Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Luyện thi Đại học - Cao đẳng CHUYÊN ĐỀ ÔN THI ĐẠI HỌC MÔN NGỮ VĂN LUYỆN CÁC DẠNG ĐỀ VỀ BÀI THƠ TÂY TIẾN CỦA ...

Tài liệu CHUYÊN ĐỀ ÔN THI ĐẠI HỌC MÔN NGỮ VĂN LUYỆN CÁC DẠNG ĐỀ VỀ BÀI THƠ TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG

.DOC
41
2664
134

Mô tả:

CHUYÊN ĐỀ ÔN THI ĐẠI HỌC MÔN: NGỮ VĂN tªn CHUYÊN ĐỀ: LUYỆN c¸c d¹ng ĐỀ VỀ BÀI THƠ TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG GI¸O VI£N: cAO THÞ PH¦¥NG LAN Tổ phó tổ Văn - GDCD trường THPT Trần Phú Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 1 CHUYÊN ĐỀ LUYỆN ĐỀ VỀ BÀI THƠ TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG (Số tiết dự kiến : 09 tiết, đối tượng: Học sinh lớp 12) A. MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU 1. Nội dung - Nắm chắc kiến thức cơ bản về tác giả Quang Dũng. - Nắm chắc và phân tích được giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ trên cái nhìn nhiều chiều, so sánh với những tác phẩm khác trong chương trình. 2. Kĩ năng Ôn luyện và hình thành cho học sinh các dạng đề: - Tái hiện kiến thức về tác giả, tác phẩm. - Phân tích, bình giảng, cảm thụ một đoạn thơ. - Phân tích một khía cạnh nội dung của một bài thơ. - Phân tích một khía cạnh nghệ thuật của một bài thơ. - Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ. - Kiểu bài so sánh. 3. Phương pháp - Giáo viên thuyết trình. - Học sinh làm đề cương theo các đề cụ thể. - Tổ chức ôn luyện. B. LUYỆN ĐỀ PHẦN I. TÁI HIỆN Câu 1: Trình bày hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng. * Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm - Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm (1921-1988). Quê ở làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Ông là nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, hồn thơ Quang Dũng phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, tha thiết với quê hương, đất nước mình. Thơ ông có cái tôi hào hoa, thanh lịch, giàu chất lãng mạn, nhạy cảm với vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên và con người. - Tây Tiến là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất của đời thơ người con xứ Đoài mây trắng lắm. Bài thơ ra đời từ những cảm nghĩ, kỉ niệm xúc động của Quang Dũng về vùng đất miền Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian xa cách. Tác phẩm là bức họa bằng ngôn từ về bức tranh thiên nhiên, cuộc sống miền Tây hùng vĩ, dữ dội mà mĩ lệ, nên thơ cùng hình ảnh bi tráng về người lính Tây Tiến. * Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Bài thơ được khơi nguồn cảm xúc từ đoàn quân Tây Tiến: - Tây Tiến là một đơn vị thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào. - Nhiệm vụ: đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở biên giới Tây Bắc Bộ Việt Nam. Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 2 - Địa bàn đóng quân và hoạt động của Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào). - Thành phần: chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên (như Quang Dũng). - Hoàn cảnh sống và nghị lực: Chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu vô cùng dũng cảm. - Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng là đại đội trưởng ở đó, từ đầu năm 1947 đến cuối năm 1948 rồi chuyển sang đơn vị khác. Nhà thơ nhớ đơn vị cũ mà viết bài thơ này ở Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ), Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến in trong tập Mây đầu ô (1986). => Như vậy, hoàn cảnh sáng tác của bài thơ đã cho người đọc thấy Tây Tiến được viết bằng dòng hoài niệm. Qua nỗi nhớ, Quang Dũng đã khắc họa được bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, thơ mộng, huyền ảo cùng với bức tượng đài của người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng. Câu 2: Nêu ngắn gọn giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng) * Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm (Tham khảo câu 1) * Giá trị nội dung Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh núi rừng miền Tây Bắc. Bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hiện ra hùng vĩ, dữ dội nhưng vô cùng mĩ lệ, trữ tình. Hình ảnh người lính trên chặng đường hành quân gian khổ, hi sinh mà vẫn ngang tàng, tâm hồn vẫn trẻ trung, lãng mạn trong cảm nhận về thiên nhiên, về những đêm liên hoan văn nghệ rực rỡ, lung linh mang màu sắc xứ lạ, những mộng mơ của tuổi trẻ. Hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ mang vẻ đẹp đặc trưng của hồn thơ Quang Dũng về một thời kì gian khổ mà hào hùng: Người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng. * Giá trị nghệ thuật - Bài thơ được viết bằng cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng: bức tranh thiên nhiên miền Tây hiện ra vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng, hình ảnh con người nơi đây tài hoa, người lính Tây Tiến mặc dù bệnh tật, thiếu thốn thậm chí phải đối diện với cái chết nhưng họ hiện ra bi mà không lụy sẵn sàng xả thân hi sinh cho Tổ quốc. - Bút pháp tạo hình đa dạng khi miêu tả thiên nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến: tả cận cảnh, miêu tả viễn cảnh, sử dụng trí tưởng tượng bay bổng, táo bạo để tạo ra những hình ảnh thơ ngộ nghĩnh: Súng ngửi trời, không mọc tóc... Kết hợp với hình ảnh tương phản => Hình ảnh thơ vì thế vừa gân guốc, khỏe khoắn lại vừa mềm mại, thơ mộng, tâm hồn nhà thơ hết sức nhạy cảm, tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. - Ngôn ngữ thơ: kết hợp giữa những từ Hán - Việt mang sắc thái trang trọng, thiêng liêng, cổ kính cùng với những từ thuần Việt mang hơi thở dân dã đời thường, trẻ trung của những người lính. Ngoài ra, tác giả còn tạo ra những từ mới lạ, nghĩa mới cho từ ngữ như: Đêm hơi, hoa về, mùa em... - Sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các thanh điệu bằng - trắc: Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 3 + Thác gầm thét hiệp âm đầu và thanh trắc, Hịch...cọp hiệp thanh trắc vừa gợi tả tiếng vọng, âm thanh hung hãn, dữ tợn của thác lại gợi thật tài tình bước chân rình rập đâu đây của thú dữ. + Dốc lên... ... mưa xa khơi Cách phối hợp hệ thống thanh bằng - trắc đem lại hiệu quả nghệ thuật thú vị. Ba câu thơ đầu đan dày những tiếng mang thanh trắc (13/21), dòng cuối bỗng xuất hiện một chuỗi thanh bằng (7/7). - Thể thơ và giọng điệu: thể thơ thất ngôn trường thiên vừa mang âm hưởng cổ kính, trang nghiêm vừa tự do phóng khoáng chuyển tải được vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng của người lính. Giọng điệu thơ phù hợp với cảm xúc bao trùm bài thơ là nỗi nhớ được diễn tả dưới nhiều cung bậc cảm xúc (đoạn 1 thiết tha, bồi hồi; đoạn 2 hồn nhiên, tươi vui; đoạn 3: trang trọng rồi lắng xuống bi tráng; đoạn 4 đầy chiêm nghiệm suy tư mang tính triết lí). - Tác giả sử dụng nhiều biện pháp tu từ: ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, đảo ngữ, điệp từ...mang giá trị biểu cảm cao. Câu 3: Lúc đâu bài thơ có nhan đề là Nhớ Tây Tiến, sau đó nhà thơ Quang Dũng đổi thành Tây Tiến. Lí giải vì sao nhà thơ lại thay đổi như vậy? Nêu ý nghĩa nhân đề của bài thơ Tây Tiến. Chữ Tây Tiến trong bài thơ gắn với sự kiện nào? * Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm (Tham khảo câu 1) * Lí giải sự thay đổi nhan đề của tác giả Nhan đề bài thơ nói riêng, tác phẩm văn học nói chung thường bao hàm nội dung cảm hứng mà nó muốn chuyển tải. Nhan đề, khi cần, có thể được tác giả chỉnh sửa cho sát với ý đồ nghệ thuật của mình. Trường hợp nhan đề bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng là một trường hợp như thế. - Lúc đầu Quang Dũng đặt tên bài thơ là Nhớ Tây Tiến là bởi cả bài thơ là một nỗi nhớ dài, trải theo những cung đường dãi dầu mà mĩ lệ nơi đoàn quân Tây Tiến đã đi qua và để lại bao kỉ niệm đẹp nhất của mình. Nỗi nhớ gợi thành hình, gọi thành tên ngay từ những câu đầu tiên. Nỗi nhớ hiển hiện cả khi chia phôi: Đường lên thăm thẳm một chia phôi. Vì vậy, nhan đề của bài thơ đã gói trọn những cảm xúc ấy. - Về sau, Quang Dũng đổi tên bài thơ thành Tây Tiến với nhiều ý nghĩa hàm súc, ý tứ sâu xa. * Ý nghĩa nhan đề Tây Tiến - Nếu đặt nhan đề là Nhớ Tây Tiến bài thơ sẽ mang một vẻ đẹp giản dị và nói được cảm xúc chủ đạo của của thi phẩm là nỗi nhớ nhưng lại không làm nổi bật được hình tượng trung tâm của bài thơ. Vì vậy, nhà thơ chọn là Tây Tiến đã đem đến cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng người lính và miền Tây Bắc của Tổ quốc. - Mặt khác, bản thân hai chữ Tây Tiến đã bao hàm trong đó nỗi nhớ rồi, Quang Dũng bỏ đi chữ nhớ khiến nhan đề bài thơ hàm ẩn hơn, cô đọng hơn. Nỗi nhớ lặn xuống tầng sâu trong tâm hồn để chỉ còn hiển hiện một mối quan tâm, một ánh mắt đau đáu hướng đến một Tây Tiến của lòng mình. Không nói nhớ mà vẫn da diết nhớ, thậm chí nỗi nhớ còn rất cụ thể khi chỉ nhắc đến hai chữ Tây Tiến là bao nhiêu kỉ niệm lại ùa về không chỉ gợi nhớ chân dung người lính vừa hào hoa, lẫm liệt, vừa bi tráng mà còn gợi nhớ một thời chiến đấu gian khổ nhưng giàu chất thơ của một quân đoàn đã Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 4 đi vào huyền thoại, gợi một vùng đất mà người Tây Tiến đi qua - đó là một tấm phông thiên nhiên vĩ đại, dữ dội, khắc nghiệt mà thơ mộng, một bức tranh sinh hoạt kháng chiến vừa đằm thắm ân tình, vừa xao xuyến, lãng mạn. - Thêm từ nhớ khiến cho nhan đề bài thơ trở nên ủy mị, không phù hợp với khúc quân hành của người lính Tây Tiến. Hai chữ Tây Tiến tạo ra âm điệu chắc khỏe, rắn rỏi. Tên bài thơ vì thế tựa như một khúc quân hành như Nam Tiến, Tiến Quân ca... => Ý nghĩa: Đặt tên thi phẩm như vậy thật hàm ẩn, đồng thời cũng gợi mở mang nhiều ý nghĩa chứng tỏ Quang Dũng là nhà thơ tài hoa, sáng tạo. Nhan đề Tây Tiến chưa đựng được chủ đề và chiều sâu tư tưởng của toàn bộ thi phẩm. * Chữ Tây Tiến trong bài thơ gắn với sự kiện (Liên hệ với hoàn cảnh sáng tác của bài thơ) Hai chữ Tây Tiến trong nhan đề bài thơ gợi nhắc cho người đọc về trang sử đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi ấy một đơn vị quân đội, tiền thân của trung đoàn 52 sau này, được thành lập, lấy tên là Tây Tiến. Cái tên hàm chứa nhiệm vụ và địa bàn hành quân chiến lược. Con đường Tây Tiến trải dài từ các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, qua Sầm Nưa trên đất Lào rồi vòng về miền Tây Thanh Hóa. Một cung đường như vậy còn hiện lên chân thực trong bài thơ với vô vàn các địa danh của miền Tây và đất bạn: sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Viên Chăn, Châu Mộc, Sầm Nứa... Đoàn quân Tây Tiến có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội bạn để bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao sinh lực địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, nhiều người là học sinh, sinh viên trong đó Quang Dũng có mặt ngay từ những ngày đầu đoàn quân Tây Tiến mới thành lập. Buổi đầu kháng chiến vô cùng khó khăn gian khổ, lính Tây Tiến không chỉ phải đối mặt với kẻ thù mà còn trải qua vô vàn thử thách chốn rừng sâu nước độc. Trong hoàn cảnh thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội song chiến sĩ Tây Tiến vẫn lạc quan chiến đấu dũng cảm: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Cho nên nhắc tới hai chữ Tây Tiến là nhớ tới đồng đội, từng gương mặt, từng niềm vui, nỗi vất vả gian khó, những mất mát hi sinh, những bàn chân đã trải, bao đỉnh núi đã qua trên mỗi cung đường. Nhắc đến Tây Tiến cũng là nhớ tới một thời máu lửa của dân tộc, một thời bừng cháy khát vọng dâng hiến Khi Tổ quốc cần của cả một thế hệ. Hai chữ Tây Tiến đã trở thành điểm nhấn cảm xúc trong mỗi phần thơ của bài thơ (Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!; Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói; Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc; Tây Tiến người đi không hẹn ước; Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy). Câu 4: Bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng) có một mạch liên kết khá chặt chẽ, logic. Anh/chị chỉ ra mạch liên kết đó. - Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng được chia làm bốn đoạn: + Đoạn 1 (14 câu thơ đầu): Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ và dữ dội. + Đoạn 2 (8 câu thơ tiếp theo): Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. + Đoạn 3 (8 câu thơ tiếp theo): Chân dung người lính Tây Tiến. + Đoạn 4 (4 câu thơ cuối): Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. - Mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ. Bài thơ được viết trong một nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 5 kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, đầy thơ mộng. Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng về Tây Tiến; những kí ức, những kỉ niệm được tái hiện lại một cách tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tinh tế và tài hoa của Quang Dũng đã làm cho những kí ức ấy trở nên sống động và người đọc có cảm tưởng đang sống cùng với nhà thơ trong những hồi tưởng ấy. PHẦN II. VẬN DỤNG Câu 1: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi... ...Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. (Cách hỏi khác: Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền Tây Bắc Bộ và đoàn quân Tây Tiến trong đọan thơ sau: ...) A. Mở bài - Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: + Quang Dũng là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam thời chống Pháp (1946- 1954). Thơ Quang Dũng hấp dẫn người đọc bởi là sự hội tụ của hai nguồn thi cảm: tình yêu đất nước, quê hương và khát vọng lên đường. Tiếng nói trữ tình ấy lại được biểu hiện bằng hệ thống nghệ thuật hài hòa hai yếu tố cổ điển và hiện đại, giàu chất họa, chất nhạc, chan chứa nguồn chân cảm. + Tây Tiến là một trong những thi phẩm tiêu biểu nhất của đời thơ người con Xứ Đoài mây trắng lắm. Bài thơ ra đời từ những cảm nghĩ, kỉ niệm xúc động của Quang Dũng về vùng đất miền Tây và đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian xa cách. Tác phẩm là bức họa bằng ngôn từ về bức tranh thiên nhiên, cuộc sống miền Tây hùng vĩ, dữ dội mà mĩ lệ nên thơ. Đó là nền để nhà thơ khắc họa tượng đài nghệ thuật bi tráng về đoàn quân Tây Tiến trong sự hài hòa về vẻ đẹp vừa thật hào hùng, vừa rất đỗi hào hoa. Bài thơ có một sức sống vượt thời gian và thử thách khắc nghiệt của một thời bằng những giá trị tỏa sáng tự thân của nó. Tác phẩm xứng đáng được đặt vào vị trí là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp, nói như giáo sư Phong Lê: Tây Tiến vẹn nguyên trở về với người đã sinh ra nó để nhận lại vị trí của đứa con đầu lòng hào hoa và tráng kiện, không phải chỉ của ông (Quang Dũng) mà còn là của cả nền thơ ca kháng chiến, ở vị trí mở đầu. - Nêu vấn đề cần nghị luận: + Vị trí: Là đoạn thơ mở đầu của thi phẩm. + Nội dung: Đoạn thơ tập trung thể hiện nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ, vừa mĩ lệ; hình ảnh người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian khổ mang vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng . + Trích đoạn thơ. B. Thân bài * Dẫn dắt Bài thơ được cấu trúc theo diễn biến tự nhiên của nỗi nhớ. Nhớ về Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng nhớ về thiên nhiên miền Tây Bắc với những vùng đất mình đã đi qua trên những con đường hành quân gian khổ, nhớ về sông nước miền Tây và những kỉ niệm đẹp đẽ của đời chiến binh, rồi từ đó mới nhớ về người lính Tây Tiến - những Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 6 đồng chí, đồng đội của một thời. Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ, vừa mĩ lệ; hình ảnh người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian khổ mang vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng . * Phân tích I. Hai câu thơ đầu: Nỗi nhớ được diễn tả khái quát, nỗi nhớ thấm đẫm thời gian và không gian - Nỗi nhớ bật lên thành tiếng gọi: Có thể nói cả bài thơ là nỗi nhớ trải dài, nỗi nhớ có khi lặn xuống tầng sâu trong tâm hồn nhưng cũng có khi bật lên thành tiếng gọi tha thiết: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi - Đối tượng của nỗi nhớ: Sông Mã, Tây Tiến, rừng núi. + Sông Mã: là con sông từ thượng Lào chảy vào đất Việt. Dòng sông ấy đã gắn bó với đoàn quân Tây Tiến, chứng kiến những vui, buồn trong cuộc đời người lính chiến binh. Vì thế, Quang Dũng nhớ về đoàn quân Tây Tiến nhà thơ còn nhớ về dòng sông Mã thân thuộc, hơn thế nữa có thể đây còn là dòng sông tâm trạng, dòng sông chở nặng cảm xúc, nỗi niềm đầy vơi trong lòng thi nhân. + Rừng núi: là hình ảnh khái quát về địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến. Đó là nơi rừng núi hoang vu, rậm rạp, địa hình hiểm trở,... + Tây Tiến: là một đơn vị thành lập đầu năm 1947, Quang Dũng có mặt tại đơn vị ngay từ những ngày đầu mới thành lập nên nhà thơ có sự gắn bó sâu sắc với đồng đội của mình. - Nỗi nhớ của tác giả được thể hiện sâu sắc: + Câu thơ như một tiếng thở dài: Sông Mã xa rồi, lại cũng như một tiếng gọi: Tây Tiến ơi!. Nỗi nhớ có cái gì đó khắc khoải, thể hiện sự tiếc nuối, trạng thái hụt hẫng cùng với khát vọng trở về quá khứ thân thương mà hào hùng thuở nào, đó là sông Mã, là Tây Tiến. Ba từ Tây Tiến ơi nghe sao mà thân thương đến thế, gợi cho người đọc có một cảm giác Tây Tiến không hề ở xa so với nhà thơ mà đoàn binh Tây Tiến ở ngay trong trái tim nhà thơ. Tác giả như đang được đối thoại với Tây Tiến vậy. + Điệp từ nhớ: diễn tả nỗi nhớ cháy bỏng, không nguôi cứ tuôn chảy dào dạt trong lòng thi nhân, nhớ đến thổn thức, bồi hồi. Hai từ nhớ được đặt trong cùng một câu thơ nhưng lại tách ra làm hai vế khiến cho nỗi nhớ như được tô đậm thêm cảm xúc. Nỗi nhớ dào dạt như những lớp sóng dâng trào mãnh liệt trong lòng thi nhân: Nhớ về rừng núi/ nhớ chơi vơi. + Nỗi nhớ của nhà thơ thật điển hình, đặc sắc: nhớ chơi vơi. Hai từ chơi vơi là hai từ giàu sức gợi, từng được dùng để diễn tả tâm trạng của con người. Văn học viết về nỗi nhớ rất phong phú: Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi Như đứng đống lửa, như ngồi đống than. Hay nhớ đến ra ngẩn vào ngơ, mất hết cả lí trí nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai? Nhà thơ Tố Hữu diễn tả nỗi nhớ cũng rất cụ thể, dễ hiểu nhớ gì như nhớ người yêu (Việt Bắc) nhưng nỗi nhớ của Quang Dũng thì thật khó định hình, định lượng, khó diễn tả, có lẽ chỉ dành cho sự cảm nhận mà thôi. Thế mới thật tài hoa, nỗi nhớ ấy như gợi ra được cả sự xa xôi về thời gian, không gian, nỗi nhớ như có cả tầm cao, bồng bềnh lan Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 7 tỏa, không sao đong đếm được. Người đọc khó có thể nhận biết được bởi đây là cảm xúc giữa hai bờ hư và thực, quá khứ và hiện tại, mở ra một không gian vời vợi, đồng thời diễn tả tinh tế một trạng thái mơ hồ mà rất ấn tượng, ám ảnh hồn người. Nỗi nhớ còn thể hiện sự tiếc nuối bởi ca dao xưa đã bày tỏ rất rõ tâm trạng này của đôi lứa yêu nhau khi phải ra về: Ra về nhớ bạn chơi vơi. Người ra về rồi mà tâm hồn thấy mênh mang, xôn xao, lâng lâng, bay bổng khó tả làm sao? + Nỗi nhớ da diết, cháy bỏng, vang vọng: Quang Dũng sử dụng hai chữ chơi vơi kết hợp với sự láy lại ba lần của âm ơi (ơi, chơi vơi), đây là ba âm mở có kết cấu thanh bằng mang âm hưởng vang vọng lan tỏa khiến cho nỗi nhớ như được ngân lên, nhớ đến thiết tha, thường trực trong tâm hồn nhà thơ, cả không gian dường như cũng ngập tràn trong nỗi nhớ của tác giả. II. Sáu câu thơ tiếp: Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, thơ mộng trên chặng đường hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến * Dẫn dắt: Nỗi nhớ dắt nẻo nhà thơ trở về với những kỉ niệm khó quên gắn với thiên nhiên miền Tây, làm hiện lên một không gian, cảnh vật miền Tây dữ dội, hiểm trở mà hùng vĩ song cũng thật nên thơ, thi vị. * Nỗi nhớ gắn với những địa danh khó quên: Trong nỗi nhớ của Quang Dũng có nhiều địa danh xuất hiện như: Sài Khao, Mường Lát, những địa danh này vừa mang ý nghĩa cụ thể, vừa mang ý nghĩa tượng trưng khái quát. - Đây là những địa danh, tên những vùng đất mà người lính Tây Tiến đi qua, từng gắn bó. Dường như chỉ cần nhắc lại những địa danh ấy thôi là biết bao kỉ niệm của quá khứ lại ào ạt chảy về trong tâm trí nhà thơ. - Mặt khác, những địa danh này còn mang ý nghĩa khái quát, nó tượng trưng cho một không gian rất riêng của Tây Bắc xa xôi, lạ lẫm, hoang dã, bí ẩn. => Những địa danh được nhà thơ nhắc đến không phải là những địa danh vô nghĩa trên bản đồ mà đoàn quân Tây Tiến một thời đã đi qua mà nó đã tái hiện lại một thời kì lịch sử hào hùng của dân tộc với biết bao khó khăn, gian khổ: Những tên làng, tên núi, tên sông Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc. * Bức tranh thiên nhiên vừa hiện thực, vừa lãng mạn: - Hiện thực: núi rừng Tây Bắc hiện ra trong mờ ảo khói sương, sương dày như muốn che lấp cả đoàn quân mỏi. Hai chữ sương lấp cùng chữ mỏi đưa người đọc trở về với cuộc sống hiện thực khốc liệt của người lính. Sương núi lạnh giá cắt da, cắt thịt như muốn nhấn chìm đoàn quân. Đây là kết quả sau một hành trình dài gian khổ, khiến người đọc nhớ đến trạng thái rã rời, mệt mỏi của người tù Hồ Chí Minh trên đường chuyển lao trong bài thơ Chiều tối. Nhà thơ Vũ Quần Phương đã bình về chi tiết này rất hay: Đoàn quân không gợi một chút nào cái hùng sân khấu mà đoàn quân mệt mỏi vì đường xa, bụi bặm, đói khát. - Lãng mạn: tác giả viết hoa về chứ không phải là hoa nở, đêm hơi chứ không phải là đêm sương khiến cho câu thơ thêm phần lãng mạn. Sương núi bồng bềnh trong đêm tạo nên sự huyền ảo, mơ hồ. Đặc biệt hơn nữa là hình ảnh hoa về đã đem đến cho người đọc nhiều suy ngẫm, có thể hiểu trong sự cảm nhận lãng mạn của người lính Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 8 thì sương khói ở Mường Lát lúc tụ vào, lúc tan ra trông như những bông hoa khói vậy. Cũng có thể, những người lính Tây Tiến trên đường hành quân trở về Mường Lát họ mang theo những đóa hoa rừng ngát hương thơm, hoa đang cùng bung nở trên chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến, là người bạn đồng hành của người lính. Đây là những bông hoa thực, hoa hiện ra mờ ảo trong sương khói bồng bềnh. Trong những vẻ đẹp của tự nhiên, tạo hóa, có lẽ đẹp nhất vẫn là hình ảnh con người, vì thế, hình ảnh hoa về còn đem đến cho người đọc một liên tưởng kì thú nữa, con người là sản phẩm tuyệt vời nhất của tạo hóa, phải chăng vì thế mà mỗi người lính Tây Tiến được ví như một bông hoa tuyệt đẹp của núi rừng đang trở về hội tụ tại Mường Lát đêm nay? Một trong những ý nghĩa mà ta không thể phủ nhận được là do hành quân trong đêm, đường lại nhiều đèo, lắm dốc, khúc khủyu, gập ghềnh đầy hiểm nguy nên những người lính Tây Tiến đã phải đốt đuốc trong đêm. Những ngọn đuốc soi sáng bước đường hành quân gian khổ ấy, đẹp lung linh như bông hoa giữa khói sương mờ ảo? Dù hiểu theo cách nào, người đọc vẫn cảm nhận được những khó khăn, gian khổ mà người lính Tây Tiến đã phải trải qua để ta hiểu về hiện thực khốc liệt của chiến tranh để thêm cảm phục, thêm yêu vẻ đẹp tâm hồn của những người lính trẻ mộng mơ. Câu thơ đẹp như một bức danh họa xuất phát từ cách nhìn, cách cảm của một tâm hồn hào hoa lãng mạn. Những hình ảnh ấy khiến cho đoạn thơ bớt đi sự dữ dằn của hiện thực, người đọc có cảm giác như được xoa dịu, vơi đi những nhọc nhằn, vất vả mà người lính Tây Tiến phải chịu đựng. => Trong hai câu thơ trên, tác giả vừa sử dụng hình ảnh gân guốc, vừa sử dụng hình ảnh thơ mộng, đẹp đẽ kết hợp với nghệ thuật tiểu đối đã làm nổi bật hai vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc vừa dữ dội, vừa nên thơ, đồng thời cũng làm nổi bật hai khía cạnh trong cuộc đời chiến đấu của người lính Tây Tiến vừa gian khổ, vừa lãng mạn, yêu đời. * Chặng đường hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến: Dốc lên khúc khuỷu, ... ... mưa xa khơi. - Tác giả sử dụng từ láy có giá trị tạo hình cao: Trong hai câu thơ đầu, Quang Dũng sử dụng những từ láy (khúc kkuỷu, thăm thẳm, heo hút) đạt giá trị biểu cảm cao, chúng lại được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan trùng điệp. + Dốc khúc khuỷu vì đường đi là núi đèo hiểm trở, gập ghềnh, vừa lên cao đã vội đổ dốc, cứ thế gấp khúc nối tiếp nhau -> độ cao ngất trời. + Dốc thăm thẳm: không chỉ đo chiều cao mà còn là ấn tượng về độ sâu, cảm giác như hút tầm mắt người, không biết đầu là giới hạn cuối cùng -> Độ sâu hun hút. + Điệp từ dốc được nhắc đến liên tiếp hai lần trong một câu thơ, tách ra ở hai vế gợi ra một địa hình hiểm trở chỉ có dốc là dốc cao và sâu. Người đọc có cảm giác người lính vừa vượt qua con dốc này lại thấy hiện ra những con dốc khác ngay trước mặt mình. + Heo hút cồn mây: heo hút gợi ra sự vắng vẻ, hiu quạnh, nghệ thuật đảo ngữ càng nhấn mạnh điều đó. Cồn mây là mây tụ lại, xếp tầng, hình ảnh thơ gợi ra vị trí của người lính Tây Tiến đứng trong mây, trên đỉnh núi cao vời vợi. Như vậy, dẫu câu thơ Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 9 không nhắc đến sự khó khăn nhưng người đọc vẫn hình dung ra chặng đường hành quân leo dốc, vượt đèo mà người lính phải trải qua. => Quang Dũng đã mở ra không gian ba chiều khiến hình ảnh thơ được chạm nổi thành một bức phù điêu hùng vĩ về núi rừng Tây Bắc khiến người đọc liên tưởng đến chặng đường hành quân của người chinh phu trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm: Hình khe thế núi xa gần Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao. - Nghệ thuật nhân hóa: Súng ngửi trời. + Trước hết, đây là một hình ảnh xuất phát từ cảm xúc trước hiện thực, những người lính Tây Tiến hành quân trong mây mà tưởng như nòng súng chạm tới đỉnh trời. + Đây là một hình ảnh đẹp, lạ và táo bạo làm rõ vẻ đẹp hào hùng, hào hoa của người lính Tây Tiến. . Hào hoa, lãng mạn: Tác giả không nói súng chạm trời mà là súng ngửi trời. Hình ảnh thơ mang nhiều ý nghĩa biểu tượng giúp người đọc phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn hào hoa, lãng mạn của người lính Tây Tiến. Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa khiến cho những vật vô tri, vô giác cũng trở nên có linh hồn sống động hơn. Người lính đang tếu táo, đùa vui trêu ghẹo cả tạo hóa. Câu thơ khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh thơ mộng trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu: Đầu súng trăng treo, tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, lạc quan của người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. . Hào hùng: Quang Dũng không nói đến người lính mà ta vẫn thấy người lính, không nói núi cao mà ta vẫn thấy núi rất cao. Chữ ngửi vẽ ra hình ảnh người lính đang ở tư thế chót vót trên đỉnh núi, đi giữa ngàn mây, nòng súng đang chạm vào vòm trời. Điều đó cho thấy sự hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và vẻ đẹp của người lính Tây Tiến. Vẻ đẹp của con người trong tư thế sánh ngang trời đất, làm chủ hoàn cảnh. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến được tỏa sáng giữa đất trời Tây Bắc mang vẻ đẹp sử thi của văn học giai đoạn 1945 - 1975. Đó là vẻ đẹp tiêu biểu của người lính trong văn học chống Pháp: Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá ngụy trang reo với gió đèo. (Lên Tây Bắc - Tố Hữu) - Nghệ thuật đối lập: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống. Thiên nhiên Tây Bắc dường như luôn luôn có ý định thử thách lòng người. Tác giả sử dụng nghệ thuật đối lập cùng cách ngắt nhịp 4/3, kết hợp với điệp từ ngàn thước với hai động từ chỉ hướng lên, xuống khiến cho câu thơ như bị bẻ gãy làm đôi để miêu tả hai chiều không gian Tây Bắc vừa có độ cao chót vót, vừa có độ sâu thăm thẳm. Dốc đột ngột vút lên thẳng đứng rồi lại đột ngột gãy gập đổ xuống một cách bất ngờ, nguy hiểm. Đọc những câu thơ này của Quang Dũng ta liên tưởng đến hai câu thơ của Lí Bạch tả cảnh thác Hương Lô: Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 10 Người tả thác, người tả dốc, tất cả đều tuyệt vời khi nói về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Trần Lê Văn đã bình về câu thơ này thật xác đáng: Đọc câu thơ và nghe đã muốn mòn chân mỏi gối. - Tác giả sử dụng tài hoa thanh trắc kết hợp với thanh bằng: + Thanh trắc được sử dụng với mật độ dày đặc (liên tiếp ở ba câu thơ: Dốc lên khúc khuỷu...ngàn thước xuống) đã vẽ nên những đường nét gân guốc, rắn rỏi về địa hình vùng cao Tây Bắc hiểm trở, đó cũng là chặng đường hành quân vô cùng gian nan mà người lính Tây Tiến phải trải qua. + Thanh bằng được sử dụng nguyên văn trong một câu thơ: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi đã tạo cho câu thơ những nét vẽ dịu mát. Không gian được cảm nhận qua điểm nhìn của người lính Tây Tiến khi người lính hành quân lên đến đỉnh núi phóng tầm mắt ra xa, dưới kia là những ngôi nhà bồng bềnh trong biển mưa. Người đọc không còn thấy dấu vết của sự mệt mỏi bởi phải vượt rừng, leo núi nữa, bây giờ là tâm trạng bâng khuâng, thư thái của con người khi vượt lên đến đỉnh dốc, vượt qua biết bao gian lao, vất vả, thử thách để có được cảm giác Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non (Thượng sơn - Hồ Chí Minh). => Nhận xét: Bốn câu thơ có sự kết hợp hài hòa giữa các thanh điệu, quả đúng Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, ông có tài không chỉ về thơ ca mà còn cả âm nhạc và hội họa nữa. Những câu thơ này thật xứng đáng là lời thơ Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc. Phải chăng vì thế mà Xuân Diệu cho rằng: Đọc thơ của Quang Dũng như ngậm nhạc ở trong miệng. Trong những câu thơ này, Quang Dũng còn sử dụng nghệ thuật của thơ Đường vẽ mây nảy trăng khi nhà thơ tả cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội để làm nổi bật lên hình ảnh người lính Tây Tiến trên bước đường hành quân và chiến đấu đầy gian khổ, vất vả, hi sinh nhưng vẫn lạc quan hồn nhiên yêu đời, lãng mạn. III.Sáu câu thơ cuối: Nỗi nhớ về người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian khổ mang vẻ đẹp bi tráng (vẻ đẹp hào hùng, lãng mạn) - Hiện thực trên bước đường hành quân của người lính Tây Tiến: Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục trên súng mũ bỏ quên đời! + Hai chữ anh bạn chứa đựng những tình cảm gắn bó giữa những người bạn thân thiết, giữa những đồng chí, đây là cách nói thân thuộc, gần gũi. + Hiện thực bi tráng được diễn tả qua những từ ngữ: Dãi dầu, gục. Đó là những vất vả, gian lao mà người lính Tây Tiến phải trải qua trên chặng đường hành quân gian khổ và quá trình chiến đấu với quân thù. Đặc biệt là chữ gục có nhiều cách hiểu: Có thể đó là sự mệt mỏi khiến người lính ngủ gục trên súng mũ như muốn quên đi tất cả, có thể đây là cách nói giảm, nói tránh diễn tả sự hi sinh của người lính vì Tổ quốc. - Vẻ đẹp bi tráng của người lính: Quang Dũng vẫn tiếp tục sử dụng cách nói giảm, nói tránh khi viết về vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến qua các cụm từ: không bước nữa, bỏ quên đời. Chiến đấu và hi sinh đó là hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Nhà thơ Quang Dũng đã không ngần ngại nói đến cái chết mặc dù câu thơ không có từ nào nói đến cái chết. Hiệu quả của nghệ thuật nói giảm nói tránh vừa gợi được tình thương, vừa gợi đựơc sự bình thản chứ không bi lụy. Người lính Tây Tiến hầu hết là những học sinh, sinh viên Hà Nội chưa quen chuyện súng gươm, chưa quen gian khổ Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 11 và không ít người đã ngã xuống sau những dãi dầu sương gió và bom đạn của kẻ thù. Điều đó cũng hoàn toàn hợp lí bởi có cuộc chiến tranh nào không có hi sinh, mất mát, có vinh quang nào mà không phải đổ mồ hôi, nước mắt và cả xương máu. Dường như họ sang thế giới bên kia chỉ là một cuộc dừng chân tạm thời, là một cuộc nghỉ giải lao giữa đường mà thôi như Phan Bội Châu đã viết trong bài Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông: Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.Tác giả không viết là ngủ quên đời mà là bỏ quên đời thì mới thật ngang tàng, bất cần. Câu thơ sáng ngời phẩm chất người chiến sĩ cách mạng: Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc (Nguyễn Đình Chiểu). Cuộc đời con người thật đáng quý biết bao mà họ nói bỏ quên như bỏ quên một thứ vật chất bình thường mà không hề băn khoăn, hối tiếc.Với cách nói này câu thơ có bi mà không có lụy, ngược lạ lại hết sức hùng tráng gợi ra chất phong trần, ngang tàng của người lính mang vẻ đẹp của những tráng sĩ thủa xưa. Người tráng sĩ thủa xưa mang lí tưởng anh hùng, quyết ra đi lập nên sự nghiệp lớn. Chí lớn chưa thành thì không bao giờ nói trở lại. Họ sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc, quê hương, coi cái chết thật nhẹ nhàng. - Thiên nhiên Tây Bắc bí hiểm, hoang dại luôn rình rập người lính: Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người + Thiên nhiên hoang dã, dữ dội được miêu tả trong tiếng gầm thét của thác, bóng dáng của cọp trêu người. + Địa danh Mường Hịch: Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng địa danh Mường Hịch đọc có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm khuya. Hai chữ Hịch, cọp với hai dấu nặng trĩu xuống nghe rờn rợn. Câu thơ nói đủ sự khốc liệt của chiến trường người lính. Hai dấu chấm nặng như xoáy vào lòng đất gợi cảm giác ghê sợ, hãi hùng. + Sử dụng từ láy và điệp từ: Chiều chiều, đêm đêm gợi cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về thời gian diễn ra triền miên nơi rừng thiêng thác sâu, cọp dữ, nơi ấy luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với người lính Tây Tiến. Sự nguy hiểm ấy thường diễn ra vào lúc chiều tối, đêm sâu và thường xuyên, liên tục không phải là một chiều, một đêm mà chiều nào cũng thế, đêm nào cũng thế. Như vậy, người lính Tây Tiến không chỉ bị ngã xuống trước họng súng của kẻ thù mà còn có thể bị ngã xuống bởi rừng thiêng, thác hiểm. => Với thơ ca, rừng núi không phải là vô hồn, vô tri, vô giác. Dân gian có câu thành ngữ: rừng thiêng nước độc. Thế Lữ đã từng nói về oai linh rừng thẳm trong bài Nhớ rừng nhưng cái mới của Quang Dũng là, bằng cái tài thẩm âm tinh tế ông đã ghi lại những chủ âm đặc thù của rừng già Tây Bắc là tiếng thác, tiếng hổ báo gầm gào khiến người đọc cảm nhận được cái oai linh rờn rợn của núi rừng lúc chiều buông, khi đêm về. - Tình quân dân thắm thiết: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi + Một lần nữa nỗi nhớ lại bật lên thành lời, tác giả đã thốt lên Nhớ ôi. Hai từ này mang giọng điệu cảm thán bộc lộ nỗi nhớ nhung trào dâng mãnh liệt. Câu thơ có ba thanh trắc ngắt quãng đều đặn tạo nên âm điệu câu thơ vút lên đẩy nỗi nhớ nhung lên cung bậc cao nhất. Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 12 + Tác giả nhớ về: Mai Châu, bữa xôi sốt dẻo ấm áp tình quân dân. Câu thơ có hai cách hiểu. . Cách thứ nhất là cách định danh thời gian của tác giả: Có thể hiểu người lính Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín đón nhận bát xôi hương nếp đầu mùa. Anh gặp em đúng mùa thu hoạch. Bát cơm nếp đong đầy tình quân dân, đặc biệt có bàn tay thơm thảo của em làm nên hương vị nồng ấm ấy làm vấn vương lòng người chiến sĩ Tây Tiến. Hương nếp thơm hay đó chính là sự thơm thảo của lòng người, của tình em nồng ấm? Điều này trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên đã từng viết: Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương. . Cách hiểu thứ hai đầy lãng mạn: Hai chữ mùa em là một sáng tạo ngôn ngữ tài hoa của tác giả gợi đầy tình thương và nỗi nhớ, trìu mến và thân thương. Chữ mùa gợi sự đầy đủ, ăm ắp sự sống, mang hương vị của đồng nội, còn chữ em gợi vẻ đẹp xuân sắc của người thiếu nữ. Hai từ mùa em đã gợi tả tinh tế cảm giác xao xuyến, say mê của các chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn trước sản vật và con người Tây Bắc. => Có lẽ khi viết những câu thơ này, Quang Dũng còn giữ nguyên ấn tượng hồi hộp, xúc động khi được đón nhận tình cảm quân dân nồng ấm. Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ ấy, tình quân dân đã làm vơi đi những khó khăn mà người lính phải trải qua. Đây sẽ mãi mãi là những kỉ niệm đẹp đẽ làm ấm lòng người lính trên chặng đường hành quân gian lao, đầy thử thách. IV. Đánh giá chung - Đoạn thơ chỉ là khúc nhạc dạo đầu của nỗi nhớ chảy dọc mạch thơ Tây Tiến song cũng đã ghi lại những vẻ đẹp riêng của thiên nhiên, cuộc sống, nhất là vẻ đẹp của người lính Tây Tiến. - Nỗi nhớ mà Quang Dũng gửi trong đoạn thơ, bài thơ cũng là nỗi nhớ chung của những ai từng đi qua vùng đất miền Tây, từng trải qua những năm tháng chiến đấu đầy gian lao của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên, con người nơi ấy là biểu hiện của tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đó chính là tình cảm yêu nước cao đẹp trong thơ ca cách mạng Việt Nam. C. Kết bài - Nghệ thuật: Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Quang Dũng lãng mạn, tài hoa ở cách xây dựng hình ảnh, bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn, nghệ thuật tương phản, nhân hóa, cách sử dụng từ ngữ, thể thơ thất ngôn trường thiên... - Nội dung: Đoạn thơ đã khắc họa một cách sống động về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ, vừa mĩ lệ; hình ảnh người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian khổ mang vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng. => Đoạn thơ xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất viết về hình ảnh người lính trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Câu 2: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa... ...Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. A.Mở bài - Giới thiệu về tác giả, tác phẩm. Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 13 - Nêu vấn đề cần nghị luận: + Vị trí: Là đoạn thơ mở đầu của thi phẩm. + Nội dung: Đoạn thơ tập trung thể hiện hình ảnh người lính Tây Tiến trong đêm liên hoan văn nghệ thấm đẫm tình quân dân, bức tranh thiên nhiên miền Tây hoang sơ, mĩ lệ, con người miền Tây Bắc với những nét đẹp văn hóa mang màu sắc xứ lạ. + Trích đoạn thơ. B.Thân bài I. Bốn câu thơ đầu: Cảnh đêm liên hoan lửa trại (Nỗi nhớ về tình quân dân với cảnh đêm liên hoan văn nghệ mang màu sắc xứ lạ) * Khái quát chung về tình quân dân trong thơ ca Viết về tình quân dân là một đề tài quen thuộc trong thơ ca nhưng trong thơ Quang Dũng, tình quân dân ấy thật mới lạ bởi nếu các nhà thơ khác nghiêng về chất hiện thực, diễn tả tình quân dân một cách giản dị thì Quang Dũng lại đậm màu sắc lãng mạn. - Tình quân dân trong thơ ca Việt Nam được viết thật mộc mạc, gần gũi: Chúng tôi đi Nắng mưa sờn mép ba lô Tháng năm bạn cùng thôn xóm ... Chúng tôi đi mang đời lưu động Nghỉ lại rất nhiều nơi không nhớ hết tên làng. (Nhớ - Hồng Nguyên) Hay: Từ lưng đèo Dốc núi mù che Các anh về Xôn xao làng tôi bé nhỏ Nhà lá đơn sơ Tấm lòng rộng mở Nồi cơm nấu dở, bát nước chè xanh Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau (Bao giờ trở lại – Hoàng Trung Thông) Hoặc: Anh về cối lại vang rừng Chim kêu trên mái, gà mừng dưới sân (Tố Hữu) - Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng đã đến với chủ đề tình quân dân ngỡ như rất quen thuộc có tính chất lối mòn nhưng thực ra Quang Dũng đã có những đóng góp mới mẻ, độc đáo. Tác giả đã lãng mạn hóa những tình cảm vô cùng cao đẹp ấy của người lính. * Phân tích Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 14 - Có thể nói đây là những phút giây vô cùng hiếm hoi và quý giá của người lính Tây Tiến sau những chặng đường hành quân gian khổ, người lính Tây Tiến được nghỉ ngơi, được sống trong tình quân dân nồng thắm: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa... ...Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ - Đoàn quân Tây Tiến đã phải trải qua biết bao gian lao, vất vả nhưng dường như trong cuộc sống của họ không thể thiếu những kỉ niệm ngọt ngào. Họ là những chàng trai Hà Thành, là những học sinh, sinh viên vì thế tâm hồn họ rất lãng mạn. Họ đã tạo ra những điều kì diệu cho cuộc sống của mình. Những đêm liên hoan văn nghệ, dưới ánh lửa trại tâm hồn họ như được thăng hoa. - Từ Hán Việt Doanh trại gợi không khí cổ kính, trang trọng. - Hình ảnh hội đuốc hoa: Cách sử dụng từ ngữ của tác giả thật đặc sắc: + Cụm từ hội đuốc hoa: Không phải là ánh lửa trại bình thường mà hội đuốc hoa. Đuốc hoa hay còn gọi là hoa chúc là từ Hán - Việt để chỉ ngọn nến thắp lên trong phòng đêm tân hôn. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, tác giả cũng có câu thơ viết về hình ảnh này: Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai sau. Nét độc đáo trong thơ Quang Dũng đó là tác giả dùng hình ảnh tượng trưng cho hạnh phúc lứa đôi để nói lên tình quân dân. Có lẽ đây là cách nói sâu sắc nhất bởi vì còn sự đằm thắm nào hơn sự đằm thắm, ấm nồng của tình yêu lứa đôi? Vẻ đẹp ấy là vẻ đẹp hiếm có trong thơ ca cách mạng thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, có chăng nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về (Việt Bắc - Tố Hữu) Hơn nữa, tác giả còn dùng từ hội gợi ra sự tưng bừng, náo nhiệt. Trong tâm thức của người Việt, hội hè không thể thiếu trai thanh gái lịch vì thế khổ thơ mang không khí rạo rực, bay bổng. Đêm liên hoan văn nghệ thực sự đã trở thành một ngày hội lớn của người lính Tây Tiến với con người vùng Tây Bắc. Đêm liên hoan bỗng trở thành đêm hội với muôn vàn tia sáng như trong đêm chiến thắng vậy. + Cảnh đêm liên hoan văn nghệ rực rỡ, tưng bừng được diễn tả rất rõ qua từ bừng: Với một từ bừng, Quang Dũng đã để lại trong tâm hồn người đọc biết bao liên tưởng và dung ngẫm sâu xa. Phải chăng đây là sự bừng sáng của ánh đuốc, là sự tưng bừng của của âm nhạc và còn có thể hiểu là tiếng hát rộn rã vang dội khắp không gian rừng núi Tây Bắc. Phải chăng đó còn là sự bừng sáng của những kỉ niệm không bao giờ phai mờ trong tâm trí người lính Tây Tiến trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Dù tác giả đã xa đơn vị nhưng những kỉ niệm ấy vẫn như một vùng sáng lấp lánh trong kí ức của nhà thơ. Dường như mọi gian khó với người lính Tây Tiến không còn có nghĩa lí gì nữa, trong tâm hồn họ chỉ còn lại sự yêu đời và lạc quan tin tưởng mà thôi. => Những liên tưởng này cho thấy nét đặc sắc trong phong cách thơ Quang Dũng tài hoa, hơn nữa những người lính Tây Tiến tâm hồn lãng mạn, đồng thời những câu thơ này là dòng hồi tưởng của tác giả nên dường như nó được viền bởi một ánh hào quang lung linh, kì diệu. Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 15 - Vẻ đẹp của những cô gái Tây Bắc cùng với những nét đẹp văn hóa mang màu sắc xứ lạ ở nơi đây khiến cho tâm hồn người lính Tây Tiến thêm dạt dào cảm xúc: + Hai từ kìa em: những câu thơ của Quang Dũng đã được viết từ lâu nhưng bây giờ đọc lên như vẫn còn tười nguyên cảm xúc được thẻ hiện qua cái nhìn tình tứ của người lính. Kìa em là đại từ dùng để chỉ đối tượng từ xa nhưng trong câu thơ này nó còn hàm ý chỉ thái độ ngạc nhiên, là niềm vui thích rất đỗi tình tứ của người lính trẻ khi nhìn thấy cô gái vùng cao trong xiêm áo lộng lẫy uyển chuyển theo điệu nhạc, điệu múa tự bao giờ. Từ em như một nốt nhấn của câu thơ, ngữ điệu trùng xuống gợi cho người đọc thấy được cảm xúc của người lính Tây Tiến dành cho những cô gái. Đó là cách gọi trìu mến, tình tứ đong đầy yêu thương. Nhân vật em hiểu theo cách thứ nhất là những cô gái Thái, cô gái Lào duyên dáng, xinh đẹp trong điệu múa độc đáo, mới lạ đối với những người lính vùng xuôi. Theo nhà thơ Vũ Quần Phương thì nhân vật em còn có thể hiểu theo cách thứ hai: ở đây các nam bộ đội đóng vai nữ rất đẹp gái nên câu thơ có sắc thái ngỡ ngàng, câu thơ như một lời thốt lên vì bất ngờ: Kìa em xiêm áo tự bao giờ. + Nét đặc sắc của một nền văn hóa mới: Quang Dũng đã có một khoảng thời gian gắn bó với cuộc sống của con người Tây Bắc nên mới có những ấn tượng sâu sắc về nét văn hóa ở nơi đây. Man điệu là điệu nhạc, điệu múa của người dân tộc thiểu số. Tiếng khèn là đặc trưng của âm nhạc vùng cao khi cất lên đã tôn vinh vẻ đẹp, lôi cuốn người xem vừa mang những nét duyên thầm kín đáo e ấp. Có thể hiểu đây là điệu Lăm vông, Lăm tơi của những cô gái Thái, cô gái Lào đã làm nên màu sắc huyền ảo, lãng mạn. Chính vẻ đẹp ấy đã làm say đắm tâm hồn người lính Tây Tiến, nó như một dòng nước ngọt ngào, mát lành làm xua tan đi bao mệt nhọc trong cuộc đời người lính sau những chặng đường hành quân gian lao và vất vả khiến tâm hồn họ trở nên lãng mạn, bay bổng, đầy mộng mơ. Đêm liên hoan có đuốc, có hoa, có tiếng kèn, điệu múa và nhất là có hình ảnh những thiếu nữ miền Tây Bắc trong trang phục dân tộc óng ánh sắc màu văn hoa núi rừng. E ấp trong những điệu xòe hoa duyên dáng. Tất cả như say, như mơ, như mê để hồn thơ được xây lên từ đó: Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ - Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến: Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Tâm hồn người lính đang say trong tiếng nói, tiếng cười, điệu múa, ánh mắt như đang vấn vít lấy nhau, chính tình quân dân thắm nồng đã nâng đỡ tâm hồn người lính lên trên hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh. Người lính có giấc mộng một ngày nào đó sẽ được đặt chân đến Viên Chăn - thủ đô của nước Lào. Đó là niềm khao khát được lập chiến công, đất nước được giải phóng, kẻ thù bị quét sạch ra khỏi bờ cõi lãnh thổ. * Đánh giá: Chỉ với bốn câu thơ, tác giả đã dựng lên một bức tranh vừa phong phú về màu sắc, đường nét, vừa đa dạng về âm thanh. Với tâm hồn lãng mạn, tài hoa, sự nhạy cảm với cái lạ thường, Quang Dũng không chỉ cho người đọc thấy được vẻ đẹp của bản sắc văn hóa mà còn cho ta thấy tình quân dân đằm thắm, mặn nồng và tâm hồn lạc quan yêu đời của người lính Tây Tiến. Chính điều đó đã khiến cho đoạn thơ như một thế giới cổ tích hiện ta giữa hiện thực đầy khốc liệt của cuộc chiến tranh gian khổ. II. Bốn câu thơ sau: Khung cảnh thiên nhiên sông nước và con người Tây Bắc Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 16 * Dẫn dắt: Nếu khung cảnh đêm liên hoan văn nghệ đem đến cho người đọc không khí mê say ngây ngất thì cảnh sông nước miền Tây Bắc lại gợi lên cảm giác mênh mang, hoang dại, tĩnh lặng, mờ ảo, cho thấy nét tài hoa, lãng mạn của người lính Tây Tiến. * Phân tích - Nỗi nhớ thời gian và không gian: Chiều sưong ấy. Đây chính là cảnh bản sương giăng, đèo mây phủ đặc trưng của vùng Tây Bắc (Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ/ Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương - Chế Lan Viên). Sương giăng mờ khắp không gian, choàng lên cảnh vật như một tấm áo voan mỏng, cảnh hiện ra vừa thực, vừa như mơ. Nỗi nhớ trong thơ của Chế Lan Viên khái quát, còn nỗi nhớ trong thơ Quang Dũng thì cụ thể hơn. - Nỗi nhớ của nhà thơ không chỉ dừng lại ở thời gian, không gian chiều sương ấy mà còn được diễn tả cụ thể hơn: + Nhớ Châu Mộc: là một địa danh thuộc vùng đất Sơn La, địa danh này từng gắn bó với tác giả và binh đoàn Tây Tiến, chứng kiến biết bao kỉ niệm vui buồn một thời chiến binh. Cảnh và người Châu Mộc đã trở thành những kỉ niệm khó quên đối với những người lính Tây Tiến, đặc biệt là nhà thơ Quang Dũng. + Nỗi nhớ về con người: Nỗi nhớ cảnh gắn liền với nỗi nhớ người: Có nhớ dáng người trên độc mộc Câu thơ mang đậm màu sắc điện ảnh. Người nghệ sĩ như đứng từ trên cao để chụp lấy một hình ảnh đẹp: con thuyền độc mộc với dáng người đang lướt trên dòng nước lũ. Thuyền độc mộc là thuyền dài và hẹp làm bằng một thân cây gỗ to, khoét trũng có một người chèo lái. Hình ảnh dáng người trên độc mộc có thể là người lính Tây Tiến, cũng có thể là con người Tây Bắc. Dù hiểu theo cách nào, tác giả đã cho người đọc thấy vẻ đẹp của con người được khai thác ở hai khía cạnh vừa duyên dáng, uyển chuyển, mềm mại, lại vừa khỏe khoắn, mạnh mẽ với sức sống mãnh liệt qua nghệ thuật tương phản. Hình ảnh thơ vì thế vừa lãng mạn, vừa gợi vẻ hùng vĩ. Con thuyền độc mộc thì nhỏ bé mà dòng nước lũ kia là thiên nhiên hoang sơ, vừa tương phản, vừa làm nền để tôn vinh vẻ đẹp cho con người nơi đây. + Nhớ thiên nhiên: . Hình ảnh hoa lau: Hồn lau nẻo bến bờ: Hoa lau là hình ảnh đặc trưng của vùng núi cao, Tố Hữu đã từng viết: Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son (Việt Bắc). Lau mọc khắp triền sông, vách đá, trong bài thơ này, lau là hình ảnh quen thuộc của vùng biên giới Tây Bắc: Ai đi biên giới cho lòng ta theo với Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi Suốt một đời cùng với gió giao tranh (Lau biên giới - Chế Lan Viên) Cây lau trong gió gợi cảm giác về cảnh buồn vắng lặng của thời tiền sử: Người xa phơ phất hồn lau gió Thổi trắng chân đồi như khói pha. Tuy nhiên, trong thơ Quang Dũng, tác giả đã diễn tả được thiên nhiên, thổi hồn vào cảnh vật làm cho nó trở nên sống động như có linh hồn vậy. Những bông hoa lau có Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 17 dáng vẻ thưa thớt, thoáng nhẹ, phơ phất thường xuất hiện ở vùng biên giới gợi vẻ xa vắng, hiu hắt. Quang Dũng cao hơn thế đã nắm bắt được linh hồn của cảnh vật, đó là thiên nhiên đặc trưng của vùng Tây Bắc Tổ quốc, nhà thơ đã nhân hóa gọi là hồn lau. Thiên nhiên đã được nhân hóa như có linh hồn phảng phất trong gió, trong sương như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: Ngàn lau cười trong nắng Hồn của mùa thu về Hồn mùa thu sắp đi Ngàn lau xao xác trắng Hồn lau trong thơ Quang Dũng cũng là hồn lau của li biệt phảng phất một chút buồn nhưng không xao xác mà đầy nhớ thương, lưu luyến bởi tác giả đã hai lần cất lên câu hỏi có nhớ, có thấy. => Hai chữ hồn lau thực chất gợi tả hoa lau với màu trắng bạc đầy gợi cảm hiện hữu nơi không gian nẻo bến bờ xa vắng và quên lãng, qua cảm nhận của nhà thơ nó như có hồn. Phải chăng đó là hình ảnh lưu giữ tình cảm thiết tha mà người dân miền Tây dành cho những chiến sĩ Tây Tiến khi xa, cũng là mảnh hồn người chiến sĩ gửi lại Mộc Châu lúc giã từ ? Lời thơ còn hướng ta đến một cảm nhận thật thú vị, nếu không có bước chân những chiến sĩ Tây Tiến, hoa lau sẽ như chưa từng được biết, nó chỉ nở trong thầm lặng mà thôi. Điệu thơ có gì đó xa xót trước một vẻ đẹp bị lãng quên. Đó là chất thi sĩ trong sâu thẳm tâm hồn người lính Tây Tiến được đánh thức trong khoảnh khắc giao cảm bất ngờ với hồn tạo vật. . Nhớ về thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng: Nỗi nhớ về thiên nhiên được đọng lại qua hai hình ảnh tiêu biểu là dòng nước lũ và hoa đong đưa. Dòng nước lũ là hình ảnh về thiên nhiên man dại. Điều đặc biệt là trên dòng nước lũ ấy, xuất hiện hình ảnh hoa đong đưa. Cách sử dụng từ ngữ của tác giả rất độc đáo cho thấy sự tài hoa của nhà thơ. Đong đưa chứ không phải là là đung đưa, đong đưa vừa diễn tả được trạng thái chuyển động đung đưa nhưng lại làm sống dậy cái hồn của cảnh vật. Hoa đong đưa làm toát lên vẻ đẹp thơ mộng, mềm mại, duyên dáng làm say đắm lòng người. Cành hoa ấy như đang làm duyên trên dòng nước lũ, soi bóng trên dòng sông vậy. Vì thế, thiên nhiên vùng Tây Bắc hiện ra trong nỗi nhớ của Quang Dũng vừa mang vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ, vừa mang vẻ đẹp thơ mộng, mĩ lệ. Hình ảnh thơ còn có cách hiểu thú vị khác nữa, hoa đong đưa là một liên tưởng lãng mạn của tác giả khi câu thơ sau có sự hô ứng với câu thơ trước. Dáng người trên độc mộc giống như bông hoa đong đưa trên mặt nước. Phải có một tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu đời như tác giả mới có những cảm nhận tinh tế như vậy, đó là những phút giây mơ mộng vượt lên trên hiện thực khốc liệt, bom đạn dữ dội của kẻ thù. Vì thế, nhà thơ Xuân Diệu đã có những nhận xét thật xác đáng: Đọc bài thơ Tây Tiến, ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng và có thể nói những hình ảnh thơ, những hình ảnh thơ, những câu thơ trên là những câu thơ đặc sắc, là những nốt nhạc đọng mãi trong tâm hồn Quang Dũng và người đọc. - Câu hỏi tu từ liên tiếp được đặt ra: Có nhớ, có thấy. Đây là những câu thơ hoài niệm vì thế nhà thơ đặt ra những câu hỏi tu từ liên tục gợi ra tâm trạng bâng khuâng, xa vắng, lưu luyến và đầy tiếc nuối. Dường như chiều sương ấy với hồn lau nẻo bến bờ, dáng người trên độc mộc luôn trở thành nỗi nhớ, niềm thương của người ra đi vậy. Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 18 C. Kết bài - Nghệ thuật: Cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ, hình ảnh thơ đẹp, thơ mộng, sáng tạo gợi nhiều liên tưởng thú vị, sử dụng các biện pháp tu từ: câu hỏi tu từ,... - Nội dung: Đoạn thơ là dòng hoài niệm của Quang Dũng về những kỉ niệm năm xưa, làm sống dậy những phút giây bình yên hiếm có của thời chiến tranh. Đó là hình ảnh người lính Tây Tiến trong đêm liên hoan văn nghệ thấm đẫm tình quân dân, bức tranh thiên nhiên miền Tây hoang sơ, mĩ lệ, con người miền Tây Bắc với những nét đẹp văn hóa mang màu sắc xứ lạ. Đặc biệt là bốn câu thơ sau, tác giả như đưa người đọc vào thế giới cổ tích với dòng sông huyền thoại, với thế giới của cái đẹp, của cõi mơ, của âm nhạc du dương; chất thơ, chất họa. chất nhạc thấm đẫm, quyện hòa đến mức khó mà tách biệt. Nhận xét về cái hay, cái đẹp của đoạn thơ này Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cái đẹp, của cõi mơ, của cõi nhạc. Câu 3: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc... ...Sông Mã gầm lên khúc độc hành. ( Tây Tiến – Quang Dũng) A. Mở bài - Giới thiệu về tác giả, tác phẩm. - Nêu vấn đề cần nghị luận: + Vị trí: là đoạn thơ thứ ba của bài thơ... + Nội dung: Đoạn thơ đã khắc họa nên bức chân dung tập thể người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa thấm đẫm chất bi tráng. + Trích đoạn thơ. Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc... ...Sông Mã gầm lên khúc độc hành. B.Thân bài I. Bốn câu thơ đầu: Cuộc sống và chiến đấu của người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và bi tráng 1. Hai câu thơ đầu: Ngoại hình, dáng vẻ của người lính Tây Tiến rất đặc sắc, rất khác thường Hình tượng tập thể người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn kết hợp với khuynh hướng tô đậm cái phi thường. Tác giả sử dụng nghệ thuật đối lập, tương phản để miêu tả vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm - Chân dung ngoại hình của người lính được miêu tả rất chân thực: + Hai chữ Tây Tiến được đảo lên đầu đã nhấn mạnh niềm tự hào, kiêu hãnh của đoàn binh. + Cụm từ Không mọc tóc: Mặc dù tác giả không viết cụ thể về cuộc sống của người lính nhưng người đọc vẫn có thể hình dung ra cuộc sống của họ chắc chắn là gian khổ, là thiếu thốn nên những cơn sốt rét rừng đã khiến cho tóc họ rụng hết, thậm chí căn bệnh hiểm nghèo này đã cướp đi tính mạng của biết bao chiến sĩ Tây Tiến. Nhà Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 19 thơ Tố Hữu đã nói về căn bệnh này qua hình ảnh anh vệ quốc quân trong bài Cá nước thật cụ thể: Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ. Hay trong bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã viết: Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh/ Sốt run người vầng chán ướt mồ hôi. Bên cạnh đó là những người lính khỏe mạnh nhưng thấy đồng đội của mình rụng hết tóc nên cũng tinh nghịch cạo trọc đầu để thuận tiện cho việc chiến đấu khi mang lá ngụy trang, đánh giáp lá cà với địch, cũng có thể đây là một cách ngông của người lính Tây Tiến mà chỉ những học sinh, sinh viên mới có những ý tưởng tinh nghịch đó. + Quân xanh màu lá: Da họ xanh xao, vàng đi do những cơn sốt rét rừng hoành hành vì thiếu máu. => Đây là những hình ảnh thực xuất từ hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh. Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện ra chân thật đến xót xa không hề cường điệu, rất giống giọng thơ của Nguyễn Đức Mậu: Nơi thuốc súng trộn vào áo trận Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân Hay Tố Hữu cũng đã viết: Cuộc đời gió bụi pha sương máu Đói rét bao lần xé thịt da Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật Đâu còn tươi nữa những ngày hoa Con người tồn tại được trong hoàn cảnh ấy quả là phải có một nghị lực phi thường. - Vẻ đẹp hào hùng, lãng mạn của người lính Tây Tiến: Người lính ốm mà không yếu, với bút pháp lãng mạn, tác giả đã nhấn mạnh sự tương phản giữa ngoại hình và tâm hồn, giữa hình thức có phần xanh xao tiều tụy vì bệnh tật với sức mạnh tinh thần bên trong của họ. + Từ Hán - Việt đoàn binh: vừa là tên để gọi, vừa là cách định danh đoàn quân Tây Tiến nhưng đồng thời nó lại là từ Hán - Việt diễn tả sự khỏe khoắn, khí thế xung trận mạnh mẽ, đông đảo, hùng dũng. + Cách nói phủ định không mọc tóc: câu phủ định nhưng hàm ý lại là khẳng định gợi lên sự chủ động, cứ như là không cần, không thèm mọc tóc vậy. Với cách nói ấy người lính đã khẳng định sự ngang tàng, kiêu hùng bất cần của mình. + Hình ảnh quân xanh màu lá: vừa là hình ảnh thực về làn da xanh xao, vàng vọt mà cũng thể hiện sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người, hình ảnh người chiến sĩ như đang hòa vào rừng cây bát ngát xanh. + Tư thế dữ oai hùm: đó là tư thế oai phong lẫm liệt, vẻ đoàng hoàng của vị chúa sơn lâm từng ngự trị, tung hoành ngang dọc nơi chốn rừng thiêng. Đó là tư thế chế ngự hoàn cảnh sống khắc nghiệt dữ dội làm cho quân thù khiếp sợ. Người lính ngay trong khó khăn gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật cũng đã bộc lộ phẩm chất hào hùng rất đáng ngợi ca. Có một thời cái đẹp ấy đã trở thành thước đo giá trị con người, thời đại Lí Trần gọi đây là hào khí Đông A quyết chiến, quyết thắng: Tam quân tì hổ khí thôn ngưu (Ba quân khí thế mạnh mẽ như hổ báo nuốt trôi trâu) (Thuật hoài - Phạm Ngũ Lão) Chuyên đề Ngữ văn – Cao Thị Phương Lan, THPT Trần Phú – Vĩnh Yên - VP 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan