Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Triết học Cơ chế kiểm soát kinh doanh qua mạng xã hội...

Tài liệu Cơ chế kiểm soát kinh doanh qua mạng xã hội

.DOCX
18
318
132

Mô tả:

1.1 Cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến 1.1.1 Quan điểm về cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến Như đã trình bày ở trên, việc kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến tạo ra nhiều thuận lợi cũng như mang lại rất nhiều lợi nhuận cho chủ thể có hành vi kinh doanh. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tốt mà mạng xã hội trực tuyến mang lại thì còn có những mặt tối, khóc khuất làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến của các chủ thể. Do đó, để đảm bảo cho các chủ thể có quyền tự do kinh doanh cũng như quyền lợi của các chủ thể có nhu cầu mua hàng qua mạng, tránh được những trường hợp đáng tiếc có thể xảy ra thì nhà nước đã và đang thực hiện các chính sách, cơ chế kiểm soát nhằm hạn chế khắc phục. Vậy, Cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến là gì? Để trả lời cho câu hỏi trên thì trước tiên, chúng ta lần lượt làm rõ các khái niệm sau: Cơ chế là gì? Cơ chế là một thuật ngữ có thể hiểu theo nhiều nghĩa, tùy thuộc vào hoàn cảnh và lĩnh vực. Từ “Cơ chế” là chuyển ngữ của từ mécanisme của phương Tây. Theo đó, từ điển Le Petit Larousse (1999) giảng nghĩa “mécanisme” là “cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tối phụ thuộc vào nhau”.1 Theo từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học 1996) thì “Cơ chế là cách thức theo đó một quá trình thực hiện”.2 Còn theo quan điểm của GS.TS Phạm Ngọc Quang thì “Cơ chế là khái niệm dùng để chỉ một chuỗi những khâu liên kết với nhau theo một logic nhất định, nhờ vậy mục tiêu được thực hiện”. Theo quan điểm của nhà kinh tế học người Mỹ, Paul A. Samuelson thì “cơ chế thị trường” là một cơ chế trong đó các chủ thể tham gia tự đưa ra các quyết định về sản 1https://vi.wikipedia.org/wiki/Wikipedia:B%C3%A0n_tham_kh%E1%BA%A3o/C%C6%A1_ch%E1%BA%BF_l %C3%A0_g%C3%AC%3F truy cập vào lúc 13:25 ngày 03/3/2017. 2https://vi.wikipedia.org/wiki/Wikipedia:B%C3%A0n_tham_kh%E1%BA%A3o/C%C6%A1_ch%E1%BA%BF_l %C3%A0_g%C3%AC%3F truy cập vào lúc 22:02 ngày 02/3/2017. xuất và tiêu dùng dựa trên những tính toán của họ về nguồn lực mà mình đang nắm giữ.3 Như vậy, khái niệm “Cơ chế” dù ở nghĩa chung nhất hay được vận dụng ở cấp độ vĩ mô đều có một điểm chung đó là nhằm hoàn thành công việc ở trong một hệ thống hoặc một tổ chức. Trong hệ thống đó, các bộ phận cấu thành tham gia vào “cơ chế” ở các mức độ khác nhau tùy theo khả năng cũng như trách nhiệm của chúng. Điều đó có nghĩa là các bộ phận của hệ thống hoặc tổ chức đều liên quan đến “cơ chế” của nó và cùng thực hiện những quy định của “cơ chế”. Hơn nữa, khi đề cập đến cơ chế thì hàm ý đến sự tương tác qua lại giữa các chủ thể của cơ chế. Tóm lại, khái niệm cơ chế là một khái niệm rất rộng và được ứng dụng trong nhiều ngành khoa học khác nhau, từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội. Kiểm soát là gì? Kiểm soát là một khái niệm tồn tại trong mọi hoạt động, mọi ngành nghề của cuộc sống. Do đó, hiện nay có rất nhiều quan điểm về kiểm soát, không có khái niệm kiểm sát chung nhất. Kiểm soát được cho là xem xét, đánh giá, theo dõi nhằm ngăn chặn những điều trái với quy định.4 Hiểu một cách đơn giản nhất, “Kiểm soát” là đo lường và chấn chỉnh việc thực hiện nhằm đảm bảo rằng các mục tiêu và các kế hoạch đề ra để thực hiện các mục tiêu này đã và đang được hoàn thành. Kiểm soát là tiến trình gồm các hoạt động giám sát nhằm đảm bảo rằng các hoạt động đó được thực hiện theo đúng như kế hoạch và điều chỉnh những sai sót quan trọng. Kiểm soát là quá trình xác định thành quả đạt được trên thực tế và so sánh với những tiêu chuẩn nhằm phát hiện sự sai lệch và nguyên nhân sự sai lệch, trên cơ sở đó đưa ra biện pháp điều chỉnh sự sai lệch để đảm bảo tổ chức đạt được mục tiêu.5 Ngoài ra, cũng có người định nghĩa “Kiểm soát là thuật ngữ được dùng để chỉ những hoạt động của cá nhân, tổ chức trong và ngoài tổ chức giao nhiệm vụ, quyền hạn xem xét, đánh giá, xử lý đối với hành vi thực hiện các quy định chung của cá nhân tổ chức hữu quan”.6 3 PGS.TS. Trần Bình Trọng (2003), Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Thống kê, tr. 281. 4 http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1929 truy cập vào lúc 8:28 ngày 05/3/2017. 5 TS. Trương Quang Dũng (2013), Quản Trị học, Nxb. Hutech, tr. 92. 6 http://hoangkim.net.vn/chi-tiet-tin/1511/17-kiem-soat-doi-voi-hanh-chinh-nha-nuoc-la-gi-su-can-thiet-cua-kiem-soat-doivoi-hanh-chinh-nha-nuoc.html truy cập vào lúc 18:21 ngày 03/3/2017. Kiểm soát là một chức năng và là một công cụ quan trọng của cơ quan, tổ chức (có chức năng kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến). Kiểm soát giúp các cơ quan, tổ chức có những thông tin phản hồi giúp cho việc khắc phục những nhược điểm của hoạt động kinh doanh, đảm bảo cho quá trình kinh doanh qua mạng đạt được những mục tiêu đã xác định. Kiểm soát không chỉ dừng lại ở những hoạt động đã diễn ra và đã kết thúc, nó còn là quá trình kiểm soát trước đối với những sự việc sắp xảy ra, điều này là đặc biệt quan trọng đối với hoạt động kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến ngày nay, nó giúp cho các chủ thể chủ động đối phó với những nguy cơ sắp tới nhằm giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Chính vì lẽ đó mà các cơ quan, tổ chức dù ở cấp bậc nào cũng phải thực hiện tốt chức năng kiểm soát. Từ những khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu rằng “Cơ chế kiểm soát kinh doanh” là toàn bộ các chính sách, các bước kiểm soát và thủ tục kiểm soát được thiết lập nhằm quản lý và điều hành các hoạt động kinh doanh. Khái niệm này bao hàm các đặc điểm của cơ chế kiểm soát kinh doanh như sau: Thứ nhất, cơ chế kiểm soát kinh doanh bao gồm toàn bộ các chính sách, các bước kiểm soát và thủ tục kiểm soát được thiết lập theo quy định của pháp luật. Thứ hai, các chính sách, các bước kiểm soát và thủ tục kiểm soát được sử dụng để quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh. Do đó, chúng ta có thể đi đến kết luận: “Cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến” là toàn bộ các chính sách, các bước kiểm soát và thủ tục kiểm soát được thiết lập nhằm quản lý và điều hành các hoạt động kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến. Từ khái niệm nêu trên, có thể nhận thấy “Cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến” có các đặc điểm sau đây: + Cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến đảm bảo được thực hiện bởi cơ quan và công chức nhà nước. Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP Về Thương mại điện tử: “Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền Thông căn cứ điều kiện kinh tế, xã hội và yêu cầu quản lý của từng thời kỳ để hướng dẫn các biện pháp quản lý đối với thương nhân, tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành hoạt động thương mại với chủ thể Việt Nam”. + Các chính sách, các bước kiểm soát và thủ tục kiểm soát được ban hành đúng theo quy định của pháp luật. + Được thiết lập để quản lý và điều hành các hoạt động kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến. 1.1.2 Nội dung của cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến? Cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến là một vấn đề phức tạp, bởi sự phức tạp của cơ quan, tổ chức có chức năng kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến và hoạt động thực thi việc kiểm soát. Tính phức tạp đó, một mặt là do các cơ quan, tổ chức sử dụng quyền lực mà pháp luật cho phép để thiết lập cơ chế kiểm soát bắt buộc đối với bất kỳ chủ thể nào có hành vi kinh doanh trong môi trường mạng xã hội trực tuyến cũng như các chủ thể là chủ của trang mạng xã hội trực tuyến, cũng có thể là những chủ thể có hành vi mua hàng trên những trang mạng xã hội trực tuyến. Nhưng mặt khác, kiểm soát được hoạt động kinh doanh trong môi trường mạng xã hội trực tuyến mà lại không làm mất đi tính năng động, mềm dẻo cần phải có để tiến hành hoạt động kinh doanh. Việc kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến chỉ có thể kiểm soát được khi có cơ chế xác định và các điều kiện cần thiết cho sự vận hành của nó trên thực tế. Về mặt pháp lý và chính thống thì không có khái niệm “Cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến”. Tuy nhiên từ những khái niệm nêu trên, chúng tôi đa rút ra kết luận rằng “Cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến” là toàn bộ các chính sách, các bước kiểm soát và thủ tục kiểm soát được thiết lập nhằm quản lý và điều hành các hoạt động kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến. Như vậy, khi nói đến trách nhiệm quản lý của cơ quan, tổ chức và của người đứng đầu trong cơ quan, tổ chức đối với hoạt động kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến là nói đến cách thức mà theo đó việc quản lý, điều hành kiểm soát của cơ quan, tổ chức đó, của người đứng đầu thực hiện việc quản lý, điều hành kiểm soát, là mối quan hệ điều phối, phối hợp giữa các cơ quan tổ chức với nhau đối với từng hoạt động kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến. Vậy, ai đã làm ra cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến đó? Quốc hội làm luật, trong đó có các đạo luật về công nghệ thông tin, giao dịch điện tử, doanh nghiệp... Chính phủ ra các nghị định về thương mại điện tử, về cơ cấu, tổ chức hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong việc điều hành, quản lý về thương mại điện tử. Bộ trưởng Bộ Công Thương thì ban hành các thông tư nhằm hướng dẫn một số quy định về thương mại điện tử. Như vậy, có hai điều rõ ràng và không thể phủ nhận được đó là: Thứ nhất, các bộ, ngành, trong đó không thể vắng bóng vai trò của người đứng đầu hoặc trực tiếp soạn thảo ra các cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến đó, hoặc được tham gia soạn thảo và góp ý kiến để ban hành các cơ chế kiểm soát đó. Thứ hai, người dân và cử tri không phải là người làm ra cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến, có chăng thì họ chỉ có thể đóng góp ý kiến của mình ở một chừng mực nhất định, quá ư là khiêm tốn. Do đó, nếu cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến chưa hợp lý là do những người đã làm ra cơ chế kiểm soát đó. Còn nếu có chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến mà bị lỗi thời, không theo kịp sự đòi hỏi của xã hội cũng là một phần trách nhiệm của các bộ, ngành, cơ quan tổ chức liên quan và các vị đứng đầu đã chưa kịp thời đề xuất hoặc sửa đổi, bổ sung cơ chế kiểm soát đó. Họ chỉ có thể vô can khi đã làm tròn trách nhiệm bổn phận của mình nhưng Quốc hội, Chính phủ hoặc Thủ tướng đã không nghe theo đề xuất của họ. Mục đích của kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến đó là đảm bảo cho hoạt động kinh doanh qua mạng được thực hiện một cách nghiêm túc, phù hợp, loại bỏ những điều kiện có thể sản sinh ra rủi ro. Đây chính là quá trình khắc phục sự tha hóa của hoạt động kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội, đưa hoạt động này trở về với đúng nghĩa của hoạt động kinh doanh. Vì thế, có thể nói, nội dung của cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến là: + Đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra hiệu quả. + Đảm bảo cho các cơ quan, tổ chức sử dụng đúng các quy định của pháp luật. Nhà nước luôn muốn có một cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội phù hợp và hữu hiệu, đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh qua mạng ngày càng phát triển, uy tín, mang lại lòng tin cho các chủ thể có nhu cầu kinh doanh mua bán trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến. Trên cơ sở đó, chúng tôi đưa ra các nguyên tắc xây dựng cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến như sau: Thứ nhất, cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến phải được thiết kế căn cứ theo quy định của pháp luật về kinh doanh, công nghệ thông tin và căn cứ vào các đối tượng cần kiểm soát. Vì mục tiêu chủ yếu của cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội đó là đảm bảo cho hoạt động kinh doanh qua mạng được diễn ra một cách đúng đắn giống như những hoạt động kinh doanh bình thường. 1.1.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến: Thứ nhất, tính trung thực, giá trị về đạo đức và năng lực của các chủ thể có chức năng kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến. Sự phát triển của hoạt động kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến luôn gắn liền với các chủ thể có hành vi kinh doanh mua bán qua mạng, các chủ thể có chức năng kiểm soát kinh doanh qua mạng và cơ chế kiểm soát đúng đắn. Do đó, tính trung thực và giá trị về đạo đức của các chủ thể cao sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, đạt kết quả cao. Đối với các chủ thể có chức năng kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến là các chủ thể trực tiếp thực hiện mọi thủ tục kiểm soát hoạt động kinh doanh. Các chủ thể này có thể là các cơ quan tổ chức, các cán bộ, công chức nhân danh nhà nước thực hiện những hành vi nhằm kiểm soát hoạt động kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến. Nếu như mà những chủ thể này có năng lực, trình độ học vấn cao và đáng tin cậy thì có thể thực hiện một cách nhanh chóng các hoạt động kiểm soát, thực thi một cách có hiệu quả ít xảy ra rủi ro hơn. Bên cạnh đó, mặc dù Nhà nước có đề ra những chính sách, thủ tục kiểm soát chặt chẽ nhưng với đội ngũ cán bộ, công chức kém năng lực trong công việc và thiếu trung thực về phẩm chất đạo đức thì đảm bảo cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến không thể phát huy hiệu quả. Để có được những đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện việc kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội tốt thì trước hết Nhà nước cần phải có những chính sách cụ thể và rõ ràng về đào tạo, sắp xếp, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật. Thứ hai, triết lí quản lý và điều hành, tư cách đạo đức, hành vi ứng xử trong công việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức có chức năng kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến. Cơ quan, tổ chức có chắc năng kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến hoạt động tùy thuộc một phần vào triết lí quản lý và điều hành của người đứng đầu, nó ảnh hưởng rất lớn đến môi trường kiểm soát kinh doanh qua mạng. Nếu như người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có nhận thức về tầm quan trọng của liêm chính và đạo đức nghề nghiệp, về việc cần tổ chức đội ngũ kiểm soát hợp lý, về việc phải phân công, ủy nhiệm giao việc rõ ràng, về việc ban hành các nội quy, quy chế và áp dụng đúng đắn các văn bản quy phạm pháp luật. Từ đó tạo ra một môi trường mà trong đó, tất cả những chủ thể còn lại sẽ nhận thức được tầm quan trọng của cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến. Thứ ba, Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với thực tiễn. Muốn hoạt động kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến ngày càng phát triển và lành mạnh thì trước hết cần phải có một cơ chế để kiểm soát. Để làm được điều đó, Nhà nước cần phải ban hành những văn bản để điều chỉnh về hoạt động kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến, đồng thời ban hành những văn bản để tổ chức những đội ngũ cán bộ, công chức có chức năng kiểm soát hoạt động kinh doanh qua mạng. Các văn bản quy pham pháp luật này phải rõ ràng, chính xác, không mang tính chung chung, và phải phù hợp với thực tiễn. Trước khi ban hành các văn bản trên, nhà nước cần phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia, của cử tri, của người dân,... để đảm bảo cho văn bản được thực thi hiệu quả. Tránh những trường hợp ban hành xong, không thực thi được rồi hủy bỏ. 1.1.4 Chủ thể chịu sự kiểm soát của hoạt động kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến Chủ thể chịu sự kiểm soát của hoạt động kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến bao gồm 3 chủ thể: - Chủ thể kinh doanh. Pháp luật Việt Nam hiện hành không có một khái niệm cụ thể về “chủ thể kinh doanh”. Tuy nhiên, thuật ngữ này được dùng rất phổ biến trong các báo, tạp chí, giáo trình và tài liệu tham khảo chuyên ngành pháp lý kinh tế với nhiều cách hiểu khác nhau: Hiểu theo nghĩa rộng nhất thì chủ thể kinh doanh là tổ chức, cá nhân thực hiện những hành vi kinh doanh hay nói cụ thể là thực hiện những hành vi nhằm mục đích sinh lợi, tìm kiếm lợi nhuận.7 Với cách hiểu này, chúng ta có thể thấy chủ thể kinh doanh bao gồm: 7 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh, Nxb. Hồng Đức, tr. 16. + Tổ chức, cá nhân đã làm thủ tục đăng ký hay xin phép kinh doanh và những tổ chức, cá nhân khác có thực hiện hành vi nhằm mục đích kiếm lời. + Tổ chức, cá nhân không thực hiện hành vi kinh doanh mang tính cách nghề nghiệp, có thể chỉ là những hành vi kinh doanh đơn lẻ. Hiểu theo nghĩa rộng thì chủ thể kinh doanh là bất kỳ cá nhân, tổ chức, đơn vị nào theo quy định của pháp luật thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.8 Theo cách hiểu này thì chủ thể kinh doanh bao gồm bất kỳ tổ chức, cá nhân đã làm thủ tục đăng ký hay xin phép kinh doanh và những tổ chức khác có thực hiện hành vi nhằm mục đích kiếm lời. Hiểu theo nghĩa của pháp luật thực định, nghĩa hẹp hơn thì chủ thể kinh doanh là những tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động kinh doanh mang tính nghề nghiệp, hoạt động dưới một hình thức pháp lý nhất định và đã làm thủ tục, đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (trước đây là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh) hay giấy chứng nhận đầu tư... theo quy định của pháp luật. 9 Do đó, với định nghĩa như thế này thì đối với những tổ chức, cá nhân có hành vi cụ thể nào đó nhằm mục đích sinh lợi nhuận, những đó không phải là hoạt động mang tính nghề nghiệp, không phải chức năng nhiệm vụ chính của tổ chức đó thì tổ chức, cá nhân này không phải là chủ thể kinh doanh. Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 thì: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm: a) Thương nhân theo quy định của Luật thương mại; 8 https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2007/11/19/7894/ truy cập vào lúc 11: 34 ngày 05/3/2017. 9 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh, Nxb. Hồng Đức, tr. 16. b) Cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh doanh.” Tuy nhiên, với mục đích nghiên cứu tìm ra cơ chế kiểm soát kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến thì chúng tôi chỉ trình bày về những chủ thể kinh doanh là những tổ chức, cá nhân sử dụng những trang mạng xã hội trực tuyến thuộc của tổ chức cung cấp dịch vụ mạng xã hội để thực hiện các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. - Người tiêu dùng. Theo định nghĩa trên Wikipedia – Bách khoa toàn thư mở: Người tiêu dùng hay người tiêu thụ là một từ nghĩa rộng dùng để chỉ các cá nhân hoặc hộ gia đình dùng sản phẩm hoặc dịch vụ sản xuất trong nền kinh tế. Khái niệm người tiêu dùng được dùng trong nhiều văn cảnh khác nhau vì thế cách dùng và tầm quan trọng của khái niệm này có thể rất đa dạng. Người tiêu dùng là người có nhu cầu, có khả năng mua sắm các sản phẩm dịch vụ trên thị trường phục vụ cho cuộc sống, người tiêu dùng có thể là cá nhân hoặc hộ gia đình.10 Với định nghĩa trên, chúng ta có thể thấy người tiêu dùng bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Tuy nhiên với một định nghĩa như trên dường như không thể lột tả một cách đầy đủ và chính xác về “người tiêu dùng” trong kinh doanh qua mạng xã hội trực tuyến, do đó chúng ta không thể áp dụng định nghĩa này vào hệ thống pháp luật để nghiên cứu về quyền và lợi ích của người tiêu dùng khi mua hàng qua mạng xã hội trực tuyến. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Với quy định này, chúng ta có thể hiểu người mua ở đây là thương nhân, cá nhân và tổ chức. Dưới góc độ nghiên cứu của bài này, chúng tôi chỉ đề cập đến người tiêu dùng là cá nhân, thương nhân, tổ chức mua hàng hóa hoặc dịch vụ trên mạng xã hội trực tuyến (khách hàng). 10 https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di_ti%C3%AAu_d%C3%B9ng truy cập vào lúc 14:18 ngày 05/3/2017. - Chủ thể sở hữu, cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến. Hoạt động kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến không chỉ là hoạt động chỉ mối quan hệ giữa người có hành vi kinh doanh (chủ thể kinh doanh) và người có nhu cầu mua hàng (khách hàng), mà còn chỉ mối quan hệ giữa người có hành vi kinh doanh với chủ sở hữu, cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến. Vậy hiểu như thế nào cho đúng đối với chủ sở hữu, cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến? Pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể về trường hợp này, nhưng theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 24 Nghị đinh số 52/2013/NĐ-CP Về Thương mại điện tử thì: “Chủ thể của hoạt động thương mại điện tử bao gồm: 1. Các thương nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập website thương mại điện tử để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình (người sở hữu website thương mại điện tử bán hàng). 2. Các thương nhân, tố chức thiết lập website thương mại điện tử để cung cấp môi trường cho thương nhân, tổ chức, cá nhân khác tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ (thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử).” Dựa vào quy định trên, chúng ta có thể thấy chủ sở hữu, cung cấp dịch vụ mạng xã hội có thể là cá nhân, tổ chức tự thiết lập một một tài khoản mang tên thương hiệu của mình trên một trang mạng xã hội trực tuyến để buôn bán hàng hóa hoặc thiết lập một group (nhóm) trên một trang mạng xã hội trực tuyến để cùng các chủ thể khác trao đổi, kinh doanh. Trách nhiệm của từng chủ thể khi có hành vi vi phạm trong hoạt động kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến Khi một chủ thể lợi dụng dịch vụ mạng xã hội trực tuyến để thực hiện hành vi kinh doanh hàng giả, hàng hòa vi phạm quyền sở hữu trí tuệ; hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa cấm kinh doanh thì chủ thể ấy có thể phải gánh chịu những hậu quả pháp lí bất lợi do hành vi của mình gây ra. Dưới góc độ của pháp luật về thương mại điện tử, hậu quả pháp lí đó là bị xử lý vi phạm hành chính theo khoản 1 Điều 78 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP Về Thương mại điện tử11, trong trường hợp nếu gây thiệt hại đến lợi ích vật chất của cá nhân, tổ chức khác thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Một người khi hội đủ các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật thì người đó trở thành chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, một điểm cần lưu ý là không phải bất kỳ ai thực hiện hành vi kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến gây thiệt hại đều trở thành chủ thể trực tiếp thực hiện việc bồi thường, người trực tiếp thực hiện việc bồi thường tài sản của mình cho người bị thiệt hại có thể chỉ là người có trách nhiệm trong việc quản lý người thực hiện hành vi kinh doanh gây thiệt hại. Không phải ai cũng có khả năng để thực hiện việc bồi thường, việc bồi thường thiệt hại phải do người có “khả năng” bồi thường và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù hành vi kinh doanh gây ra thiệt hại có thể không do chính họ thực hiện. Do đó, vẫn phải xác định được người có hành vi kinh doanh trong môi trường 11 Xem Điều 78 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP Về Thương mại điện tử: “1. Thương nhân, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm sau đây thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử: a) Vi phạm quy định về các hành vi bị cấm trong hoạt động thương mại điện tử tại Điều 4 Nghị định này; b) Vi phạm quy định về giao kết hợp đồng trong thương mại điện tử; c) Vi phạm quy định về trách nhiệm của các chủ thể trong thương mại điện tử; d) Vi phạm quy định về thông báo thiết lập website thương mại điện tử bán hàng; đ) Vi phạm quy định về đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử; e) Vi phạm quy định về hoạt động đánh giá và chứng thực trong thương mại điện tử; g) Vi phạm quy định về bảo vệ thông tin cá nhân trong thương mại điện tử; h) Vi phạm quy định về an toàn thanh toán trong thương mại điện tử; i) Không chấp hành các yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi tiến hành thanh tra, kiểm tra theo quy định của pháp luật; k) Tiếp tục hoạt động sau khi thương nhân, tổ chức đã bị chấm dứt đăng ký cung cấp dịch vụ thương mại điện tử; l) Tiếp tục hoạt động sau khi đã chấm dứt hoặc bị hủy bỏ đăng ký, chấm dứt hoặc bị thu hồi giấy phép hoạt động đánh giá, giám sát và chứng thực trong thương mại điện tử; m) Vi phạm các quy định khác của Nghị định này. 2. Ngoài việc xử phạt vi phạm hành chính, cơ quan quản lý xem xét tùy theo tính chất, mức độ vi phạm của thương nhân, tổ chức để ra quyết định đình chỉ hoạt động/tước quyền sử dụng giấy phép hoặc hủy bỏ đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử đối với các vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều này. 3. Trường hợp thương nhân, tổ chức, cá nhân vi phạm gây thiệt hại đến lợi ích vật chất của thương nhân, tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.” dịch vụ mạng xã hội gây thiệt hại để từ đó xác định người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vậy, làm sao để xác định được các chủ thể này? Như đã biết, khi một người muốn thành lập một tài khoản trên mạng xã hội thì người đó phải điền đầy đủ các thông tin mà mạng xã hội đó yêu cầu (có thể thông tin đúng sự thật hoặc không đúng sự thật) và làm theo trình tự các bước của trang mạng xã hội, từ đó sẽ lập được tài khoản của chính người đó trên trang mạng này. Với những người điền đầy đủ thông tin đúng sự thật về bản thân mình thì chúng ta dễ dàng thực hiện được sự quản lý đối với họ như biết được người đó ở đâu? Làm gì? Như thế nào?... Khi người này mà có hành vi kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến nhằm lừa đảo, gây thiệt hại cho người khác (người tiêu dùng hoặc khách hàng) gọi chung là người bị hại thì người bị hại có thể xác định được người nào đã gây thiệt hại cho mình, người nào đã lừa đảo, kinh doanh những loại hàng giả, hàng nhái để từ đó người bị hại có thể yêu cầu chính người đó chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi và bồi thường thiệt hại. Nhưng không phải ai cũng điền đầy đủ thông tin và đúng sự thật, nếu một người giả mạo một tài khoản trên mạng xã hội trực tuyến (hành vi bị nghiêm cấm theo Luật Công nghệ thông tin được ban hành từ năm 2006 và các văn bản hướng dẫn luật này) nhằm thực hiện hành vi kinh doanh lừa đảo thì làm thế nào để chúng ta xác định được người đó là ai? Làm thế nào để truy cứu trách nhiệm đối với người đó? Chúng ta có thể thực hiện một trong các cách sau: + Hỏi người bị hại đã mua hàng hóa đó của ai, trên những trang mạng xã hội trực tuyến nào để từ đó để từ đó có thể xác định được người có hành vi kinh doanh lừa đào trên dịch vụ mạng xã hội trực tuyến. + Các cơ quan điều tra có thể tra cứu địa chỉ IP 12 của những trang mạng xã hội trực tuyến kinh doanh lừa đảo đó để xác định được vị trí, từ đó xác định được chủ thể đã thực hiện hành vi kinh doanh nhằm truy cứu trách nhiệm đối với chủ thể đó. Trên đây là hai cách có thể xác định được ai là chủ thể có hành vi kinh doanh lừa đảo. Ngoài ra, cơ quan điều tra có thể áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để có thể xác định được chủ thể này. Như vậy, việc xác định ai là người có hành vi kinh doanh lừa đảo gây thiệt hại, người có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp nào có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại (người tiêu dùng hoặc khách hàng). Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà người có hành vi kinh doanh lừa đảo gây thiệt hại không thể trực tiếp bồi thường cho người bị thiệt hại như: người có hành vi kinh doanh gây thiệt hại bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị mất năng lực hành vi dân sự, không có tài sản hoặc có tài sản nhưng không đủ để thực hiện trách nhiệm bồi thường. Vậy, câu hỏi được đặt ra ở đây là ai sẽ là người có trách nhiệm bồi thường trong những trường hợp trên? Các nhà làm luật đã tìm ra những cơ chế để giải quyết cho những tình huống như thế này. Trong từng hoàn cảnh, các nhà làm luật xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cha, mẹ của người có hành vi kinh doanh gây thiệt hại là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người giám hộ đối với người được giám hộ.... Việc xác định ai là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể dựa trên những tiêu chí nhất định như độ tuổi, năng lực hành vi và khả năng kinh tế. Nhằm bảo đảm 12 Địa chỉ IP (IP là viết tắt của từ tiếng Anh: Internet Protocol - giao thức Internet) là một địa chỉ đơn nhất mà những thiết bị điện tử hiện nay đang sử dụng để nhận diện và liên lạc với nhau trên mạng máy tính bằng cách sử dụng giao thức Internet. nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị thiệt hại, theo BLDS 2015 thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định như sau: Thứ nhất, người từ đủ mười tám tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có hành vi kinh doanh gây thiệt hại thì phải tự mình bồi thường thiệt hại. Theo khoản 1 Điều 586 BLDS 2015: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường”. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có khả năng bằng chính hành vi của mình xác lập thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.13 Khoản 2 Điều 20 BLDS 2015 quy định về năng lực hành vi dân sự của người thành niên: “Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại Điều 22 và Điều 23 của Bộ luật này”.14 Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, nhiều người từ đủ mười tám tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhưng khả năng về tài sản của họ trên thực tế thì không có, có thể là họ mới trưởng thành, đang còn đi học, chỉ mới tập tành kinh doanh, chưa có thu nhập hay tài sản đáng kể, vẫn còn sống phụ thuộc vào cha mẹ. Vậy, câu hỏi đặt ra ở đây là người có hành vi kinh doanh gây thiệt hại mà thuộc trong các trường hợp như trên thì ai sẽ chịu trách nhiệm bồi thường? Nếu họ là người chịu trách nhiệm bồi thường thì họ phải thực hiện trách nhiệm đó như thế nào? Nếu họ không thực hiện được thì phải chăng họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi gì? Về mặt nguyên tắc, cá nhân từ đủ mười tám tuổi trở lên có hành vi kinh doanh trong môi trường dịch vụ mạng xã hội trực tuyến gây thiệt hại thì phải tự bồi thường. Tuy nhiên, nếu Tòa án áp dụng một cách cứng nhắc những quy định của pháp luật thì việc thi hành án sẽ được hoãn lại cho đến khi người có hành vi kinh doanh gây thiệt hại có thu nhập, việc làm này sẽ trái với nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời, không 13 Xem Điều 19 BLDS 2015. 14 Xem Điều 22, 23 BLDS 2015. đảm bảo khôi phục lại tình trạng ban đầu hoặc khắc phục thiệt hại một cách nhanh nhất, đảm bảo cuộc sống cho những người bị thiệt hại. Chính vì thế, Tòa án nên chủ động trong việc hòa giải, động viên cha mẹ của người gây thiệt hại bồi thường, thừa nhận sự tự nguyện của cha mẹ người có hành vi kinh doanh gây thiệt hại bồi thường cho con, nhưng về mặt luật pháp thì không thể buộc họ bồi thường. Thứ hai, người dưới mười tám tuổi là người chưa thành niên, không có hoặc chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Khoản 2 Điều 586 BLDS 2015 quy định: “Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”.15 Theo đó, đối với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người dưới mười tám tuổi gây ra thì cha mẹ của người đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con em họ gây ra. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường của cha mẹ đối với thiệt hại do con mình gây ra ở mỗi độ tuổi thì khác nhau. Cụ thể: - Người từ đủ sáu tuổi đến dưới mười lăm tuổi là người chưa đầy đủ năng lực hành vi dân sự, khi những người này thực hiện hành vi kinh doanh lừa đảo gây thiệt hại cho người khác thì việc sử dụng tài sản của cha mẹ còn phụ thuộc vào tài sản của cha mẹ, của người chưa thành niên. Bởi lẽ, BLDS quy định “nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu”. Trong cuộc sống phần lớn người dưới mười lăm tuổi không có tài sản và sự tự lập về kinh tế nhưng điều đó không có nghĩa là tất cả những 15 Xem Điều 599 BLDS 2015. người này đều không có tài sản riêng mà thực tế có nhiều trường hợp những người này đã có tài sản riêng do được hưởng thừa kế, được tặng cho tài sản. Như vậy, để áp dụng chế định này chúng ta phải xác định tài sản của cha mẹ hay của con chưa thành niên để từ đó quy trách nhiệm cho cha mẹ đối với hành vi do con của họ gây ra. - Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi là người chưa đầy đủ về năng lực hành vi dân sự nên phải có người đại diện cho mình trong việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự, nhưng khi kinh doanh gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình. Nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Bởi, những người từ đủ mười lăm tuổi trở lên có thể được tham gia vào quan hệ lao động để có thu nhập và có tài sản riêng có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha, mẹ quản lý và cha, mẹ hoàn toàn có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con. Ngoài ra, còn xem xét trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự16 gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người giám hộ để bồi thường theo quy định tại khoản 3 Điều 586 BLDS 2015 cũng như quy định tại Điều 606 BLDS 2005: “Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản 16 Đối với người mất năng lực hành vi dân sự, Bộ luật dân sự không thực sự rõ về cơ chế bồi thường. Cụ thể: Trường hợp người gây thiệt hại trong tình trạng bình thường khi gây thiệt hại nhưng sau đó mới bị Tòa án tuyên mất năng lực hành vi dân sự thì chúng ta sẽ không được áp dụng khoản 3 Điều 606 BLDS để bồi thường. Vậy, chúng ta sẽ áp dụng khoản nào, Điều nào cho phù hợp. Thiết nghĩ, lúc này chúng ta nên coi việc bồi thường thiệt hại như một giao dịch dân sự để có thể khai thác được khoản 2 Điều 22 BLDS: “giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”. Tức là, nếu người mất năng lực hành vi dân sự kinh doanh lừa đảo gây thiệt hại thì người đại diện theo pháp luật (người giám hộ) chịu trách nhiệm bồi thường trên cơ sở tài sản của người được giám hộ (không bằng tài sản của người giám hộ); nếu người được giám hộ không có tài sản thì người giám hộ không có trách nhiệm dùng tài sản của mình để bồi thường vì người giám hộ không có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này. hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”. Như vậy, về mặt pháp lý, trách nhiệm trước hết là của người được giám hộ, người được giám hộ mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường ngay cả khi có người giám hộ nếu họ có tài sản. Việc quy định như trên nhằm nâng cao trách nhiệm của người giám hộ trong việc giám hộ, đồng thời cũng khuyến khích cá nhân, tổ chức đảm nhận việc giám hộ. Tuy nhiên, cũng xuất phát từ quy định trên, câu hỏi được đặt ra ở đây là: Nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Vậy, lúc này ai là người phải bồi thường cho người bị thiệt hại, lấy tài sản ở đâu để bồi thường. Thiết nghĩ, cần phải có quy định cụ thể trong trường hợp này, chẳng hạn như coi đó là rủi ro và người bị thiệt hại phải gánh chịu thiệt hại. Trách nhiệm liên đới giữa chủ thể kinh doanh và chủ sở hưu, cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến; giữa chủ thể kinh doanh với người vận chuyển hàng hóa
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan