Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cơ cấu giai cấp công nhân việt nam hiện nay-thực trạng và giải pháp...

Tài liệu Cơ cấu giai cấp công nhân việt nam hiện nay-thực trạng và giải pháp

.PDF
111
1729
113

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THU HÀ CƠ CẤU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số: 60 22 85 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phan Thanh Khôi Hà Nội - 2011 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4 CHƯƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CƠ CẤU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ THỰC TRẠNG CƠ CẤU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC .................................................................................. 12 1.1. Nhận thức chung về cơ cấu giai cấp công nhân .................................... 12 1.2. Thực trạng cơ cấu giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ............................................. 42 CHƯƠNG 2. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CƠ CẤU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU MỚI CỦA THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC ................ 67 2.1. Yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .............................................................................................................. 67 2.2. Giải pháp xây dựng cơ cấu giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .......................... 72 KẾT LUẬN ................................................................................................... 103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 106 1 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH: Chủ nghĩa xã hội CNTB: Chủ nghĩa tư bản CTQG: Chính trị quốc gia DN: Doanh nghiệp GCCN: Giai cấp công nhân Nxb: Nhà xuất bản TBCN: Tư bản chủ nghĩa XHCN: Xã hội chủ nghĩa 2 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Tên bảng biểu Bảng 1.1: Tỷ trọng GDP và sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong nền kinh tế Bảng 1.2: Trình độ học vấn của công nhân phân theo ngành, nghề sản xuất kinh doanh Bảng 1.3: Phân loại cơ sở đào tạo theo loại hình doanh nghiệp Bảng 1.4: Thu nhập bình quân của công nhân phân theo ngành nghề sản xuất kinh doanh 3 Trang 35 51 53 60 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự nghiệp CNH, HĐH của Việt Nam đang tiến những bước rất cơ bản, hết sức quan trọng về quy mô, tính chất, chiều sâu và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề vững chắc để đất nước chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Trong bước phát triển mạnh mẽ đó, GCCN Việt Nam đóng góp một phần rất quan trọng và là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Là lực lượng trung tâm của tiến trình CNH, HĐH, GCCN Việt Nam đang nắm giữ những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất, quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế. Mặc dù, về số lượng, GCCN Việt Nam chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số dân cư, nhưng lại là lực lượng lao động đóng góp nhiều nhất vào ngân sách Nhà nước. Chính vì vậy, trong Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/1/2008 về “Tiếp tục xây dựng GCCN Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” Đảng ta đã nhận định: “Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Theo đó “xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước”… là một trong những nhiệm vụ chiến lược của Đảng, Nhà nước và GCCN trong thời gian tới. Cùng với quá trình thực hiện nhất quán đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, GCCN nước ta đang có những biến đổi rất sâu sắc trên tất cả các phương diện mà trước hết là về cơ cấu GCCN. Cụ thể: 4 Sự thay đổi số lượng công nhân ở khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã kéo theo sự thay đổi quan trọng rất đáng chú ý, không chỉ là sự thay đổi tính chất các loại hình sở hữu, mà còn dẫn đến sự thay đổi cả tỷ lệ trong số lượng công nhân, trình độ công nhân và thành phần GCCN, hay có thể nói là dẫn đến sự phân tầng trong nội bộ GCCN. Sự phân tầng này biểu hiện trên tất cả các mặt từ trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp, mức thu nhập đến quyền sở hữu tài sản. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế cùng với sự phát triển của kinh tế tri thức khiến cho mặt bằng chung về trình độ học vấn và trình độ nghề nghiệp chuyên môn của công nhân trong những năm qua tăng lên nhưng đồng thời sự đòi hỏi của các ngành nghề, các khu vực và các lĩnh vực kinh tế đối với đội ngũ này lại rất khác nhau. Vì vậy, sự phân hóa về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn là điều tất yếu, khó tránh khỏi. Tính tất yếu này dẫn đến một tất yếu khác là sẽ có sự phân hóa về mặt lương thưởng, về mặt hưởng thụ hay về thu nhập nói chung. Hiện nay, chúng ta đang được chứng kiến sự chênh lệch khá lớn, có khi đến hàng chục lần, về thu nhập của công nhân không chỉ thuộc các ngành kinh tế khác nhau, mà của cả các tầng lớp công nhân khác nhau trong cùng một ngành kinh tế nhưng thuộc các khu vực khác nhau (khu vực nhà nước, khu vực tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài). Hệ quả dễ thấy của những biến đổi trên là sự mâu thuẫn về lợi ích, là khoảng cách giàu nghèo trong nội bộ GCCN, là sự không đồng nhất về nhiều mặt. Bên cạnh đó, sự gia nhập vào hàng ngũ công nhân của số đông lao động từ nông thôn sẽ làm cho GCCN không còn thuần nhất về thành phần xuất thân, không còn đồng đều về trình độ giác ngộ chính trị, không còn giữ được sự thống nhất cao về tư tưởng, về ý thức tổ chức kỷ luật, về tác phong 5 công nghiệp như khi chủ yếu còn là kinh tế nhà nước, khi nhà máy, xí nghiệp còn thuộc sở hữu toàn dân trước đây. Tầng lớp công nhân mới xuất thân từ nông dân này cũng như tầng lớp công nhân chủ yếu làm lao động chân tay đơn giản sẽ là tầng lớp chịu nhiều thiệt thòi nhất, là những người yếu thế nhất và dễ bị tổn thương nhất. Bên cạnh tầng lớp yếu thế đó lại cũng sẽ hình thành những tầng lớp có ưu thế, có thu nhập cao, thậm chí rất cao. Một khi đã diễn ra sự phân hóa, phân tầng, đã hình thành các tầng lớp khác nhau trong nội bộ giai cấp công nhân thì không tránh khỏi sẽ có những lợi ích khác nhau và do đó, ý thức cũng sẽ khác nhau. Chính sự khác nhau về lợi ích này sẽ đẻ ra không ít nguy cơ về tư tưởng, về nhận thức và cả về ý thức tổ chức, làm giảm sức mạnh đoàn kết của GCCN, ảnh hưởng tới quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp này. Vì thế, nhiệm vụ phát triển về số lượng và chất lượng của GCCN Việt Nam đang khách quan đặt ra vấn đề hoàn thiện cơ cấu của giai cấp này. Theo đó, khảo sát về thực trạng cơ cấu GCCN Việt Nam hiện nay, tìm hiểu những vấn đề đang đặt ra trong cơ cấu GCCN, từ đó đưa ra chiến lược nhằm phát triển GCCN đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là việc làm cần thiết. Vì những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Cơ cấu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về GCCN Việt Nam là một vấn đề lớn, được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ rất nhiều năm nay. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về GCCN Việt Nam từ các góc độ khác nhau và đã được công bố. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau: Lê Huy Phan (1972), Về vị trí, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội. 6 Nội dung tác phẩm bàn về những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về sứ mệnh lịch sử của GCCN trong thời kỳ xây dựng CNXH. Bùi Đình Bôn (1991), Giai cấp công nhân Việt Nam - vai trò và xu hướng biến động về cơ cấu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Luận án Phó tiến sĩ Triết học. Luận án phân tích và làm rõ mối quan hệ giữa cơ cấu thành phần kinh tế với cơ cấu GCCN Việt Nam; những nhân tố chủ quan và khách quan chủ yếu quy định sự biến đổi cơ cấu GCCN và vai trò của GCCN trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ đó đưa ra những mục tiêu, phương hướng xây dựng GCCN Việt Nam vững mạnh. Bùi Đình Bôn (1997), Giai cấp công nhân Việt Nam, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CTQG, Hà Nội. Trong tác phẩm này, tác giả phân tích một số vấn đề lý luận về sứ mệnh lịch sử của GCCN; GCCN Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH; vai trò của Đảng đối với GCCN và nhiệm vụ cách mạng của GCCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam - Viện công nhân và công đoàn (2001), Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Lao động, Hà Nội. Cuốn sách tập hợp những bài tham luận trong hội thảo về GCCN Việt Nam; sự biến đổi cơ cấu đội ngũ GCCN; xu hướng phát triển của GCCN trong nền kinh tế nhiều thành phần. Phạm Quang Trung, Cao Văn Biền, Trần Đức Cường (2001), Về thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tác phẩm đưa ra những số liệu điều tra về cá nhân, gia đình, đời sống, nghề nghiệp, đào tạo, điều kiện lao động, tâm tư nguyện vọng, việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của GCCN Việt Nam sau những năm đổi mới và chính sách xã hội đối với họ. PGS. Cao Văn Lượng (chủ biên) (2001), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển giai cấp công nhân, Nxb CTQG, Hà Nội. Nội dung của 7 tác phẩm là lý luận về GCCN; sự phát triển của GCCN trong thời kỳ đổi mới, thực hiện CNH, HĐH; chính sách và những giải pháp xây dựng, củng cố, tăng cường vị trí của GCCN trong xã hội. TS. Dương Văn Sao (chủ biên) (2004), Một số vấn đề cơ bản về xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Lao động, Hà Nội. Trong tác phẩm này, tác giả xây dựng khái niệm GCCN Việt Nam; nghiên cứu thực trạng GCCN Việt Nam đầu thế kỷ XXI và giải pháp xây dựng, phát huy vai trò của GCCN Việt Nam. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2007), Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Lao động, Hà Nội. Đây là cuốn sách tập hợp các bài tham luận của các nhà nghiên cứu về vấn đề công nhân, công đoàn Việt Nam với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong cuốn sách cũng có một số bài tham luận đề cập đến thực trạng cơ cấu GCCN Việt Nam hiện nay và những giải pháp xây dựng GCCN đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước. GS.TS. Dương Xuân Ngọc (2008), Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội. Trong tác phẩm, tác giả đề cập đến GCCN và những nhân tố tác động đến quá trình biến đổi GCCN Việt Nam; thực trạng và xu hướng biến đổi của GCCN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng GCCN Việt Nam trở thành lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. PGS.TS. Nguyễn An Ninh (2008), Về xu hướng công nhân hóa ở nước ta, Nxb CTQG, Hà Nội. Đây là cuốn sách bàn về quá trình xây dựng và phát triển GCCN nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nhiều vấn đề liên quan tới quá trình phát triển của GCCN đã được đề cập, trong đó có việc hoàn thiện cơ cấu 8 GCCN đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. TS. Nguyễn Văn Giang (chủ biên), (2009), Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng GCCN hiện nay. Phân tích thực trạng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với GCCN trên cơ sở khảo sát một số địa bàn, từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng GCCN Việt Nam hiện nay. TS. Đặng Ngọc Tùng (chủ biên), (2010), Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Nxb Lao động, Hà Nội. Nội dung của cuốn sách góp phần làm rõ quan điểm, đường lối của Đảng trong vấn đề xây dựng GCCN; đưa ra hệ thống giải pháp cho việc xây dựng GCCN trong thập niên tới; cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, xác định nội dung xây dựng GCCN Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 của Đảng và Nhà nước ta. Ngoài các công trình trên còn có một số bài viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Nguyễn Hoàng Giáp (2004), Giai cấp công nhân hiện đại khái niệm và một số biểu hiện mới, Tạp chí Giáo lục lý luận, số 11. Trong bài viết, tác giả đề cập tới sự biến động về cơ cấu GCCN trong cơ chế thị trường hiện nay. GS. Văn Tạo (2006), Quan điểm mới về giai cấp công nhân Việt Nam qua Văn kiện Đại hội X của Đảng, Tạp chí cộng sản, số 10. Tác giả thừa nhận sự biến đổi mạnh mẽ cơ cấu của GCCN nước ta hiện nay. Thái Văn Long (2006), Giai cấp công nhân trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6. Bài viết chỉ ra một số tác động khiến cho cơ cấu của GCCN hiện đại biến đổi. Những công trình trên đã đưa ra một số biểu hiện mới của GCCN Việt Nam trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ, toàn cầu hóa và hội 9 nhập kinh tế quốc tế; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về GCCN thể hiện qua Văn kiện của các Đại hội, các thay đổi của GCCN Việt Nam trong thời kỳ đổi mới… Theo đó, vấn đề biến động cơ cấu giai cấp công nhân nước ta đã được đề cập ở một số khía cạnh. Tuy nhiên, chưa có một công trình chuyên biệt nào đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu về thực trạng cơ cấu GCCN Việt Nam hiện nay, những vấn đề đang đặt ra đối với cơ cấu của giai cấp này và đưa ra giải pháp xây dựng GCCN nâng cao về chất lượng, hài hòa về cơ cấu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu những nhân tố tác động đến sự biến đổi cơ cấu GCCN và thực trạng cơ cấu GCCN Việt Nam, luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần xây dựng cơ cấu GCCN Việt Nam hài hòa, hợp lý, đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ - Luận văn có nhiệm vụ làm rõ một số vấn đề lý luận về: GCCN Việt Nam, cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp và cơ cấu GCCN. - Chỉ ra những nhân tố tác động đến sự biến đổi cơ cấu GCCN Việt Nam và những vấn đề đang đặt ra ở lĩnh vực này. - Phân tích thực trạng cơ cấu GCCN Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp góp phần xây dựng cơ cấu GCCN Việt Nam hài hòa, hợp lý đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ cấu GCCN ở Việt Nam, nhất là thực trạng và giải pháp tác động để xây dựng cơ cấu GCCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 10 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn khảo sát thực trạng cơ cấu GCCN Việt Nam qua bốn dấu hiệu cơ bản: cơ cấu thành phần kinh tế; cơ cấu ngành và lĩnh vực kinh tế; cơ cấu trình độ học vấn, trình độ tay nghề và các cơ cấu liên quan đến quan hệ lao động trong GCCN trên phạm vi cả nước, từ khi Việt Nam bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH (năm 1996) đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Ngoài phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phân tích, dự báo tình hình… 6. Đóng góp của luận văn - Góp phần làm rõ thực trạng cơ cấu GCCN ở nước ta hiện nay. Từ đó cung cấp một số luận cứ khoa học xây dựng cơ cấu GCCN Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. - Sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy những nội dung có liên quan đến GCCN. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 2 chương 4 tiết. 11 CHƢƠNG 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ CƠ CẤU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ THỰC TRẠNG CƠ CẤU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƢỚC 1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CƠ CẤU GIAI CẤP CÔNG NHÂN 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp Khái niệm cơ cấu xã hội Xã hội loài người tồn tại trong mối quan hệ - tác động lẫn nhau mang tính cộng đồng. Tùy theo cách xác định các dấu hiệu, nguyên tắc mà người ta có thể xác định những cộng đồng người theo các cơ cấu xã hội khác nhau như dân tộc, giai cấp, tôn giáo, nghề nghiệp, giới tính, độ tuổi… Cơ cấu xã hội là tất cả những cộng đồng người và toàn bộ các quan hệ xã hội do sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên. Trong khoa học lý luận chính trị, nghiên cứu cơ cấu xã hội chủ yếu đề cập đến những cộng đồng người được hình thành một cách khách quan trong xã hội như: giai cấp, dân số, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo… Từ đó, người ta có thể xem xét các loại hình cơ cấu xã hội tương ứng như: cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - dân số, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp… Khái niệm cơ cấu xã hội - giai cấp Các loại hình cơ cấu xã hội có sự liên quan đến nhau và tạo thành hệ thống cơ cấu xã hội của một xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Trong đó, cơ cấu xã hội - giai cấp là bộ phận cơ bản và quan trọng nhất. Cơ cấu xã hội - giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội và các mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Nghiên cứu cơ cấu xã hội - giai cấp là chỉ ra được đầy đủ những giai cấp và tầng lớp tồn tại khách quan trong lịch sử xã 12 hội, xác định rõ vị trí của các giai cấp và tầng lớp này (cơ bản hay không cơ bản, thống trị hay bị trị, quan hệ bình đẳng hay không bình đẳng…), chỉ ra xu hướng phát triển của các giai cấp và tầng lớp ấy… Cơ cấu xã hội - giai cấp là bộ phận cơ bản và quan trọng nhất trong cơ cấu xã hội vì nó là cái phản ánh trực tiếp những mối quan hệ kinh tế và thể hiện ra trên bề mặt xã hội là vị thế các giai cấp trong một chế độ xã hội cụ thể. Theo đó, cơ cấu này liên quan đến các vấn đề như: đảng phái chính trị và nhà nước; sở hữu tư liệu sản xuất, địa vị xã hội của con người trong quan hệ sản xuất, tổ chức lao động và phân phối lợi ích xã hội. Cơ cấu xã hội - giai cấp quyết định đến bản chất và xu hướng vận động của các loại hình cơ cấu xã hội khác là vì như vậy. Nó là yếu tố đặc trưng cho sự khác nhau về chất giữa cơ cấu xã hội của xã hội này với cơ cấu xã hội của xã hội khác. Ở Việt Nam hiện nay, với sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, nên cơ cấu xã hội - giai cấp tồn tại trong trạng thái rất đa dạng, phức tạp và không ngừng biến đổi. Cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam hiện nay bao gồm: GCCN, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, người sản xuất nhỏ, tầng lớp doanh nhân... Trong đó, GCCN giữ vai trò lãnh đạo, quyết định xu hướng phát triển của cơ cấu xã hội. Vì vậy, nghiên cứu cơ cấu GCCN có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay. 1.1.1.2. Giai cấp công nhân Việt Nam, cơ cấu giai cấp công nhân Để có thể hiểu một cách đầy đủ nhất về khái niệm GCCN Việt Nam trước hết cần hiểu rõ khái niệm GCCN theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin. Khái niệm giai cấp công nhân Hiện nay cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, nền kinh tế tri thức ra đời, đang tồn tại nhiều cách giải thích khác nhau về khái 13 niệm GCCN. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: trong thời đại hiện nay, do những điều chỉnh nhất định trong cách thức quản lý và phân phối của CNTB, đặc biệt trong lĩnh vực xã hội, GCCN không còn nữa, vì hoặc trở thành giai cấp trung lưu, hoặc đã tan biến vào tầng lớp trí thức. Loại ý kiến thứ hai cho rằng: GCCN không những không mất đi mà còn được bổ sung thêm vào đội ngũ của mình thành phần mới: đội ngũ trí thức. Hiện nay, trí thức không còn là một tầng lớp xã hội độc lập mà là một bộ phận của GCCN: công nhân trí thức. Loại ý kiến thứ ba cho rằng: GCCN vẫn tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội, nhưng được bổ sung những phẩm chất mới; GCCN đang trong quá trình “trí thức hóa”. Vì vậy, để có một cái nhìn khách quan, khoa học, tiến tới một nhận thức thống nhất về khái niệm GCCN, cần phải trở về thế giới quan và phương pháp luận duy của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bản thân C.Mác và Ph.Ănghen sử dụng rất nhiều từ cụm từ để diễn đạt khái niệm GCCN: “giai cấp công nhân”, “giai cấp công nhân hiện đại”, “giai cấp vô sản”, “giai cấp vô sản công nghiệp”…; trong những hoàn cảnh cụ thể, các ông còn sử dụng một số hình thức diễn đạt khác như: “giai cấp lao động làm thuê”, “giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ sống dựa vào bán sức lao động của mình”, “giai cấp công nhân làm thuê thế kỷ XIX”… Tất cả những thuật ngữ này chỉ là sự khác nhau về hình thức còn về ý nghĩa, nó đồng nghĩa với nhau và được đưa ra trên cơ sở xem xét hai tiêu chí cơ bản: về phương thức lao động, phương thức sản xuất và về vị trí của GCCN trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, GCCN là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp, ngày càng hiện đại và tính xã hội hóa ngày càng cao. Đây cũng là tiêu chí cơ bản để phân biệt người công nhân với người thợ 14 thủ công thời trung cổ hay người thợ trong các công trường thủ công. Trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người lao động sử dụng công cụ của mình, còn trong công xưởng người công nhân phải phục tùng máy móc. Theo C.Mác và Ph.Ănghen, GCCN là sản phẩm, là “con đẻ” của nền đại công nghiệp: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [9, tr.610]. Là sản phẩm của nền đại công nghiệp nên GCCN là hiện thân của lực lượng sản hiện đại, đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay. Điều này cũng mang đến cho GCCN những phẩm chất riêng có. Đó là: tính tiên tiến, hiện đại; tinh thần cách mạng triệt để; ý thức tổ chức kỷ luật cao; tác phong công nghiệp; tinh thần quốc tế… Thứ hai, về vị trí của GCCN trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, GCCN là giai cấp không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động, làm thuê cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh tiêu chí này, vì chính nó đã khiến cho GCCN trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản về lợi ích cơ bản. “Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác; vì thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường” [9, tr.605]. Căn cứ vào hai tiêu chí trên Ph.Ănghen đã đưa ra định nghĩa về GCCN trong tác phẩm Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản: “Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán sức lao động của mình chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư bản nào, 15 đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi.” [9, tr.456-457]. Phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ănghen trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử mới, V.I.Lênin đã bổ sung thêm những thuộc tính mới của GCCN. Trong một loạt các tác phẩm như: “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga”, “Nhà nước và cách mạng”, “Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”… V.I.Lênin đã khẳng định: sau khi cách mạng thành công GCCN sẽ trở thành giai cấp cầm quyền. Địa vị kinh tế - xã hội của GCCN sẽ thay đổi, từ thân phận lao động làm thuê, trở thành giai cấp thống trị về chính trị, thông qua đảng tiên phong của mình, lãnh đạo toàn xã hội cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. GCCN không còn là giai cấp vô sản theo đúng nghĩa đen của nó nữa. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật - công nghệ, GCCN đã có nhiều thay đổi khác trước. Thứ nhất, về cơ cấu ngành nghề: bên cạnh công nhân của nền công nghiệp cơ khí truyền thống đã xuất hiện công nhân của nền công nghiệp tự động hóa với việc áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất. Bên cạnh những ngành công nghiệp đã phát triển, ngày càng xuất hiện nhiều loại ngành dịch vụ có tính chất công nghiệp. Ở các nước tư bản phát triển, ngành này chiếm từ 50-70% lao động. Song, điều đó không hề làm giảm vai trò của GCCN trong nền kinh tế và tỷ trọng của GCCN trong dân cư. Bởi vì, một bộ phận lớn những người làm thuê trong các ngành dịch vụ gắn liền với công nghiệp và hoạt động theo lối công nghiệp vẫn là công nhân xét về cả hai tiêu chí cơ bản nói trên. Thứ hai, cùng với sự tiến bộ của khoa học - công nghệ, GCCN có xu hướng “trí thức hóa” ngày càng tăng và cũng tiếp nhận đông đảo thêm những 16 người thuộc tầng lớp trí thức vào hàng ngũ của mình. Bên cạnh đội ngũ công nhân “cổ xanh” (những người lao động chân tay, trực tiếp vận hành công cụ sản xuất) đang có xu hướng giảm đi, xuất hiện thêm những thành phần mới trong GCCN: công nhân “cổ trắng” và công nhân “cổ vàng” (những người chuyên nghiên cứu; sáng chế; áp dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất; cán bộ quản lý…). Họ hoạt động trong các ngành công nghệ cao. Tuy nhiên, trình độ tri thức không làm thay đổi bản chất của GCCN trong CNTB với tính cách là giai cấp làm thuê cho giai cấp tư sản trong hoạt động sản xuất công nghiệp. Trước kia, công nhân bán sức lao động chân tay là chủ yếu thì nay họ bán cả sức lao động chân tay và lao động trí óc, thậm chí một số chủ yếu là bán sức lao động với kỹ thật rất cao, có giá trị ngày càng lớn và do đó càng bị bóc lột giá trị thặng dư theo chiều sâu. Mặc dù, có những thay đổi to lớn trong thành phần, cơ cấu ngành nghề và trình độ lao động, song những thay đổi đó vẫn không làm mất đi những đặc điểm căn bản của GCCN - những người mà lao động của họ gắn liền với phương thức sản xuất công nghiệp. Trình độ tri thức không làm thay đổi bản chất của vấn đề trong xã hội tư bản: giai cấp công nhân là giai cấp làm thuê cho giai cấp tư sản và đang bị bóc lột ngày càng nặng nề hơn. Và chúng ta vẫn có thể coi những người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp là công nhân. Từ sự phân tích trên, tác giả thống nhất với định nghĩa về GCCN của Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh được đưa ra trong Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học: “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc gián tiếp 17 tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ” [28, tr.99]. Khái niệm giai cấp công nhân Việt Nam Từ khái niệm chung về GCCN, nghiên cứu, làm rõ khái niệm GCCN Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Nó sẽ đưa đến cho chúng ta những nhận thức đúng về thành phần, cơ cấu, số lượng, chất lượng GCCN trong hoàn cảnh mới, từ đó góp phần quan trọng vào việc hoạch định chủ trương, chính sách, giải pháp xây dựng và phát triển GCCN, củng cố, tăng cường vị trí của GCCN trong xã hội, đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay. Để trả lời cho câu hỏi GCCN Việt Nam bao gồm những ai, đang tham gia vào lĩnh vực nào, hiện cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng, GCCN Việt Nam chỉ bao gồm bộ phận lao động trực tiếp trong công nghiệp (cũng có thể cả bộ phận lao động trực tiếp trong sản xuất và dịch vụ có tính chất công nghiệp). Nhóm ý kiến thứ hai cho rằng, GCCN Việt Nam bao gồm tất cả những người làm công, hưởng lương. Nhóm ý kiến thứ ba cho rằng, GCCN Việt Nam bao gồm những người lao động chân tay và trí óc làm công hưởng lương trong các loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công 18 nghiệp. Trên thực tế, nhóm ý kiến thứ ba nhận được nhiều sự đồng tình hơn cả và nó cũng phù hợp với thực trạng và xu hướng phát triển của GCCN Việt Nam hiện nay. Để có một cách nhìn cơ bản và thống nhất về GCCN cũng như vấn đề xây dựng GCCN, Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa X, đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/1/2008 về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết đã đưa ra quan niệm về GCCN Việt Nam; xác định nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; khái quát tình hình GCCN Việt Nam trong những năm đổi mới và đưa ra quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đây chính là cơ sở, là căn cứ cho mọi nghiên cứu về GCCN Việt Nam hiện nay và trong những năm tiếp theo. Trong Nghị quyết, Đảng ta quan niệm GCCN “là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”. Quan niệm này cho thấy, GCCN Việt Nam hiện nay bao gồm những người lao động chân tay và lao động trí óc hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ công nghiệp có thu nhập chủ yếu bằng tiền lương, tiền công. Họ có mặt trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần; lao động trực tiếp trong các nông, lâm trường; làm việc trong ngành dịch vụ: bưu chính, viễn thông, ngân hàng… Đối với những người làm việc theo thời vụ, theo hợp đồng ngắn hạn, cuộc sống chưa gắn bó với công việc tại các cơ sở công nghiệp và dịch vụ công nghiệp, tác phong công nghiệp còn hạn chế, ý thức chính trị chưa rõ ràng thì chưa thể gọi là công nhân. Đối với đội ngũ trí 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan