thẩm quyền xét duyệt theo đúng chế độ đã quy định. - Về số liệu quyết toán NSNN: + Số quyết toán thu NSNN là số thu đã thực nộp hoặc đã hạch toán thu qua NSNN qua Kho bạc Nhà nước. + Số quyết toán chi NSNN là số chi đã thực thanh toán hoặc đã hạch toán chi theo quy định của Luật NSNN và các khoản chi chuyển nguồn sang năm sau để chi tiếp theo quy định. SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02 - Số liệu trong báo cáo quyết toán Ngân sách phải chính xác, trung thực, đầy đủ. Nội dung báo cáo quyết toán ngân sách phải theo đúng các nội dung trong dự toán được giao và theo mục lục NSNN, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách Nhà nước phai chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đây đủ của báo cáo quyết toán của đơn vị, chịu trách nhiệm về những khoản thu, chi hạch toán, quyết toán sai chế độ. * Trình tự công tác kế toán, kiểm toán và quyết toán NSNN. i) Các tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ chi NSNN phải tổ chức hạch toán kế toán, báo cáo và quyết toán theo đúng chế độ của Nhà nước. Kho bạc Nhà nước tổ chức thực hiện hạch toán kế toán NSNN, định kỳ báo cáo việc thực hiện dự toán chi ngân sách cho cơ quan tài chính cùng cấp và cơ quan Nhà nước hữu quan. ii) Cuối năm ngân sách, Bộ trưởng Bộ tài chính hướng dẫn việc khóa sổ kế toán và lập báo cáo quyết toán ngân sách theo đúng các nội dung ghi trong dự toán năm được giao và theo Mục lục NSNN. Các khoản chi NSNN đến ngày 31 tháng 12 chưa thực hiện được hoặc chưa chi hết, nếu được cơ quan có thẩm quyền cho phép tiếp tục thực hiện trong năm sau thì được chi tiếp trong thời gian chỉnh lý quyết toán và hạch toán quyết toán vào chi ngân sách năm trước, nếu được chuyển nguồn để thực hiện thì hạch toán vào ngân sách năm sau. iii) Căn cứ vào hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ tài chính, Thủ trưởng các đơn vị có nhiệm vụ chi Ngân sách kiểm tra và duyệt quyết toán chi ngân sách của các đơn vị trực thuộc, chịu trách nhiệm về quyết toán đã được duyệt. Lập quyết toán chi Ngân sách của đơn vị mình gửi cơ quan quản lý cấp trên. Đối với các dự án đầu tư xây dựn cơ bản, khi kết thúc năm ngân sách, chủ đầu tư phải lập báo cáo quyết toán tình hình sử dụng vốn ngân SV: Phạm Văn Minh Lớp: K42/01-02
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan