Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử Chuyên đề nhân dân việt nam kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược từ 1858 đến...

Tài liệu Chuyên đề nhân dân việt nam kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược từ 1858 đến trước phong trào cần vương

.DOC
26
3093
135

Mô tả:

CHUYÊN ĐỀ NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC TỪ 1858 ĐẾN TRƯỚC PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG (Số tiết 3 tiết) A. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ I. QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC VIỆT NAM CỦA THỰC DÂN PHÁP 1. Tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược (đến giữa thế kỷ XIX) Đến giữa thế kỷ XIX, chế độ phong kiến VN đang có những biểu hiện khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng: Nông nghiệp sa sút. Nhiều cuộc khẩn hoang được tổ chức khá quy mô nhưng cuối cùng đất đai được khẩn hoang lại rơi vào tay địa chủ, cường hào. Nạn mất mùa đói kém xảy ra liên miên. Công thương nghiệp đình đốn; xu hướng độc quyền công - thương của nhà nước đã hạn chế sự phát triển của sản xuất và thương mại. Chính sách “bế quan toả cảng” của nhà Nguyễn khiến nước ta bị cô lập với thế giới bên ngoài. Quân sự lạc hậu. Chính sách đối ngoại có những sai lầm, nhất là việc "cấm đạo", đuổi giáo sĩ phương Tây đã gây ra những mâu thuẫn, làm rạn nứt đoàn kết dân tộc, gây bất lợi cho sự nghiệp kháng chiến sau này. Mâu thuẫn xã hội gay gắt, đặc biệt là mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến dẫn tới các cuộc khởi nghĩa nông dân chống triều đình nổ ra liên miên. Một tác giả phương Tây viết về triều Nguyễn như sau: "Đó là một xã hội đang lên cơn sốt trầm trọng". 1 Trong lúc Việt Nam đang suy yếu, khủng hoảng thì chủ nghĩa tư bản phương Tây đang trên đà phát triển và đẩy mạnh xâm lược thuộc địa. Việt Nam có vị trí quan trọng, giàu tài nguyên, chế độ phong kiến đang trong giai đoạn khủng hoảng, tất yếu Việt Nam trở thành đối tượng xâm lược của thực dân phương Tây. Việt Nam tới giữa thế kỷ XIX đứng trước một trong hai sự lựa chọn: một là, giới phong kiến tiếp tục duy trì chính sách thủ cựu, bảo thủ để bảo vệ lợi ích của mình; hai là, tiến hành cải cách, duy tân đất nước để thoát khỏi thân phận là một nước thuộc địa, phụ thuộc (dẫn chứng sinh động là ở nước Xiêm và nước Nhật Bản). 2. Quá trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam - Ngày 1 tháng 9 năm 1858, Pháp tấn công Đà Nẵng, mở đầu quá trình xâm lược Việt Nam. - Sau khi bị kìm chân ở Đà Nẵng, tháng 2 năm 1859, Pháp tấn công và chiếm Gia Định. - Từ 1861 đến 1862, Pháp tấn công và chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kì. - Năm 1867, lợi dụng thái độ nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn, Pháp chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây Nam Kì. - Năm 1873, thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất. - Từ 1882 đến 1883, thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội và các tỉnh Bắc Kì lần thứ hai. Từ 1883 đến 1884, với việc kí hai bản Hiệp ước Hácmăng và Patơnốt, thực dân Pháp hoàn thành quá trình xâm lược Việt Nam. II. PHONG TRÀO KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN TRƯỚC PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG 2 1. Cuộc đề kháng của triều đình nhà Nguyễn - Tại mặt trận Đà Nẵng: Ngày khi thực dân Pháp nổ súng tấn công, triều đình Huế đã cử Nguyễn Tri Phương chỉ huy kháng chiến. Ông đã cho quân, dân xây dựng phòng tuyến Liên Trì dài 3 km để chặn giặc ngay tại cửa biển. - Tại mặt trận Gia Định: Khi Pháp tấn công thành Gia Định, quan quân triều đình tan rã nhanh chóng. Đầu 1860 khi quân Pháp đang gặp khó khăn, quân triều đình do Nguyễn Tri Phương chỉ huy khoảng 10.000 - 12.000 quân chỉ biết đóng trong Đại đồn Chí Hoà mới được xây dựng, trong tư thế “thủ hiểm”, bỏ lỡ cơ hội tiêu diệt quân Pháp. Vì thế mà gần 1000 quân Pháp vẫn yên ổn ngay bên cạnh phòng tuyến của quân ta. Lúc này trong triều đình Nguyễn có sự phân hóa, tư tưởng chủ hòa do vua Tự Đức đứng đầu lan ra làm lòng người li tán. Khi Pháp tấn công đại đồn Chí Hòa, quan quân triều đình chống cự quyết liệt nhưng do hỏa lực mạnh của địch nên không giữ nổi. Giữa lúc cuộc kháng chiến của nhân dân ta ngày một dâng cao, khiến cho quân Pháp vô cùng bối rối thì triều Nguyễn kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862) với nội dung chính là nhượng hẳn cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kì; bồi thường chiến phí; mở một số cửa biển và cam kết sẽ được nhận lại thành Vĩnh Long nếu triều đình dập tắt phong trào chống pháp của nhân dân 3 tỉnh miền Đông Nam Kì. - Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kì: Năm 1963, Pháp xâm lược Cam-pu-chia, cô lập 3 tỉnh miền Tây Nam Kì. Chúng vu các triều đình vi phạm Hiệp ước năm 1862 để ép triều đình nhường quyền cai quản. Trước yêu cầu này triều đình vô cùng lúng túng. Lợi dụng sự bạc nhược của triều đình Huế, ngày 20/6/1867, quân Pháp đến trước thành Vĩnh 3 Long, ép Phan Thanh Giản (lúc đó đang giữ chức Kinh lược sứ) phải nộp thành không điều kiện. Chúng còn khuyên ông viết thư cho quan quân 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên hạ vũ khí, nộp thành. Trong vòng 5 ngày (từ ngày 20 đến ngày 24/6/1867), thực dân Pháp đã chiếm trọn 3 tỉnh miền Tây Nam Kì mà không tốn một viên đạn. Nhà Nguyễn thực hiện Hiệp ước Nhâm Tuất một cách mù quáng. Ra lệnh giải tán các nghĩa binh chống Pháp ở 3 tỉnh miền Đông. - Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất (1873): Nhà Nguyễn bất lực và không tỉnh táo nên đã nhờ Pháp can thiệp giải quyết “vụ Đuy-puy”. Nhờ đó, Pháp có cớ đưa quân ra Bắc một cách hòa bình. Khi Pháp nổ súng đánh thành Hà Nội, khoảng 100 quân sĩ triều đình dưới sự chỉ huy của một viên Chưởng cơ đã chiến đấu và hi sinh tới người cuối cùng tại Ô Thanh Hà (sau đổi tên thành Ô Quan Chưởng). Trong thành, Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đã đốc thúc quân sĩ chiến đấu dũng cảm. Khi bị trọng thương, ông đã khước từ sự chữa chạy của giặc Pháp, nhịn ăn cho đến chết. Con trai ông là Nguyễn Lâm cũng hi sinh trong chiến đấu. Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất không làm cho triều đình Huế tỉnh táo, kiên quyết và tranh thủ cơ hội đánh Pháp, ngược lại còn chấp nhận kí Hiệp ước Giáp Tuất 1874 với nội dung: triều Nguyễn chính thức thừa nhận sáu tỉnh Nam Kì là đất của Pháp (điều mà trước khi Pháp đưa quân ra Bắc Kì lần thứ nhất không có được), công nhận quyền đi lại, buôn bán, kiểm soát điều tra tình hình Việt Nam của chúng. - Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ hai (1882-1883): Khi quân Pháp mở cuộc tấn công vào thành Hà Nội, Hoàng Diệu đã lên mặt thành chỉ huy quân sĩ kiên quyết chống cự, nhưng vẫn không giữ được thành. Để bảo toàn khí tiết, sau khi thảo tờ di biểu gửi triều đình, Hoàng Diệu đã tự vẫn trong vườn Võ Miếu (dưới chân Cột cờ Hà Nội ngày nay) để khỏi rơi vào tay giặc. 4 Triều đình Huế không phát huy chiến thắng Cầu Giấy lần hai mà lại chủ trương thương lượng, cầu hòa. - Pháp tấn công cửa biển Thuận An. Nhà Nguyễn đầu hàng (1883-1884): Ngày 20/8/1883, Thuận An rơi vào tay giặc. Trước áp lực của quân Pháp, lại đang lúng túng trong việc lựa chọn người kế vị vua Tự Đức, triều đình Huế đã cử người đại diện tới thương thảo với quân Pháp ở Thuận An. Ngày 25/8/1883, triều đình Huế kí với Pháp bản Hiệp ước do Pháp thảo sẵn (thường gọi là Hiệp ước Hác-măng). 2. Phong trào kháng chiến của nhân dân Việt Nam - Tại Đà Nẵng: Nhân dân giúp triều đình lấy đất đá lấp sông Vĩnh Điện để chặn tàu chiến địch. Trên đất liền, quân dân ta thực hiện “vườn không nhà trống”. Liên quân Pháp – Tây Ban Nha bị cầm chân suốt 5 tháng trên bán đảo Sơn Trà (đây là cơ hội cho quân triều đình tấn công tiêu diệt quân Pháp). Về sau quân Tây Ban Nha rút khỏi cuộc xâm lược. Cuộc kháng chiến của quân dân ta bước đầu làm thất bại âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp tại đây. - Tại Gia Định: Khi Pháp đánh thành Gia Định, dân binh chiến đấu dũng cảm, ngày đêm bám sát địch để quấy rối và tiêu diệt chúng. Trước sức ép đó quân Pháp phải dùng thuốc nổ phá thành, đốt trụi mọi kho tàng và rút quân xuống tầu chiến. Kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” hoàn toàn bị thất bại, buộc Pháp phải chuyển sang kế hoạch “chinh phục từng gói nhỏ”. Từ Nam Định, Đốc học Phạm Văn Nghị tự chiêu mộ 300 người, chủ yếu là học trò của ông, lập thành cơ ngũ, lên đường vào Nam xin vua được ra chiến trường. 5 Cuối năm 1861, đội quân của Nguyễn Trung Trực đã đánh chìm tàu chiến Ét- pê- răng (Hi vọng) của địch trên sông Vàm Cỏ Đông (đoạn chảy qua thôn Nhật Tảo), làm nức lòng quân dân ta. - Tại 3 tỉnh miền Đông Nam Kì sau Hiệp ước 1862: Phong trào “tị địa” diễn ra sôi nổi, khiến cho Pháp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức, quản lí những vùng đất chúng chiếm được. Tiêu biểu là cuộc kháng chiến do Trương Định lãnh đạo: Trước năm 1862, Trương Định là quan triều đình, đã từng theo Nguyễn Tri Phương mộ phu, khai khẩn nhiều đất đai, được triều đình phong chức Phó Quản Cơ. Khi quân Pháp đánh chiếm Gia Định, ông đã đưa đội quân đồn điền của ông về sát cánh cùng quân triều đình chiến đấu. Chiến tuyến Chí Hoà bị vỡ, ông đưa quân về hoạt động ở Tân Hoà, quyết tâm chiến đấu lâu dài. Sau Hiệp ước năm 1862, triều đình hạ lệnh cho Trương Định phải bãi binh, mặt khác điều ông đi nhận chức lãnh binh ở tỉnh khác. Nhưng được sự ủng hộ của nhân dân, ông đã chống lệnh triều đình, quyết tâm ở lại kháng chiến. Phất cao ngọn cờ “Bình Tây Đại nguyên soái” , hoạt động của nghĩa quân đã củng cố niềm tin trong dân chúng, khiến bọn cướp nước và bán nước phải run sợ. Biết được căn cứ của phong trào là ở Tân Hoà, T2/1863, giặc Pháp mở cuộc tấn công quy mô lớn vào căn cứ này. Nghĩa quân anh dũng chiến đấu sau đó rút lui để bảo toàn lực lượng về căn cứ mới ở Tân Phước. T8/1864, nhờ có tay sai dẫn đường, thực dân Pháp đã tìm ra nơi ở của Trương Định. Chúng mở cuộc tập kích bất ngờ vào Tân Phước. Trương Định trúng đạn và bị thương nặng. Ông đã rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết. Năm đó ông 44 tuổi. Đây là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu cho tinh thần quật khởi của nhân dân Nam Kì, đồng thời cũng là mốc hình thành trận tuyến của nhân dân (tách ra khỏi cuộc kháng chiến của triều đình). 6 - Khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kì: Con trai Trương Định là Trương Quyền đưa một bộ phận nghĩa binh lên Tây Ninh lập căn cứ mới. Ông còn liên lạc với Pu-côm-bô để tổ chức chống Pháp. Nguyễn Trung Trực lập căn cứ ở Hòn Chông (Rạch Giá). Khi bị bắt đem đi hành hình, ông đã khảng khái nói: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì hết người Nam đánh Tây”. - Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất: Tinh thần chủ động đối phó chống Pháp của nhân dân ta khi Gác-ni-ê vừa kéo tới, quân dân ta đã bất hợp tác với Pháp, các giếng nước ăn bị bỏ thuốc độc, kho thuốc súng ở gần bờ sông của Pháp nhiều lần bị đốt cháy. Trận đánh gây được tiếng vang lớn nhất lúc bấy giờ là trận phục kích của quân dân ta tại Cầu Giấy ngày 21/12/1873: Trong lúc Gác-ni-ê đem quân xuống đánh Nam Định, việc canh phòng ở Hà Nội sơ hở, quân ta do Hoàng Tá Viêm chỉ huy (có sự phối hợp với đội quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc) từ Sơn Tây kéo về Hà Nội bao vây địch. Nghe tin đó, Gác- ni-ê tức tốc đưa quân từ Nam Định trở về. Ngày 21/12/1873, Lưu Vĩnh Phúc kéo quân sát thành Hà Nội khiêu chiến. Gác- ni-ê đem quân đuổi theo. Rơi vào ổ phục kích của quân ta tại Cầu Giấy, toán quân Pháp trong đó có cả Gác-ni-ê, đã bị tiêu diệt. Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ khiến cho nhân dân ta vô cùng phấn khởi. - Pháp đánh Hà Nội lần thứ hai: Ngay từ đầu, quân Pháp đã vấp phải tinh thần quyết chiến của quân dân Hà Nội. Họ tự tay đốt các dãy phố, tạo thành hàng rào lửa để đánh giặc. Vòng vây của quân dân ta xung quanh Hà Nội ngày một chặt, khiến cho Ri-vi-e phải đưa quân từ Nam Định về ứng cứu. Ngày 19/5/1883, một toán quân do đích thân Ri-vi-e chỉ huy tiến ra ngoài Hà Nội theo hướng Sơn Tây, quân của Hoàng Tá Viêm và Lưu Vĩnh Phúc phối hợp đã làm lên chiến thắng cầu giấy lần hai. Giết chết hàng chục quân Pháp trong đó có cả Tổng chỉ huy 7 quân Pháp ở Bắc Kì là Ri-vi-e. Chiến thắng Cầu Giấy lần 2 đem lại niềm phấn khích cho quân dân ta. - Sau Hiệp ước Hác – măng (1883): Mặc dù triều đình phong kiến đã hoàn toàn đầu hàng và nghe theo Pháp đàn áp phong trào kháng chiến của nhân dân, nhưng các hoạt động chống Pháp ở khắp mọi nơi vẫn diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là ở Bắc Kì. Để xoa dịu dư luận và mua chuộc thêm một số phần tử phong kiến, Pháp cử Pa-tơ-nốt sang Việt Nam và kí với triều đình phong kiến Hiệp ước Pa-tơ-nốt (6/6/1884). III. B. TỔ CHỨC DẠY HỌC CHUYÊN ĐỀ I. MỤC TIÊU - Sau khi học xong chuyên đề, học sinh đạt được: 1. Về kiến thức - Nêu được những nét chính về tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược. - Trình bày được quá trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp qua các sự kiện chủ yếu trong giai đoạn từ 1858 đến 1884: Pháp tấn công Đà Nẵng, sau đó chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kì; 3 tỉnh miền Tây Nam Kì và mở rộng đánh chiếm toàn bộ Việt Nam. - Trình bày được cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta ở ba tỉnh miền Đông; ba tỉnh miền Tây; cuộc kháng chiến ở Bắc Kì. - Đánh giá được trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp. 2. Về kỹ năng - Rèn kỹ năng phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá sự kiện, vấn đề lịch sử; biết liên hệ rút ra bài học kinh nghiệm. - Phát triển kĩ năng khai thác tranh ảnh, tư liệu lịch sử. 8 - Phát triển kĩ năng lập niên biểu. 3. Về thái độ - Hiểu được bản chất xâm lược của chủ nghĩa thực dân và sự tàn bạo của chúng. - Tự hào về truyền thống chống xâm lược của cha ông. - Có thái độ đúng mực khi tìm hiểu về nguyên nhân và trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để mất nước cuối thế kỷ XIX. - Có nhận thức đúng với các nhân vật, sự kiện lịch sử cụ thể. 4. Định hướng phát triển năng lực Năng lực chung: Năng lực tự học, năng lực phát hiện, giải quyết vấn đề; năng lực hợp tác; năng lực sử dụng ngôn ngữ. Năng lực chuyên biệt: - Năng lực tái hiện hiện tượng sự kiện lịch sử dân tộc qua các cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta từ 1858 - 1884. - Năng lực thực hành bộ môn: khai thác sử dụng tư liệu gốc, tranh ảnh, lược đồ lịch sử. - So sánh, phân tích để thấy được sự khác nhau giữa thái độ và hành động của triều Nguyễn với phong trào kháng chiến của nhân dân ta trước cuộc xâm lược của Pháp. - Vận dụng kiến thức lịch sử đã học để giải quyết vấn đề thực tiễn: biết cách tìm hiểu thông tin lịch sử về các nhân vật lịch sử trong phong trào kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta từ 1858-1884. II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH 1. Giáo viên - Tư liệu - Tranh ảnh lịch sử theo chuyên đề. - Phiếu học tập. 9 2. Học sinh - Nghiên cứu nội dung chuyên đề. - Bút dạ hoặc bút màu. III. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC CHUYÊN ĐỀ 1. Giới thiệu của giáo viên Âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp đã có từ lâu và được xúc tiến mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XIX. Tháng 9 năm 1858, quân Pháp nổ súng chính thức mở màn cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ngay từ đầu quân dân ta đã anh dũng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Sau khi chiếm được thành Gia Định, Pháp lần lược đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông và 3 tỉnh miền Tây Nam Kì. Đến năm 1867, Pháp mở rộng đánh chiếm toàn bộ Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn lúng túng, dần lún sâu vào con đường thỏa hiệp lần lượt kí các hiệp ước bất bình đẳng. Đặc biệt, với hai bản Hiệp ước Hácmăng (1883) và Patơnốt (1884) đã đánh dấu sự đầu hàng hoàn toàn của triều đình phong kiến Nguyễn, xác lập nền bảo hộ của Pháp trên toàn bộ nước ta. Vậy quá trình đó diễn ra như thế nào, chúng ta cùng tìm hiểu chuyên đề “Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884)”. 2. Tổ chức các hoạt động học tập HOẠT ĐỘNG 1 Tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược - Hoạt động: cả lớp, cá nhân - Giáo viên phát phiếu học tập cho học sinh, yêu cầu học sinh nghiên cứu sách giáo khoa và hoàn thành những nội dung theo mẫu. Thời gian 7 phút. Nội dung Kinh tế Chính trị Tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược Biểu hiện 10 Xã hội Quân sự - ngoại giao Học sinh hoàn thành phiếu học tập theo mẫu và trình bày. Học sinh khác bổ sung. Giáo viên nhận xét, bổ sung và đưa ra thông tin phản hồi bằng bảng kiến thức đã chuẩn bị sẵn. HỘP KIẾN THỨC CỦA HOẠT ĐỘNG 1 Nội dung Kinh tế Tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược Biểu hiện Nông nghiệp sa sút; công thương nghiệp đình đốn; đời sống nhân dân khó khăn Chính trị Là một quốc gia phong kiến độc lập, có chủ quyền (triều Nguyễn) Xã hội Mâu thuẫn sâu sắc Quân sự - ngoại Quân sự lạc hậu; ngoại giao bế tắc do chính sách “bế quan tỏa cảng”, có giao những sai lầm đặc biệt là chính sách “cấm đạo”, “đuổi giáo sĩ”. Sau đó giáo viên sử dụng một số câu hỏi để làm rõ hơn. 1. Em nhận xét gì về tình hình nước ta trước khi thực dân Pháp xâm lược? 2. Theo em, tình hình trên sẽ ảnh hưởng như thế nào đến cuộc kháng chiến của nhân dân ta sau này? HOẠT ĐỘNG 2 Quá trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp từ 1858-1884 Giáo viên chia lớp thành các nhóm, mỗi nhóm 4 học sinh. Giáo phát ảnh phiếu học tập Pháp cho học sinh, yêu cầutấn học sinhĐà tìmNẵng hiểu tư Tư liệuviên 1. Hình liên quân – Tây Ban Nha công liệu (phát tay) kết hợp với nghiên cứu nội dung kiến thức SGK hoàn thành phiếu học tập. 11 Tư liệu 2. Hình ảnh quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định Tư liệu 3. Trích Hiệp ước Nhâm Tuất (1862): “Hiệp ước có 12 điều khoản, trong đó có những khoản chính như: triều đình nhượng hẳn cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn Lôn; bồi thường 20 triệu quan (ước tính bằng 280 vạn lạng bạc); triều đình phải mở 3 cửa biển: Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho thương nhân Pháp và Tây Ban Nha vào tự do buôn bán; thành Vĩnh Long sẽ được trả lại cho triều đình Huế khi nào triều đình chấm dứt được các hoạt động chống Pháp ở ba tỉnh miền Đông” – Trích SGK lớp 11, trang 111. 12 Tư liệu 4. Quân Pháp chiếm thành Hà Nội, xây dựng lô cốt trên nền Điện Kính Thiên Tư liệu 5. Lễ kí kết Hiệp ước Hác-măng tại Huế 13 PHIẾU HỌC TẬP Thời gian Địa điểm Cuộc xâm lược của Thái độ của thực dân Pháp triều Nguyễn Kết quả Các nhóm học sinh trao đổi, thảo luận, hoàn thành phiếu học tập theo mẫu. Đại diện 1 nhóm học sinh báo cáo kết quả, các nhóm khác đổi kết quả cho nhau để đánh giá nhận xét về kết quả của từng nhóm. Giáo viên nhận xét nội dung hoạt động học sinh và đưa ra thông tin phản hồi bằng bảng kiến thức đã chuẩn bị. HỘP KIẾN THỨC CỦA HOẠT ĐỘNG 2 Thời gian 9/1858 Địa Cuộc xâm lược của điểm thực dân Pháp Đà Nẵng Pháp - Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng Thái độ của Kết quả triều Nguyễn Cử Nguyễn Tri Phương chỉ Pháp thất bại huy kháng chiến. trong âm 14 mưu “đánh nhanh thắng 2/1859 Gia Pháp đánh thành Gia - Cử Nguyễn Tri Phương Định Định chỉ huy khán chiến và xây nhanh”. Pháp bị sa lầy dựng đại đồn Chí Hòa. - Xuất hiện tư tưởng chủ 4/1861 Ba tỉnh Pháp chiếm Gia Định, hòa. Kí Hiệp ước Nhâm Tuất đến miền Định Tường, Biên Hòa, (1862) 3/1862 Đông Vĩnh Long 6/1867 Nam Kì Tây Pháp kéo đến thành - Phan Thanh Giản nộp Mất ba tỉnh Nam Kì Vĩnh Long ép Phan thành. miền Tây Thanh Giản nộp thành - Quan quân 2 tỉnh An Nam Kì Bắc Kì Pháp chiếm Hưng Yên, Giang, Hà Tiên nộp thành - Triều đình cử Nguyễn Tri Pháp rút khỏi lần 1 Phủ Lý, Hải Dương, Phương làm Tổng đốc bảo Bắc Kì. Ninh Bình, Nam Định vệ thành Hà Nội. 1873 Mất ba tỉnh miền Đông Nam Kì - Triều đình kí Hiệp ước Giáp Tuất, thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì thuộc Pháp. 1882- Bắc Kì Pháp chiếm thành Hà Triều đình vẫn nuôi ảo Tổng đốc 1883 lần 2 Nội, mỏ than Hòn Gai, tưởng bằng con đường Hoàng Diệu Quảng Yên, Nam Định thương thuyết hi sinh, Hà Nội rơi vào 18831884 Huế Pháp chiếm cửa biển Triều đình xin đình chiến tay Pháp. Pháp hoàn Thuận An kí Hiệp ước Hácmăng, thành quá Patơnốt. trình xâm lược Việt Nam 15 Sau khi giáo viên đưa ra thông tin phản hồi, giáo viên tiếp tục yêu cầu học sinh quan sát lược đồ và yêu cầu học sinh trao đổi, thảo luận các vấn đề sau: 1. Tại sao Pháp lại chọn Đà Nẵng là mục tiêu mở đầu cho quá trình xâm lược Việt Nam? 2. Tại sao sau khi thất bại trong âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” tại Đà Nẵng, Pháp lại chọn Gia Định chứ không phải là một địa phương nào khác để tấn công? 3. Em có nhận xét gì về tinh thần và thái độ của triều đình trước các cuộc tấn công của thực dân Pháp? HOẠT ĐỘNG 3 16 Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam (1858-1884) Sử dụng phương pháp dạy học theo dự án Giáo viên chia thành các tiểu chủ đề, sau đó chia lớp thành 4 nhóm. Mỗi nhóm sẽ lựa chọn một tiểu chủ đề. Thời gian các nhóm chuẩn bị là 7 ngày. CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM Cuộc kháng chiến nhân dân Đà Nẵng, Gia Định và 3 tỉnh miền Đông Nam Kì Cuộc kháng chiến nhân dân 3 tỉnh miền Tây Nam Kì Nhóm I Nhóm II Cuộc kháng chiến nhân dân khi Pháp đánh Bắc Kì lần thứ nhất Nhóm IIII Cuộc kháng chiến nhân dân khi Pháp đánh Bắc Kì lần thứ hai Nhóm IV Các nhóm lần lượt báo cáo nội dung đã chuẩn bị (thuyết trình kết hợp với trình chiếu powerpoint) trong giờ học. Giáo viên nhận xét, hướng dẫn học sinh chốt các ý sau: Nhóm I: Cuộc kháng chiến của nhân dân Đà Nẵng, Gia Định và 3 tỉnh miền Đông Nam Kì Tại Đà Nẵng: + Nhân dân giúp triều đình lấy đất đá lấp sông Vĩnh Điện để chặn tàu chiến địch. Trên đất liền, quân dân ta thực hiện “ vườn không nhà trống”. Liên quân Pháp – Tây Ban Nha bị cầm chân suốt 5 tháng trên bán đảo Sơn Trà (đây là cơ hội cho quân triều đình tấn công tiêu diệt quân Pháp). Về sau quân Tây Ban Nha rút khỏi cuộc xâm lược. + Cuộc kháng chiến của quân dân ta bước đầu làm thất bại âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp tại đây. 17 Tại Gia Định và các tỉnh miền Đông Nam Kì: + Khi Pháp đánh thành Gia Định, dân binh chiến đấu dũng cảm, ngày đêm bám sát địch để quấy rối và tiêu diệt chúng. Trước sức ép đó quân Pháp phải dùng thuốc nổ phá thành, đốt trụi mọi kho tàng và rút quân xuống tầu chiến. Kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” hoàn toàn bị thất bại, buộc Pháp phải chuyển sang kế hoạch “chinh phục từng gói nhỏ”. + Từ Nam Định, Đốc học Phạm Văn Nghị tự chiêu mộ 300 người, chủ yếu là học trò của ông, lập thành cơ ngũ, lên đường vào Nam xin vua được ra chiến trường. + Cuối năm 1861, đội quân của Nguyễn Trung Trực đã đánh chìm tàu chiến Ét- pê- răng (Hi vọng) của địch trên sông Vàm Cỏ Đông (đoạn chảy qua thôn Nhật Tảo), làm nức lòng quân dân ta. Nhóm II: Cuộc kháng chiến của nhân dân 3 tỉnh miền Tây Nam Kì + Trái ngược với hành động của triều đình, phong trào chống Pháp của 3 tỉnh miền Đông vẫn tiếp diễn sau Hiệp ước 1862. Phong trào “tị địa” diễn ra sôi nổi, khiến cho Pháp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức, quản lí những vùng đất chúng chiếm được. + Cuộc khởi nghĩa Trương Định: Trước năm 1862, Trương Định là quan triều đình, đã từng theo Nguyễn Tri Phương mộ phu, khai khẩn nhiều đất đai, được triều đình phong chức Phó Quản Cơ. Khi quân Pháp đánh chiếm Gia Định, ông đã đưa đội quân đồn điền của ông về sát cánh cùng quân triều đình chiến đấu. Chiến tuyến Chí Hoà bị vỡ, ông đưa quân về hoạt động ở Tân Hoà, quyết tâm chiến đấu lâu dài. Sau Hiệp ước năm 1862, triều đình hạ lệnh cho Trương Định phải bãi binh, mặt khác điều ông đi nhận chức lãnh binh ở tỉnh khác. Nhưng được sự ủng hộ của nhân dân, ông đã chống lệnh triều đình, quyết tâm ở lại kháng chiến. Phất cao ngọn cờ “Bình Tây Đại nguyên soái”, hoạt động của nghĩa quân đã 18 củng cố niềm tin trong dân chúng, khiến bọn cướp nước và bán nước phải run sợ. Biết được căn cứ của phong trào là ở Tân Hoà, T2/1863, giặc Pháp mở cuộc tấn công quy mô lớn vào căn cứ này. Nghĩa quân anh dũng chiến đấu sau đó rút lui để bảo toàn lực lượng về căn cứ mới ở Tân Phước. T8/1864, nhờ có tay sai dẫn đường, thực dân Pháp đã tìm ra nơi ở của Trương Định. Chúng mở cuộc tập kích bất ngờ vào Tân Phước. Trương Định trúng đạn và bị thương nặng. Ông đã rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết. Năm đó ông 44 tuổi. Đây là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu cho tinh thần quật khởi của nhân dân Nam Kì, đồng thời cũng là mốc hình thành trận tuyến của nhân dân (tách ra khỏi cuộc kháng chiến của triều đình). + Khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kì, con trai Trương Định là Trương Quyền đưa một bộ phận nghĩa binh lên Tây Ninh lập căn cứ mới. Ông còn liên lạc với Pu-côm-bô để tổ chức chống Pháp. Nguyễn Trung Trực lập căn cứ ở Hòn Chông (Rạch Giá). Khi bị bắt đem đi hành hình, ông đã khảng khái nói: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì hết người Nam đánh Tây”. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kì là biểu hiện cụ thể, sinh động lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta. Nhóm III: Cuộc kháng chiến của nhân dân khi Pháp đánh Bắc Kì lần thứ nhất + Tinh thần chủ động đối phó chống Pháp của nhân dân ta khi Gác-ni-ê vừa kéo tới, quân dân ta đã bất hợp tác với Pháp, các giếng nước ăn bị bỏ thuốc độc, kho thuốc súng ở gần bờ sông của Pháp nhiều lần bị đốt cháy. + Trận đánh gây được tiếng vang lớn nhất lúc bấy giờ là trận phục kích của quân dân ta tại Cầu Giấy ngày 21/12/1873: Trong lúc Gác-ni-ê đem quân xuống đánh Nam Định, việc canh phòng ở Hà Nội sơ hở, quân ta do Hoàng Tá Viêm chỉ huy (có sự phối hợp với đội quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc) từ Sơn 19 Tây kéo về Hà Nội bao vây địch. Nghe tin đó, Gác-ni-ê tức tốc đưa quân từ Nam Định trở về. Ngày 21/12/1873, Lưu Vĩnh Phúc kéo quân sát thành Hà Nội khiêu chiến. Gác- ni-ê đem quân đuổi theo. Rơi vào ổ phục kích của quân ta tại Cầu Giấy, toán quân Pháp trong đó có cả Gác-ni-ê, đã bị tiêu diệt. Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất khiến cho nhân dân ta vô cùng phấn khởi. Nhóm IV: Cuộc kháng chiến của nhân dân khi Pháp đánh Bắc Kì lần thứ hai + Ngay từ đầu, quân Pháp đã vấp phải tinh thần quyết chiến của quân dân Hà Nội. Họ tự tay đốt các dãy phố, tạo thành hàng rào lửa để đánh giặc. + Vòng vây của quân dân ta xung quanh Hà Nội ngày một chặt, khiến cho Ri-vi-e phải đưa quân từ Nam Định về ứng cứu. Ngày 19/5/1883, một toán quân do đích thân Ri-vi-e chỉ huy tiến ra ngoài Hà Nội theo hướng Sơn Tây, quân của Hoàng Tá Viêm và Lưu Vĩnh Phúc phối hợp đã làm lên chiến thắng cầu giấy lần hai. Giết chết hàng chục quân Pháp trong đó có cả Tổng chỉ huy quân Pháp ở Bắc Kì là Ri-vi-e. Chiến thắng Cầu Giấy lần 2 đem lại niềm phấn khích cho quân dân ta. HOẠT ĐỘNG 4 Bảng kiến thức tổng hợp của chuyên đề Thời Địa Cuộc xâm Cuộc kháng Thái độ của gian điểm lược của chiến của nhân triều đình Kết quả Ngày Đà Pháp dân Pháp nổ súng anh dũng chiến Cử Nguyễn Tri Bước đầu làm 1/9/185 Nẵng xâm lược 8 đấu Phương chỉ huy, Pháp thất bại cùng nhân dân âm “đánh chiến đấu thắng nhanh nhanh” 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan