Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Luyện thi Đại học - Cao đẳng CHUYÊN ĐỀ LUYỆN THI ĐẠI HỌC TÁC PHẨM RỪNG XÀ NU (Nguyễn Trung Thành) NHỮNG ĐỨA C...

Tài liệu CHUYÊN ĐỀ LUYỆN THI ĐẠI HỌC TÁC PHẨM RỪNG XÀ NU (Nguyễn Trung Thành) NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (Nguyễn Thi)

.DOC
38
1718
80

Mô tả:

CHUYÊN ĐỀ LUYỆN THI ĐẠI HỌC TÁC PHẨM: RỪNG XÀ NU (Nguyễn Trung Thành) NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (Nguyễn Thi) A. MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU 1. Nội dung - Nắm vững kiến thức cơ bản về các tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi. - Nắm vững và phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm - Nâng cao và so sánh một số khía cạnh, phương diện giữa hai tác phẩm. 2. Kĩ năng Ôn luyện và hình thành cho học sinh các dạng đề: - Tái hiện kiến thức về tác giả, tác phẩm - Phân tích nhân vật trong tác phẩm - Phân tích một khía cạnh nội dung hoặc nghệ thuật của tác phẩm - Kiểu bài so sánh 3. Phương pháp - Tổ chức ôn luyện cho học sinh - Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, phân tích đề, lập dàn ý - Yêu cầu học sinh thực hành viết bài và giáo viên nhận xét, sửa lỗi và trả bài cho học sinh. 4. Đối tượng học sinh - Học sinh lớp 12 học chuyên đề khối C 5. Dự kiến số tiết dạy: 18 tiết B. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ I. RỪNG XÀ NU (Nguyễn Trung Thành) 1. Dạng câu hỏi 2 điểm: Câu 1: Nêu những điểm cơ bản về nhà văn Nguyễn Trung Thành và hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn “Rừng xà nu”. - Những điểm cơ bản về nhà văn Nguyễn Trung Thành + Tên khai sinh của Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) là Nguyễn Ngọc Báu. Ông sinh năm 1932, quê ở Thăng Bình, Quảng Nam. + Nguyễn Trung Thành là bút danh đợc nhà văn Nguyên Ngọc dùng trong thời gian hoạt động ở chiến trường miền Nam thời chống Mĩ. + Năm 1950, ông vào bộ đội, sau đó làm phóng viên báo quân đội nhân dân liên khu V. Năm 1962, ông tình nguyện trở về chiến trường miền Nam. + Tác phẩm: Đất nước đứng lên- giải nhất, giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam năm 1954- 1955; Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969); Đất Quảng (19711974);… 1 + Năm 2000, ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. - Rừng xà nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung bộ (số 2- 1965), sau đó đợc in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. - Hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn “Rừng xà nu”. + Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ đợc kí kết, đất nước chia làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối. + Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Nguyễn Trung Thành và các nhà văn miền Nam lúc đó muốn viết "hịch thời đánh Mĩ". Rừng xà nu đợc viết vào đúng thời điểm mà cả nớc ta trong không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm đợc hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trờng miền Trung Trung bộ. + Mặc dù Rừng xà nu viết về sự kiện nổi dậy của buôn làng Tây Nguyên trong thời kì đồng khởi trước 1960 nhng chủ đề tư tưởng của tác phẩm vẫn có quan hệ mật thiết với tình hình thời sự của cuộc kháng chiến lúc tác phẩm ra đời. Câu 2: Tóm tắt cốt truyện “Rừng xà nu”của Nguyễn Trung Thành và phát biểu chủ đề tác phẩm. - Tóm tắt cốt truyện: Truyện kể về một làng ở Tây Nguyên-làng Xô Man- nằm giữa cánh rừng xà nu bạt ngàn, đang từng ngày hứng chịu những trận đại bác của đồn giặc. Sau ba năm tham gia lực lượng Giải phóng quân, Tnú trở về thăm làng. Thằng bé Heng dẫn đường cho Tnú vì đường vào làng nay đã bố phòng nghiêm ngặt: hầm chông, hố chông, dàn thò chằng chịt….Đêm đó, Tnú ăn cơm và ở lại nhà cụ Mết. Cả làng tụ họp, Dít kiểm tra giấy phép xong, cụ Mết tự hào kể lại cho mọi người nghe trang sử đấu tranh của làng, trang sử đó gắn bó với cuộc đời Tnú. Hồi ấy, Mỹ Diệm khủng bố dữ dội, nhưng làng vẫn bí mật nuôi giấu cán bộ (anh Quyết). Tnú và Mai được giao làm liên lạc cho anh Quyết, rồi được anh Quyết dạy chữ. Một lần, trong chuyến đưa thư của anh Quyết lên huyện, Tnú bị địch phục bắt, bị tra tấn nhưng anh không khai. Ở tù ba năm, Tnú vượt ngục, trở về làng thay anh Quyết lãnh đạo buôn làng tích cực chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa và kết hôn cùng Mai. Tin làng Xô Man chuẩn bị vũ khí chờ thời cơ nổi dậy đến tai giặc. Thằng Dục đưa lính đến lùng sục vây ráp. Cụ Mết, Tnú cùng thanh niên lánh vào rừng. Không bắt được Tnú, bọn giặc bắt Mai cùng với đứa con nhỏ chưa đầy tháng đánh đập dã man. Từ vị trí ẩn nấp, Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị giặc hành hạ. Sôi sục căm thù, Tnú nhảy xổ vào cứu vợ nhưng rồi Mai và đứa con đã chết, anh cũng bị bắt. Bọn giặc tẩm nhựa Xà nu đốt mười đầu ngón tay anh trước mặt dân làng. Hình ảnh cây xà nu có sự tiếp nối mạnh mẽ. Tnú kiên cường chịu đựng quyết không kêu la. Có tiếng động chung quanh, Tnú thét lên một tiếng, dân làng đồng thanh, nhất tề nổi dậy, thằng Dục và tiểu đội ác ôn đã bị cụ Mết và thanh niên diệt gọn. Làng Xô Man đồng khởi thắng lợi. Tnú gia nhập Giải phóng quân. Anh dũng cảm lập chiến công, được cấp chỉ huy cho về phép thăm làng một đêm. Sáng hôm sau, Cụ Mết, Dít tiễn anh lên đường . Họ chia tay nhau ở đồi xà nu, cạnh con nước lớn. 2 - Chủ đề: Ngợi ca tinh thần bất khuất, sức mạnh quật khởi của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói riêng, đất nước và con người Việt Nam nói chung trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và khẳng định chân lí của thời đại: để giữ gìn sự sống của đất nước và nhân dân, không có cách nào khác là phải cùng nhau đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù Câu 3: Ý nghĩa nhan đề của tác phẩm? 1. Vai trò và ý nghĩa của nhan đề: cách đặt nhan đề là vấn đề hết sức quan trọng đối với nhà văn. Nhan đề ghi dấu linh hồn của tác phẩm và tư tưởng của tác giả. Với bạn đọc nhan đề được ví như chiếc chìa khóa để dẫn người đọc bước vào khám phá lâu đài nghệ thuật văn chương 2. Đọc Rừng xà nu ta thấy nhà văn có thể đặt tên cho tác phẩm là “Làng Xô-man” hay “Tnú”- nhân vật chính của truyện. Đó là cách làm thường thấy như Nam Cao đặt tên tác phẩm là Chí Phèo, Lão Hạc. Nhưng nếu như vậy truyện sẽ mất đi tính khái quát và gợi mở, điều cốt yếu đối với một tác phẩm văn học. Vì thế nhà văn đặt tên cho tác phẩm là RXN với ý nghĩa sâu xa 3. Ý nghĩa nhan đề RXN - Nhà văn đặt cho tác phẩm là RXN trước hết là hình ảnh gắn bó mật thiết với những kỷ niệm sâu sắc trong đời viết văn đời lính của NTT, cây xà nu để lại trong lòng nhà văn tình yêu mãnh liệt - “Rừng xà nu” gợi khí vị khó quên của núi rừng Tây Nguyên, sức sống bất diệt của cây xà nu và tinh thần bất khuất của con người. Như vậy, nhan đề “Rừng xà nu” vừa mang ý nghĩa thực (những đặc điểm và sức sống bất diệt của loài cây xà nu) vừa mang ý nghĩa tượng trưng (con người làng Xô Man kiên cường, bất khuất). Hai ý nghĩa này hòa quyện vừa làm nổi bật hình tượng sinh động của cây xà nu vừa đưa lại không khí Tây nguyên đậm đà cho tác phẩm. - Nhan đề Rừng xà nu còn gợi lên chủ đề tác phẩm cũng như cảm hứng sử thị, bi tráng của thiên truyện ngắn đặc sắc này. Đặt tên cho tác phẩm là Rừng xà nu dường như đã chứa đựng được cảm xúc của nhà văn và linh hồn , tư tưởng chủ đề tác phẩm. Hơn nữa, Rừng xà nu còn ẩn chứa cái khí vị khó quên của đất rừng Tây Nguyên, gợi lên vẻ đẹp hùng tráng, man dại- một sức sống bất diệt của cây xà nu và tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên.Bởi vậy, Rừng xà nu mang nhiều tầng nghĩa bao gồm cả ý nghĩa tả thực lẫn ý nghĩa tượng trưng. Câu 4: Tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành được thể hiện ở những khía cạnh nào? - Khuynh hướng sử thi thể hiện đậm nét ở tất cả các phương diện: đề tài, chủ đề, hình tượng, hệ thống nhân vật, giọng điệu,… + Đề tài – chủ đề : Rừng xà nu không chỉ kể về số phận, con đường giải phóng của dân làng Xô man, không chỉ là vấn đề sinh tử của 1 ngôi làng ở Tây Nguyên mà còn là của cả dân tộc VN. 3 + Hình tượng nhân vật : những nhân vật trong tác phẩm : cụ Mết, Tnu, Mai, Dít đều là những cá nhân anh hùng kết tinh cao độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người Việt Nam trong chiến đấu : yêu nước, yêu đồng bào, căm thù giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, căm thù giặc sâu sắc + Cách thức trần thuật: kể Tnú theo hồi tưởng qua lời kể của cụ Mết (già làng), kể bên bếp lửa gợi nhớ lối kể " khan" sử thi của các dân tộc Tây Nguyên, những bài "khan" được kể như những bài hát dài hát suốt đêm. + Giọng điệu : trang trọng, hùng hồn, uy nghiêm như muốn truyền lại cho con cháu mai sau những trang sử vẻ vang của cộng đồng + Bức tranh thiên nhiên : Hình ảnh rừng xà nu + Ngôn ngữ : mang sắc thái trang trọng, ngợi ca. Câu 5: Ý nghĩa biểu tượng hình ảnh những ngọn đồi, cánh rừng xà nu trải hút tầm mắt, chạy tít tắp đến tận chân trời luôn trở đi trở lại trong tác phẩm ? - RXN với kết cấu đầu cuối tương ứng bắt đầu và kết thúc bằng hình ảnh những đồi xà nu, RXN nối tiếp tít tắp đến tận chân trời thể hiện niềm tin vào sức sống của con người Xô man con người VN như 1 dòng chảy bất diệt. Kết thúc và mở đầu này tạo nên 1 dư âm không dứt mở ra 1 tương lai tự do và chiến thắng. - Kết cấu này mở ra một không gian rộng lớn gợi lên ý nghĩa : sức mạnh quật cường của con người không chỉ bó hẹp ở làng Xô man mà còn mở ra cả thiên nhiên, cả dân tộc Việt Nam - Gợi cho người đọc suy nghĩ câu chuyện chưa kết thúc. Đây chỉ là 1 chương, 1 bản bản anh hùng ca bất tận của thiên nhiên. Kỳ tích anh hùng của Tnu là sự tiếp tục của những gì Đăm Săn, Xinh Nhã đã làm thuở xưa và hứa hẹn sẽ được viết tiếp bởi những người anh hùng của thế hệ mới Câu 6. Ý nghĩa câu nói của cụ già Mết: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo !” Ý nghĩa của câu nói: Phải cầm vũ khí của mình khi kẻ thù đã cầm vũ khí Phải sử dụng bạo lực của chính nghĩa để đáp lại bạo lực phi nghĩa của quân thù. - Câu nói nêu lên một chân lí: có áp bức thì có đấu tranh muốn chống lại bạo lực phản cách mạng phải dùng bạo lực cách mạng, vũ trang nhân dân là con đường tất yếu để đấu tranh giải phóng - Lời cụ Mết đã trở thành di huấn của thế hệ trước đối với thế hệ sau. Câu nói bộc lộ lòng yêu nước, tinh thần cách mạng ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù. Câu 7: Theo anh (chị), hình ảnh cánh rừng xà nu và hình tượng nhân vật Tnú gắn kết hữu cơ, khăng khít với nhau như thế nào ? 4 - Hai hình tượng ấy không tách rời mà gắn bó khăng khít với nhau, bổ sung cho nhau để cùng trở nên hoàn chỉnh. RXN không thể trải mãi tới chân trời trong màu xanh bất diệt, khi con người còn chưa thấm thía bài học: chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo rút ra từ cuộc đời Tnú - Mặt khác, nếu con người có phải như Tnú, cầm vũ khí đứng lên, thì mục đích sau cùng của việc làm đó cũng không phải là hủy diệt, mà để giữ cho sự sống như cánh rừng kia mãi mãi sinh sôi - Nói cách khác sự sống của TQ của nhân dân, đó là mục đích; còn cầm vũ khí đứng lên đó là con đường duy nhất vào lúc bấy giờ có thể giúp chúng ta đạt được mục đích cao đẹp ấy. Câu 8 : Chi tiết đôi bàn tay Tnú. - Hình ảnh bàn tay Tnú là chi tiết nghệ thuật giàu sức ám ảnh – Bàn tay ấy cũng có một cuộc đời: +Khi còn lành: Đó từng là bàn tay trung thực và tình nghĩa, từng cẩm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho, từng cầm đá đập vào đầu khi quên chữ, từng đặt lên bụng mình mà nói “Cộng sản ở đây này”, từng được Mai cầm bàn tay ấy mà khóc khi Tnú thoát ngục trở về .... + Bàn tay khi bị đốt cháy: Đó còn là bàn tay của đau thương và thù hận, bàn tay trừng phạt : Khi giặc đốt 10 đầu ngón tay, bàn tay thành chứng tích của tôi ác và lòng hận thù. Hận thù đã khiến bàn tay Tnú thành bàn tay quả báo (mười ngọn đuốc từ ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của dân làng Xô Man; bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng lên đường trả hận. Đến cuối truyện, hình ảnh bàn tay Tnú đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc ngay trong hầm ngầm cố thủ của nó. - Qua hình ảnh bàn tay Tnú,nhà văn bày tỏ niềm thương cảm xót xa với nỗi mất mát đau thương của nhân dân miền Nam,ngợi ca sức sống kiên cường bất khuất của dân tộc.Từ đó nhà văn khẳng định chân lý về con đường giải phóng dân tộc. - Xây dựng nhân vật Tnú, tác giả tập trung miêu tả hình ảnh đôi bàn tay. Bàn tay như một chi tiết nghệ thuật thể hiện tính cách, qua bàn tay có thể thấy được cuộc đời, số phận và tính cách nhân vật. 2. Dạng câu hỏi 5 điểm: Câu 1. Hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu”. I. Mở bài - Giới thiệu về tác giả - tác phẩm. - Giới thiệu hình tượng cây xà nu. II. Thân bài 1. Vị trí, vai trò của cây xà nu trong tác phẩm - RXN được dùng để đặt tên cho tác phẩm xuất hiện ngay từ những dòng đầu trở đi trở lại theo diễn biến của câu chuyện và kết thúc bằng hình ảnh đầy dư ba : cả ba người đứng ở 5 đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì ngoài những rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời - RXN xuất hiện xuyên suốt tác phẩm được nhắc đến ngót 20 lần. Xà nu trở thành một nhân vật tham dự vào cuộc sống sinh hoạt chứng kiến mọi tâm tình bước đường trưởng thành của cách mạng Xô man. Xà nu bao trùm thiên truyện như một ám ảnh không dứt được miêu tả dưới nhiều góc độ : cây xà nu, đồi xà nu, rừng xà nu, nhựa xà nu, khói xà nu, lửa xà nu xông bảng để Mai và Tnú học chữ, lũ trẻ mặt lem luốc khói xà nu.... - Có thể nói người Xô man sinh ra dưới tán xà nu và lớn lên bên ánh lửa xà nu, xà nu trở thành 1 phần đời thân thiết nhất của họ. Dưới góc nhìn của NTT hình tượng RXN không chỉ có ý nghĩa tả thực về bức tranh thiên nhiên mà còn mang ý nghĩa biểu tượng để nói về con người Xô man Tây Nguyên bất khuất, kiên cường - Cây xà nu đã khơi nguồn cảm xúc để nhà văn sáng tạo như tác giả đã tâm sự: tôi chưa hình dung câu truyện, cốt truyện nhưng tôi đã thấy rõ truyện ngắn này sẽ bắt đầu bằng một khu rừng xà nu và kết thúc bằng một cánh rừng xà nu như 1 vĩ thanh cứ xa mờ dần và bất tận 2. Ý nghĩa tả thực của cây xà nu: a. Nguồn gốc : Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm trước hết như một loài cây đặc thù, tiêu biểu của miền đất Tây Nguyên : là một cây họ thông nhựa và gỗ rất thơm, có sức sống dẻo dai mạnh mẽ, thường mọc nhiều ở vùng rừng núi Tây Nguyên : ấy là một loại cây hùng vĩ và cao thượng, mỗi cây cao vút vạm vỡ tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi b. Đặc tính : - Ham ánh sáng mặt trời : cả rừng xà nu hàng vạn cây phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng trong rừng từ trên cao rọi xuống từng luồng thẳng tắp. Vì ham ánh nắng mặt trời luôn vươn thẳng lên bầu trời đầy ánh nắng mà mỗi cây xà nu được gia tăng sức sống, nở cành, xòe lá rồi tung ra những hạt bụi vàng từ nhựa cây lóng lánh thơm mỡ màng. Thật là 1 loại cây kì diệu cuốn hút lòng người - Khả năng sinh sôi nảy nở mãnh liệt + RXN nằm trong tầm đại bác của giặc nên hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị đạn đại bác chặt ngang mình đổ ào ào như một trận bão nhưng trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây mới ngã gục có 4, 5 cây con mọc lên ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. - Cây xà nu gắn bó thân thiết với cuộc sống người dân Tây Nguyên trong sinh hoạt hàng ngày, trong kí ức của người Xô man, trong đấu tranh chống giặc; là lá chắn bảo vệ làng Xô man trước đạn pháo giặc. + RXN tiềm tàng một khả năng sinh sôi mãnh liệt, dưới bom đạn của kẻ thù chúng vẫn lớn lên hùng vĩ điệp điệp trùng trùng như 1 đội quân hùng mạnh trở thành tường đồng vách sắt : cứ như thế 2, 3 năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng. Đây là lực lượng mạnh mẽ, vững vàng trực tiếp tham gia công cuộc kháng chiến : Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù - Sự tồn tại kì diệu 6 + Dưới bom đạn của kẻ thù những cây còn non không chịu được vết thương trên mình năm mười hôm sau thì cây chết. + Nhưng có những cây đã trưởng thành như những con chim đã đủ lông mao lông vũ cành lá sum sê thì đạn đại bác không thể giết nổi chúng. Chúng vượt lên rất nhanh để thay thế những cây đã ngã. Rõ ràng xà nu tiềm tàng một sức sống kì diệu mà bom đạn của kẻ thù không thể hủy diệt nổi c. Sự gắn bó của xà nu với dân làng Xô man - Xà nu là người che chở, bảo vệ cho dân làng : cứ như thế 3 năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng - Có mặt trong mọi đời sống sinh hoạt của con người : cây xà nu luôn có mặt trong mọi công việc của dân làng : củi xà nu cháy hồng bếp lửa mỗi nhà, trong đống lửa nhà ưng, đuốc xà nu cháy sáng soi rõ những con đường trong rừng đêm âm u, khói xà nu xông đen tấm bảng để anh Quyết dạy chữ cho Tnú và Mai - Xà nu chứng kiến những sự kiện quan trọng + Dưới gốc cây xà nu to Mai đã nắm lấy bàn tay Tnú ngày anh trốn ngục Công Tum trở về vừa hổ thẹn vừa thương yêu để họ nên vợ nên chồng + Xà nu còn chứng kiến ngày Tnú đọc lá thư tuyệt mệnh của anh Quyết để mài sắc lòng căm thù và ý chí chiến đấu của dân làng : đồng bào xã hội...tôi chết...người còn sức phải chuẩn bị giáo mác, rụ, rựa, tên, ná...sẽ có ngày dùng tới + Dưới ánh đuốc xà nu đêm đêm trai làng Xô man thức mài giáo chuẩn bị khởi nghĩa. Lửa xà nu còn thử thách ý chí của Tnú : không có gì đượm bằng nhựa xà nu ...mười đầu ngón tay đã trở thành 10 ngọn đuốc + Cây xà nu còn chứng kiến ý chí quật khởi của dân làng Xô man với lòng căm thù cao độ họ đã nổi dậy cả rừng xà nu ào ào rung động lửa cháy khắp rừng, đống lửa xà nu lớn giữa nhà soi rõ xác 10 tên lính giặc ngổn ngang 3. Ý nghĩa biểu tượng a. Xà nu là nhân chứng của tội ác chiến tranh hủy diệt mang những đau thương vô bờ mà nhân dân phải chịu đựng - Xà nu mở đầu truyện ngắn 1 cách lực lưỡng bi hùng : làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Từ câu văn này RXN xuất hiện trong tư thế của sự sống còn, trong cuộc đối đầu với cái chết với cơn bão táp của chiến tranh - RXN hàng vạn cây không cây nào là không bị thương có những cây bị đạn đại bác chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như 1 trận bão, có những cây non nhựa còn trong chất dầu còn loãng đạn đại bác bắn vào không lành 5-10 hôm sau thì cây chết ở những chỗ vết thương của xà nu dần bầm lại đặc quyện thành cục máu lớn - Hình tượng RXN với những thương tích gợi ta nghĩ đến nỗi đau thương của nhân dân Xô man cũng phải chịu với bao cảnh đầu rơi máu chảy khắp núi rừng Tây Nguyên đều in dấu vết tội ác của kẻ thù. Chúng đi trong rừng như cọp beo, lưỡi lê dính máu. Chúng treo cổ anh Sút lên cây vả đầu làng, chặt đầu bà Nhan cột tóc treo đầu súng. Không khí khủng bố trùm lên núi rừng với tiếng cười sằng sặc giần giật của thằng Dục ác ôn, tiếng gậy sắt nện xuống tấm thân nhỏ bé của mẹ con Mai. Nhựa xà nu đọng lại thành cục máu lớn đó 7 chính là máu của làng Xô man đã đổ xuống...Từ cánh rừng xà nu đau thương NTT đã cho người đọc thấy những thương tích của đất nước, quê hương trong chiến tranh nhắc ta nhớ tới ý thơ xót xa khắc khoải trong Đất nước – NĐT Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều b. Xà nu tượng trưng cho khát vọng tự do, khát vọng hướng về ánh sáng cách mạng của người Xô man - Bản chất của xà nu là loài cây ham ánh sáng mặt trời. Cây xà nu với hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp. Hình ảnh này không chỉ đặc tả sức sống mà còn đặc tả sức mạnh trỗi dậy vươn tới nắng trời và khao khát tự do của Xô man - Dân làng Xô man cũng như xà nu với lòng khao khát và tin yêu cách mạng, vì yêu tự do mà làm cách mạng. Cho nên mặc kẻ thù khủng bố nghe lời cụ Mết dạy : cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn. Trong những ngày đen tối ấy niềm tin với cách mạng là đuốc sáng dẫn đường cho nhân dân Xô man đi về phía tự do và họ đã chọn con đường tất yếu và tất thắng là con đường dùng bạo lực cách mạng để chống lại con đường phản cách mạng : chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo - Cây xà nu cây nào cũng có dáng đứng thẳng ngay ngắn, cứng cỏi trên đất cằn sỏi đá. Người Xô man cũng vậy họ không chấp nhận cuộc đời nô lệ tăm tối họ hướng về tự do với bản lĩnh kiên cường, bất khuất. Đây không chỉ là phẩm chất cao đẹp của người Xô man mà là phẩm chất của con người Việt Nam như trong thi phẩm Tre Việt Nam, Nguyễn Duy khẳng định : Loài tre đâu chịu mọc cong Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường c. Cây xà nu tượng trưng cho tinh thần yêu thương đoàn kết của người Xô man - Trong RXN có 3 thế hệ : cây cổ thụ, cây trưởng thành và cây non, những cây cổ thụ bảo vệ che chở cho những cây trưởng thành và cây non. RXN đan vào nhau trở thành 1 lũy thép khiến kẻ thù và đạn đại bác không thể hủy diệt được chúng - Đồng bào Xô man cũng vậy đó là một cộng đồng luôn có sự đoàn kết nhất trí yêu thương nhau. Khi quân giặc kéo về đàn áp cả làng không ai khai chỗ ẩn nấp của cán bộ cách mạng, không ai khai chỗ trú ẩn của cụ Mết, Tnú và đám thanh niên. Dưới mái nhà ưng hội tụ sức mạnh của cả buôn làng họ đoàn kết vùng lên giết chết 10 tên giặc giải thoát cho Tnú. Cũng chính ở đây họ tự hào về truyền thống bất khuất của dân tộc mình, cụ Mết kể lại cho con cháu nghe về cuộc đời bi tráng của Tnú –người con ưu tú của làng Xô man, cụ nhắc nhở con cháu : nhớ lấy, ghi lấy sau này tau chết chúng bay kể cho con cháu chúng bay nghe. d. Xà nu tượng trưng cho sức sống mãnh liệt, bất diệt của người Xô man Tây Nguyên - Càng trong đau thương thì xà nu càng kiên cường, bất khuất, đạn giặc không ngăn nổi sự tồn tại kỳ diệu của RXN. Cạnh 1 cây mới ngã gục đã có 4, 5 cây con mọc lên hình nhọn mũi tên, lao thẳng lên bầu trời. NTT đã không rè sẻn chất vàng son của ngôn từ để làm 8 sống dậy 1 RXN có sức sống mãnh liệt, đó là sự sống tồn tại trong lòng cái chết, mạnh hơn cái chết. Xà nu ưỡn tấm ngực lớn che chở cho buôn làng như 1 hiệp sỹ đúng như lời cụ Mết nói : không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta đó chúng nó giết hết RXN này - Với cách miêu tả RXN như trên làm ta liên tưởng đến những con người Tây Nguyên trong chiến tranh. Làng Xô man cũng như 1 RXN, đồi xà nu dồi dào sức sống tạo nên rừng gồm nhiều thế hệ anh hùng kế tiếp nhau nhanh chóng trưởng thành, anh Sút, bà Nhan ngã xuống đã có Mai, Tnu đứng lên, Mai ngã xuống có Dít nối tiếp. Người Xô nan cứ nối tiếp nhau bền bỉ, bất chấp sự hủy diệt của chiến tranh để chiến đấu và chiến thắng đúng như Tố Hữu từng viết : Lớp cha trước lớp con sau Đã thành đồng chí chung câu quân hành Hay Hoàng Trung Thông cũng khẳng định : Tôi lại viết bài thơ trên báng súng Con lớn lên đang viết tiếp thay cha Người đứng lên viết tiếp người ngã xuống Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua - RXN với kết cấu đầu cuối tương ứng bắt đầu và kết thúc bằng hình ảnh những đồi xà nu, RXN nối tiếp tít tắp đến tận chân trời thể hiện niềm tin vào sức sống của con người Xô man con người VN như 1 dòng chảy bất diệt. Kết thúc và mở đầu này tạo nên 1 dư âm không dứt mở ra 1 tương lai tự do và chiến thắng 4. Bút pháp NT khắc họa hình tượng rừng xà nu - Kết hợp miêu tả khái quát và cụ thể bằng thủ pháp điện ảnh. Ống kính của NTT lúc quay ra xa để ghi lấy toàn cảnh RXN, lúc lại quay gần để đặc tả vóc dáng vươn lên kiêu hãnh của từng cây xà nu giúp người đọc có cái nhìn vừa rộng vừa sâu vừa sinh động về núi rừng Tây Nguyên - Phối hợp các giác quan để miêu tả : khứu giác, mùi nhựa thơm ứa ra, vị giác thơm mỡ màng, thị giác một thế giới xà nu xanh bạt ngàn vươn lên trong tầm đại bác - NT nhân hóa : xà nu ưỡn tấm ngực lớn... - Khi miêu tả con người nhà văn say sưa so sánh xà nu : ngực cụ Mết căng như 1 cây xà nu lớn, nhựa xà nu như những cục máu lớn, những giọt máu trên lưng Tnu thâm tím như nhựa xà nu. - Các phép tu từ trên tạo thành 1 quan hệ đặc biệt giữa xà nu và con người, xà nu hòa vào con người, con người nhập vào xà nu, quan hệ ấy ánh lên đậm đà chất Tây Nguyên - Miêu tả cây xà nu nhà văn còn sử dung 1 giọng văn tha thiết đầy yêu thương khâm phục tự hào. Giọng văn ấy thể hiện bằng kết cấu đầu cuối tương ứng trùng điệp âm vang từ những câu văn đầy chất thơ kết hợp với những câu văn mang cảm xúc của cái Tôi. III. Kết luận: - NTT đã khắc họa thành công hình tượng cây xà nu hào hùng đầy sức sống của thiên nhiên và con người Tây Nguyên. - NT miêu tả cây xà nu có sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa chất thơ lãng mạn và chất sử thi bi hùng. 9 - RXN không chỉ tạo nên không gian sử thi cho truyện ngắn mà còn là khu rừng của thiên nhiên và con người, khu rừng đau thương mà hào hùng của thời đại đánh Mĩ. Câu 2: Phân tích hình tượng rừng xà nu trong đoạn trích sau (rút từ truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành): Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc (...). Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã... Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng...Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời. (Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, tr. 38) 1.Vài nét về tác giả, tác phẩm - Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, gắn bó mật thiết với vùng đất Tây Nguyên. - Rừng xà nu (1965) là tác phẩm văn xuôi tiêu biểu cho những sáng tác thời kì chống Mĩ cứu nước của tác giả. 2. Hình tượng rừng xà nu a. Về nội dung - Rừng xà nu tiêu biểu cho vẻ đẹp của núi rừng Tây Nguyên (qua dáng vóc, hình khối, màu sắc, hương thơm...). - Hình ảnh cánh rừng xà nu bị tàn phá là biểu tượng cho nỗi đau thương, mất mát của người dân Tây Nguyên trong chiến tranh. - Rừng xà nu là đối tượng của sự hủy diệt, mọi sự sinh tồn đang đứng trước mối đe dọa của diệt vong (Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc; hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu). - Nỗi đau thương hiện ra trong nhiều vẻ: có cái xót xa của những cây con (nhựa còn trong, chất dầu còn loãng...), có cái đau dữ dội trên những thân cây đang trưởng thành 10 (bị chặt đứt ngang nửa thân mình...), có nỗi đau chung của cả một cánh rừng (hàng vạn cây không có cây nào không bị thương...). - Rừng xà nu mang sức sống mãnh liệt tượng trưng cho tinh thần kiên cường bất khuất của con người Tây Nguyên. + Là loại cây khao khát sống, khao khát tự do, luôn vươn lên cao để tiếp nhận ánh sáng mặt trời (phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng). + Rừng xà nu bất khuất trước bom đạn: các thế hệ cây xà nu vẫn cường tráng mạnh mẽ vươn lên, nối tiếp nhau thách thức kẻ thù (cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên; hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời; ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng; những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời...). b. Nghệ thuật - Các biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh, ẩn dụ. - Lời văn giàu sức tạo hình, giàu nhạc điệu. - Sự hài hòa về màu sắc, đường nét, hình khối trong bút pháp miêu tả hình tượng góp phần làm cho đoạn văn mang âm hưởng sử thi. 3. Đánh giá chung - Hình tượng rừng xà nu nổi bật trong đoạn trích và xuyên suốt tác phẩm, tạo nên một không gian nghệ thuật đặc sắc, vừa bi tráng vừa giàu chất thơ. - Đoạn trích tiêu biểu cho phong cách văn xuôi Nguyễn Trung Thành. Câu 3. Chất sử thi trong “Rừng xà nu”. I. Khái quát về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn - Hướng đến khuynh hướng sử thi là hướng đến tiếng nói chung của cả cộng đồng, là VH của những sự kiện lịch sử, của số phận toàn dân, của chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật trung tâm cũng như người cầm bút phải đại diện cho cộng đồng, cho giai cấp, cho dân tộc và thời đại. Ngôn ngữ sử thi là ngôn ngữ trang trọng, tráng lệ, ngợi ca. - VH mang cảm hứng lãng mạn luôn hướng về lí tưởng, về tương lai, những thành tựu được nhân lên nhiều lần với kích thước tương lai, hướng vận động của tư tưởng cảm xúc luôn đi từ bóng tối ra ánh sáng, “Từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”(CLV). VH là nguồn sức mạnh to lớn khiến con người thời kỳ này có thể vượt mọi gian lao thử thách để vươn lên. 1. Biểu hiện thứ nhất về tính sử thi của “Rừng xà nu” được biểu lộ trước hết ở những sự kiện có tính chất toàn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô man hoàn toàn không có ý nghĩa cá biệt. Đó là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. (Tình thế bị o ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc sống đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ - Diệm thi hành luật 1059, khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người kháng chiến cũ. Khi làng Xô Man đứng dậy thì gương mặt của làng lúc này lại chính là gương mặt của cả nước trong 11 những ngày quyết tâm đánh Mĩ và thắng Mĩ - một gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh đón nhận những thử thách mới). 2. Biểu hiện thứ hai của tính sử thi trong “Rừng xà nu” là truyện ngắn đã xây dựng thành công hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể tới trong đó đều có tính đại diện cao, mang trong mình hình ảnh của cả một dân tộc. + Đó là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng trong cuộc đời chung. Tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản : gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng. + Chiến công của mỗi người tuy đa dạng mà thống nhất. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một người mà do tất cả mọi người viết ra. (Bản trường ca của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hoà của nhiều giọng. Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng là những nhân vật tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa cũng không chịu sống mờ nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập công, đều muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc) . à Dĩ nhiên, hình tượng văn học nào cũng là sự thống nhất giữa cái cá biệt và cái phổ quát, nhưng ở Rừng xà nu, cảm hứng hướng về cái chung đã mang tính chất chi phối. 3. Biểu hiện thứ ba của tính sử thi ở truyện ngắn “Rừng xà nu” là nó đã miêu tả các sự kiện, các nhân vật anh hùng từ một cái nhìn chiêm ngưỡng, khâm phục. Các chi tiết đời thường ít được nhắc tới. Nhà văn chỉ tâm đắc với những chi tiết nào có khả năng làm phát lộ được phẩm chất anh hùng của nhân vật. ( Tả cụ Mết, nhà văn chú ý tới giọng nói "ồ ồ dội vang trong lồng ngực" của cụ. Tưởng như trong tiếng cụ nói có âm vang của tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng của núi rừng, của lịch sử. Và quả thật, cụ là hình ảnh tượng trưng của truyền thống vững bền. Mỗi lời cụ thốt ra kết tinh trải nghiệm của cả một dân tộc. Nó cô đúc, sâu sắc, vang vọng như những chân lí. Chả thế mà cả làng Xô Man nghe như uống từng lời cụ nói và cả rừng xà nu cũng "ào ào rung động" như một sự hoà điệu, một sự tạo nền. Ngay cuộc đời của Tnú, một cuộc đời trải ra trong chính thời hiện tại cũng đã được lịch sử hoá và nhuốm màu huyền thoại. Đêm đêm bên bếp lửa nhà ưng, cụ Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng, cho thế hệ con cháu nghe. Anh đã trở thành niềm tự hào của làng, là một biểu tượng sống động của người anh hùng được tất cả ngưỡng vọng, học tập). 4. Biểu hiện thứ tư về tính sử thi của “Rừng xà nu” còn thể hiện ở giọng văn tha thiết, trang trọng mà tác giả đã sử dụng khi kể về sự tích của làng Xô Man. ( Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác say sưa. Ta bị cuốn theo câu chuyện không gì cưỡng nổi, tưởng mình đang được tắm trên một dòng sông mênh mang, tràn trề sinh lực, hoặc tưởng mình đang bị thôi miên bởi một bản nhạc giao hưởng hùng tráng). Câu 4. Phân tích hình tượng các thế hệ người dân làng Xô man trong RỪNG XÀ NU. 12 Dàn ý A. Mở bài: - Nguyễn Trung Thành được mệnh danh là nhà văn của Tây Nguyên bởi ông đã gắn bó máu thịt với mảnh đất này trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sự am tường về Tây Nguyên, niềm ngưỡng mộ những phẩm chất cao quý của đồng bào nơi đây đã giúp cho nhà văn gặt hái được những thành công rực rỡ về đề tài Tây Nguyên. - Truyện ngắn “Rừng xà nu” được viết khi Nguyễn Trung Thành đang ở vào độ chín của tài năng. Trong tác phẩm này, nhà văn không chỉ xây dựng một biểu tượng nghệ thuật tuyệt đẹp- rừng xà nu- nhằm tôn vinh sức sống bất tử kỳ diệu của mảnh đất Tây Nguyên những ngày đánh Mỹ mà còn xây dựng thành công hình tượng tập thể những ngưòi anh hùng. B. Thân bài 1. Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề - Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. “Rừng xà nu” được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ, in lần đầu trên tạp chí Văn Nghệ Quân Giải Phóng Trung Trung bộ, sau đó in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. - Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù tàn ác. 2. Phân tích a. Giới thiệu chung - Ta biết rằng nội dung chủ yếu của tác phẩm là kể về cuộc chiến đấu kiên cường của làng Xôman. Từ trong máu lửa dân làng đã kết thành một khối vững chắc đứng lên làm cách mạng bảo vệ cho cuộc sống tự do cho buôn làng. Các thế hệ khác nhau của làng đều có những đóng góp xứng đáng cho cuộc chiến đấu chung. Trong mỗi sự tích anh hùng đều có công lao của tập thể và trong mỗi chiến công chung đều có những đóng góp xứng đáng cuả mỗi thành viên anh hùng. b.Những nét chung - Trong tập thể anh hùng đó ta có thể cảm nhận những nét chung của họ: Họ đều là những con người Tây nguyên bất khuất thời chống Mỹ. Ở họ đều cháy lên lòng yêu nước, yêu thương buôn làng, lòng căm thù giặc cao độ. c. Những nét riêng - Tuy vậy, mỗi một nhân vật để lại trong trái tim độc giả những ấn tượng riêng. Phẩm chất kiên cường của họ cũng được biểu hiện khác nhau. Điều này đã làm cho bức chân dung của tập thể của những người anh hùng thêm đa dạng và phong phú . * Cụ Mết 13 - Đứng đầu tập thể anh hùng ấy là Cụ Mết. Cụ Mết là hiện thân của truyền thống, là pho sử sống của làng Xôman. Cụ là biểu tượng cho sức quật khởi của một truyền thống lịch sử hào hùng ở Tây Nguyên đúng như hồi ức của nhà văn: Ông là cội nguồn, là Tây Nguyên của thời “Đất nước đứng lên” còn trường tồn đến hôm nay, ông như lịch sử bao trùm nhưng khồng che lấp sự tiếp nối ngày càng mãnh liệt hơn, tự giác hơn của các thế hệ sau. - Nhân vật cụ Mết trở lên đặc biệt sống động trong tác phẩm nhờ nghệ thuật cá tính hoá nhân vật đặc sắc của nhà văn. Ở cụ vừa có nét tiêu biểu điển hình của những già làng Tây Nguyên thời chống Mỹ, vừa có những nét riêng biệt độc đáo. - Đọc tác phẩm, hình ảnh của cụ Mết đã khiến cho độc giả liên tưởng đến một cây xà nu cổ thụ giữa buôn làng, luôn vững vàng trước phong ba bão táp. Cụ Mết đã được nhà văn miêu tả trong sự so sánh đối chiếu với cây xà nu. “Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài mà vẫn đen bong, mắt vẫn sang và xếch ngược… Ông ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn”, đôi bàn tay sần sùi như vỏ cây xà nu, bàn tay nặng trịch. - Giọng nói của cụ Mết thì “ồ ồ, dội vang trong lồng ngực” như mang trong đó âm vọng của những cánh rừng Tây Nguyên bạt ngàn hùng vĩ. Như tất cả những người dân Xô man khác, cụ Mết rất ít nói. Lời nói khen tặng cao nhất chỉ là “được” nhưng những lời lẽ của cụ lại có một sức mạnh cổ vũ động viên rất lớn đối với dân làng. Mỗi lời dặn dò nhắc nhở của cụ đều là những bài học quý báu, thể hiện niềm tự hào về sức mạnh Tây Nguyên. Cụ đã nói về rừng xà nu của làng mình: Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã cây con mọc lên…. Có những lúc lời nói của cụ Mết trở thành chân lý được những người như Tnú ghi lòng tạc dạ: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Cụ Mết còn dặn dò các thế hệ cháu con về một bài học xương máu được tổng kết từ chính cuộc đời của Tnú : “ Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” đó đâu phải là sự chiêm nghiệm từng trải của một đời người mà là sự chiêm nghiệm từng trải của cả một dân tộc trong đau thương chiến tranh. .- Cụ Mết luôn giáo dục ý thức cách mạng cho dân làng bên ánh lửa xà nu bập bùng. Với một giọng nói trầm ấm trang nghiêm, cụ đã kể cho dân làng nghe về cuộc đời của Tnú. Trong lời kể của cụ có một cái gì đó thật thiêng liêng hệt như một câu chuyện lịch sử, một huyền thoại của thời đại. Từ những câu chuyện ấy, cụ Mết đã khơi dậy trong tâm hồn mỗi người lòng yêu thương buôn làng, yêu quê hương đất nước, lòng trung thành tuyệt đối vào Đảng, vào cách mạng. Cụ Mết cũng chính là người chỉ huy trực tiếp cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Đó là sự chỉ huy sáng suốt giàu kinh nghiệm và uy lực. Cụ đã bình tĩnh chỉ huy dân làng vùng dậy tự trang bị vũ khí mài bằng đá núi Ngọc Linh, chém chết tiểu đội lính nguỵ, giải thoát cho Tnú, đốt lên ngọn lửa đồng khởi cháy khắp núi rừng Tây Nguyên. Hình ảnh cụ Mết chống giáo chỉ huy dân làng trong ánh lửa xà nu bừng bừng khiến cho ta nhớ đến các nhân vật trong sử thi Tây Nguyên. Có thể nói nhân vật cụ Mết đã trở thành một cơ sở quan trọng tạo nên vẻ đẹp sử thi hùng tráng trong truyện ngắn đặc sắc này. - Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh những phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyễn trung Thành muốn khẳng định vai trò 14 của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ. Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ với truyền thống, với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít, của bé Heng có sự trưởng thành lớn lao. * Tnú: .- Trong tác phẩm “Rừng xà nu”, độc giả không thể quên hình ảnh Tnú không phải chỉ bởi đây là nhân vật trọng tâm của tác phẩm mà còn bởi những tính cách mạnh mẽ ngoan cường của anh. -Tnú là ngưòi con ưu tú của làng Xô Man đã lớn lên trong máu lửa của cuộc chiến tranh , đã vượt qua những mất mát đau thương của cuộc đời để chiến đấu và trở thành một chiến sĩ giải phóng. Nét tính cách chủ yếu của anh là sự mạnh mẽ quyết liệt mang đặc trưng tính cách của người dân Tây Nguyên. - Tnú vốn là một đứa trẻ mồ côi, anh đã lớn lên bằng sự cưu mang đùm bọc của dân làng Xô Man. Anh sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng và đã theo bước dân làng hoà mình vào con dường do Đảng đã vạch ra. Sự can đảm ngoan cường của Tnú cùng với sự dữ dội quyết liệt của anh dã được thể hiện từ những ngày thơ ấu. Khi cách mạng bị địch khủng bố ráo riết, chúng treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, chặt đầu bà Nhan treo đầu súng, Tnú đã không nhụt chí, anh đã tiếp tế cho bộ đội, nuôi giấu cán bộ với một niềm tin: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nứoc này còn.”. Niềm tin giản dị ngây thơ mà cũng rất chân thành mãnh liệt. - Học chữ hay quên nhưng Tnú lại rất thông minh và nhanh trí khi làm nhiệm vụ. Lúc đi liên lạc, Tnú không bao giờ đi đường mòn, bị giặc bao vây khắp các ngả đưòng Tnú leo lên cây cao giữa rừng tìm quanh một lượt rồi sau đó xé rừng mà đi. Khi qua song, Tnú thường chọn những đoạn có thác dữ cho địch khỏi phát hiện. Hình ảnh chú bé cưỡi lên con thác băng như một con cá kình là một hình ảnh tuyệt đẹp cho thấy khí phách và bản lĩnh của một thiếu niên Tây Nguyên ngoan cường, dũng cảm. Có lần khi vựot qua thác sông Đắc Năng, Tnú đã bị kẻ thù phục kích bắt được, cậu chỉ kịp nuốt là thư vào bụng. Kẻ thù tra tấn hết sức dã man, Tnú đã can đảm chỉ tay vào bụng mà nói: “Cộng sản ở đây ”. Đó không phải là câu trả lời mà là một lời thách thức. Hành động quả cảm của Tnú đã cho thấy lòng trung thành tuyệt đối của người dân Tây Nguyên đối với Đảng. Trong những gian khổ hy sinh thử thách tàn khốc thì lòng trung thành ấy càng toả sáng. Đảng đã tồn tại trong tâm hồn những người dân Tây Nguyên bất khuất kiên cường như Tnú . Hình ảnh Tnú thời thơ âú với tất cả sự ngộ nghĩnh, gan dạ, trung thành, kiên cường đã tạo tiền đề để tạo nên một Tnú anh hùng dũng cảm về sau .- Giống như một cây xà nu vươn lên một cách kiêu dũng trong đau thương mất mát, sau những năm bị tù đầy, Tnú đã vượt ngục trở về làng. Anh thực sự đã trưởng thành, lúc này cán bộ Quyết cũng đã hy sinh. Tnú đã tiếp tục nuôi dưỡng ngọn lửa đấu tranh cách mạng, chuẩn bị vũ khí cho đồng khởi. Chính anh đã đi bộ ba ngày đường lên núi Ngọc Linh mang về một gùi nặng đá mài ( không phải là một xà lét đựng đầy đá trắng như trước đây) để dân làng mài giáo mác, phát nương rẫy và chuẩn bị cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng, núi rừng hùng vĩ. 15 - Quân giặc đã bao vây làng Xô Man quyết bóp chết mầm cách mạng từ trong trứng nước. Hiểu được vai trò của Tnú, chúng đã tìm cách để bắt anh, kẻ thù đã giở ngón đòn hiểm độc là tra tấn vợ con Tnú. Lòng căm thù, nỗi đau khi chứng kiến cảnh vợ con bị địch tra tấn đã biến đôi mắt anh thành hai cục lửa lớn. Anh đã xông vào quân giặc. Mẹ con Mai chết, anh bị kẻ thù bắt trói, chúng đã tẩm nhựa xà nu và đốt mười đầu ngón tay anh. “Mười ngón tay anh đã thành mười ngọn đuốc”. Tnú không kêu van một tiếng nào, bởi “Người cộng sản không thèm kêu van”. “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Tnú trừng trừng ném căm giận vào kẻ thù. Mười ngọn đuốc từ đôi tay Tnú đã châm ngòi cho cuộc khởi nghĩa của làng XôMan. Tnú thét lên, tiếng thét ấy như một lời hiệu triệu, kêu gọi dân làng cầm vũ khí đứng lên. * Tóm tắt số phận: - Nhỏ: mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống nhờ vào cự cưu mang đùm bọc của dân làng. - Trưởng thành: Số phận của Tnú giống như số phận của người làng Xô Man: + Có gia đình, vợ, con nhưng đều bị giặc sát hại dã man. + Bản thân Tnú cũng mang thương tích trên thân thể - hậu quả của những đòn tra tấn của kẻ thù: tấm lưng lằn ngang dọc, bàn tay cụt mười ngón. * Phẩm chất - Là một chú bé gan góc, táo bạo, trung thực, trung thành với cách mạng (giặc khủng bố dã man vẫn cùng Mai hăng hái vào rừng nuôi cán bộ, quyết tâm học tập để làm cán bộ, gan dạ dũng cảm khi làm giao liên, bị giặc bắt, tra tấn, quyết không khai, chỉ tay vào bụng Cộng sản ở đây…).Khi lớn lên, Tnú trở thành người lãnh đạo dân làng Xô Man bình tĩnh vững vàng chống Mĩ Diệm. - Yêu thương vợ con, dân làng và quê hương (chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù hành hạ, biết là thất bại, anh vẫn xông ra cứu. Xa làng Tnú nhớ làng, nhớ âm thanh vfa nhịp điệu sinh hoạt của làng; khi về, anh nhớ tất cả mọi người…). - Biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân để dũng cảm chiến đấu, trả thù cho quê hương và gia đình (Khi xông ra cứu vợ con, anh bị bắt đốt mười đầu ngón tay, Tnú quyết không kêu van à tiếng thét của anh trở thành hiệu lệnh cho dân làng giết giặc. Dù mất vợ con, dù hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt, Tnú vẫn nén đau thương, tham gia lực lượng vũ trang để góp phần giải phóng quê hương…). - Có tinh thần kỉ luật cao: Ba năm đi bộ đội, dù nhớ làng nhưng được phép cấp trên mới dám về thăm làng. Khi được về thăm làng, dù rất lưu luyến song anh chấp hành đúng qui định, ở lại một đêm rồi đi… * Tác giả đặc biệt miêu tả đôi bàn tay của Tnú, gây ấn tượng sâu sắc và đậm nét, qua đó hiện lên cả cuộc đời và tính cách nhân vật (bàn tay khi còn lành lặn là bàn tay trung thực, nghĩa tình: Cầm phấn học chữ, cầm đá mài giáo, đặt lên bụng khi bị tra tấn, cầm tay Mai; với hai bàn tay không xông ra cứu vợ - Bàn tay bị giặc đốt cụt, trở thành mười ngọn đuốc trở thành chứng tích tội ác của kẻ thù – Bàn tay còn hai đốt vẫn cầm được súng để bảo vệ quê hương…). Tóm lại: 16 - Tnú là nhân vật có tính sử thi: số phận và phẩm chất của anh ta tiêu biểu cho con người Xô Man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung. - Cảm hứng, giọng điệu chủ đạo là ca ngợi - Làm phong phú thêm chân dung con người Việt Nam anh hùng trong kháng chiến chống Mĩ. c. Dít: Cùng với Tnú là đại diện cho thế hệ thanh niên, là lực lượng chiến đấu chính của dân làng – những cây xà nu đã trưởng thành. - Phẩm chất gan dạ, dũng cảm. - Tôn trọng kỉ luật. d. Bé Heng: - Đại diện cho thế hệ măng non sẵn sàng tiếp bước cha anh. Rất háo hức tham gia đánh giặc, rất thông thuộc, tự hào về trận địa của dân làng. Tóm lại: Các thế hệ nhân dân Xô Man tiếp nối trong cuộc chiến đấu, càng về sau càng lớn mạnh. Nhà văn đã xây dựng được hệ thống nhân vật tiêu biểu, có tác dụng làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ. => Tác phẩm đã khắc họa được tập thể nhân dân anh hùng, gắn bó với nhau trong thời đại anh hùng, vừa mang dấu ấn của thời đại chống Mĩ, vừa mang phóng cách của núi rừng Tây Nguyên. . Câu 5. Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn “ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành” Dàn bài gợi ý I/ Mở bài: - Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm. - Giới thiệu về nhân vật Tnú. II/ Thân bài: Học sinh có thể tìm ý và sắp ý theo chiều hướng khác nhau, nhưng phải đạt được các ý chính: - Giới thiệu khái quát về nhân vật: Tnú là người Strá, mồ côi cha mẹ từ rất sớm, được dân làng Xô Man cưu mang- đùm bọc. Từ nhỏ Tnú đã giác ngộ cách mạng và làm liên lạc cho cách mạng rất thông minh, gan dạ, giàu tự trọng.. - Lần lượt phân tích những biểu hiện phẩm chất anh hùng của Tnú: 1/ Một con người gan góc, táo bạo, dũng cảm, mưu trí, căm thù giặc sôi sục, trung thành tuyệt đối với cách mạng: + Tiếp tế cho các cán bộ ở trong rừng mà không sợ bị chặt đầu hoặc treo cổ. + Làm liên lạc, giặc vây các ngả đường thì xé rừng mà đi, qua sông lựa chỗ thác mạnh mà bơi, “vì chỗ nước êm thằng Mĩ hay phục”. + Bị giặc bắt thì nuốt luôn cái thư vào bụng, bị tra tấn không khai; một mình xông ra giữa vòng vây của kẻ thù trong tay không có vũ khí; bị giặc bắt, bị đốt mười đầu ngón tay vẫn không kêu than... + Học chữ thua Mai thì lấy đá đập vào đầu -> lòng tự trọng và ý chí quyết tâm cao. 17  Phẩm chất anh hùng là cơ sở để làm nên hành động anh hùng của Tnú. 2/ Một người biết vươn lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân: + Mồ côi, được dân làng nuôi nấng, sau này trở thành người con ưu tú của dân làng. + Bản thân 2 lần bị giặc bắt, bị tra tấn dã man( tấm lưng chằng chịt những vết chém, hai bàn tay bị đốt mỗi ngón chỉ còn lại hai đốt; vợ con bị giặc giết hại...) Tnú không khuất phục, kiên cường, bền gan gia nhập bộ đội để cầm súng bảo vệ dân làng, quê hương, đất nước. 3/ Là người có ý thức và tinh thần kỷ luật cao:Xa bản làng ba năm, tuy nhớ nhà, nhớ quê hương, nhưng phải được cấp trên cho phép anh mới về và chỉ về đúng một đêm như qui định trong giấy phép. 4/. Là một người giàu tình yêu thương người thân và quê hương bản làng: - Yêu thương vợ con: Chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn dã man anh không kìm được nỗi đau đang đốt cháy lòng mình: “anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy (...) ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn” --->Yêu thương – căm thù đốt cháy trong hai con mắt - một chi tiết dữ dội, bi thương. - Yêu bản làng, yêu quê hương đất nước: Trên đường trở về thăm làng, Tnú nhớ từng gốc cây, nhớ tiếng chày giã gạo....cũng chính vì tình yêu quê hương mà Tnú đã tham gia là cách mạng, chịu nhiều đau thương....vì sự yên bình của quê hương, đất nước.  Tnú là một nhân vật tư tưởng có sôi lôi cuốn không chỉ bởi tính triết lý mà còn mà còn bởi tính trữ tình, tính hình tượng. Đặc biệt hình ảnh bàn tay Tnú là chi tiết nghệ thuật giàu sức ám ảnh – Bàn tay ấy cũng có một cuộc đời: + Đó từng là bàn tay trung thực và tình nghĩa, từng cẩm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho, từng cầm đá đập vào đầu khi quên chữ, từng đặt lên bụng mình mà nói “Cộng sản ở đây này”, từng được Mai cầm bàn tay ấy mà khóc khi Tnú thoát ngục trở về .... + Đó còn là bàn tay của đau thương và thù hận : Khi giặc đốt 10 đầu ngón tay, bàn tay thành chứng tích của tôi ác và lòng hận thù. Hận thù đã khiến bàn tay Tnú thành bàn tay quả báo (mười ngọn đuốc từ ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của dân làng Xô Man; bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng lên đường trả hận.... => Đánh giá: - Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đến với CM của nhân dân TN, làm sáng tỏ chân lý của thời đại đánh Mĩ: chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo. - Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí chính là bi kịch của người dân Stra khi chưa giác ngộ chân lý CM III/. Kết bài: - Chân lý cách mạng là chân lý từ máu và nước mắt, nó đồng nghĩa với chân lý cuộc sống. Cuộc đời Tnú là bằng chứng sống cho qui luật nghiệt ngã ấy. - Câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú - cuộc đời của một con người mang ý nghĩa cuộc đời của một dân tộc. Có thể nói nhân vật Tnú mang đậm tính sử thi – nhân vật ấy gánh nặng số phận lịch sử. 18 - Dù có nhiều dị biệt, Tnú vẫn là kiểu nhân vật sánh vai với các anh hùng trong trường ca Đam San, Xinh Nhã của núi rừng Tây Nguyên. II. NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (Nguyễn Thi ) 1. Dạng câu hỏi 2 điểm: Câu 1. Trình bày những nét cơ bản về tác giả Nguyễn Thi. + Nguyễn Thi (1928- 1968) tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca, quê ở Hải Hậu- Nam Định. + Nguyễn Thi sinh ra trong một gia đinh nghèo, mồ côi cha từ năm 10 tuổi, mẹ đi bước nữa nên vất vả, tủi cực từ nhỏ. Năm 1943, Nguyễn Thi theo người anh vào Sài Gòn ; năm 1945, tham gia cách mạng ; năm 1954, tập kết ra Bắc ; năm 1962, trở lại chiến trường miền Nam. Nguyễn Thi hy sinh ở mặt trận Sài Gòn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. + Nguyễn Thi còn có bút danh khác là Nguyễn Ngọc Tấn. Sáng tác của Nguyễn Thi gồm nhiều thể loại: bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết. Ông đợc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. + Đặc điểm sáng tác: Nguyễn Thi gắn bó với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ. Nhân vật của Nguyễn Thi có cá tính riêng nhưng tất cả đều có những đặc điểm chung "rất Nguyễn Thi". Đó là: - Yêu nước mãnh liệt, thủy chung đến cùng với Tổ quốc, căm thù ngùn ngụt bọn xâm lược và tay sai của chúng, vô cùng gan góc và tinh thần chiến đấu rất cao - những con người sinh ra để đánh giặc. - Tính chất Nam Bộ: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan, yêu đời, giàu tình nghĩa. Câu 2. Hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn và tóm tắt tác phẩm Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi). - Hoàn cảnh ra đời: “ Những đứa con trong gia đình” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi, được viết 2- 1966 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ và tay sai đang trong những ngày chiến đấu ác liệt. Khi đó, nhà văn đang công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng. TP được in trong tập truyện và kí của Nguyễn Thi. - Tóm tắt tác phẩm: Việt và Chiến là hai chị em cùng sinh ra trong một gia đình nông dân Nam Bộ giàu truyền thống cách mạng. Ông nội và bố mẹ Việt đều bị giặc Mĩ giết hại. Gia đình chỉ còn lại Việt, chị Chiến, út em, chú Năm và người chị nuôi đi lấy chồng xa. Truyền thống cách mạng vẻ vang của gia đình đã thôi thúc hai chị em Việt hăng hái tòng quân giết giặc. Trong một trận đánh lớn, Việt dùng thủ pháo diệt một xe bọc thép Mĩ, bị thương và lạc đơn vị. Việt ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần. Trong cơn mê sảng, Việt nhớ về những kỉ niệm vui buồn tuổi thơ ấu. Sau ba ngày đêm, anh Tánh, đồng đội của Việt cùng tiểu đội mới tìm thấy Việt trong một lùm cây rậm và đưa Việt về bệnh viện. Sức khoẻ dần hồi phục, anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến kể về chiến công của mình. Việt nhớ chị Chiến 19 muốn viết thư nhưng không muốn kể chiến công vì Việt thấy chưa thấm tháp gì so với chiến công của đơn vị và những ước mong của má. Câu 3. Ý nghĩa nhan đề và chủ đề của tác phẩm Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi). - Ý nghĩa nhan đề: Nhan đề tác phẩm không chỉ có giá trị thông báo về vị trí thế hệ của hai nhân vật chính mà còn gợi nhiều ý nghĩa: + Đó là những con người được nuôi dưỡng và trưởng thành trong gia đình có truyền thống tốt đẹp, đáng tự hào. + Họ là những con người đã tiếp nối xứng đáng truyền thống cách mạng của gia đình. + Vai trò của gia đình với truyền thống đất nước: Các thế hệ trong gia đình, các gia đình nối tiếp nhau làm nên truyền thống đất nước. Truyền thống gia đình gắn bó hòa quyện với truyền thống đất nước. => Nhan đề hay, giàu ý nghĩa. - Chủ đề tác phẩm: Khẳng định, ngợi ca mối liên hệ bền chặt, thiêng liêng giữa các thế hệ trong gia đình, giữa những người con trong một gia đình Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thuỷ chung son sắt với quê hương cách mạng. Chính sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Câu 4. Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi (SGK Ngữ Văn 12, Tập 1,NXB Giáo Dục 2011)có nhắc đến cuốn sổ gia đình mà chú Năm cất giữ và giao cho Chiến và Việt khi hai chị em chuẩn bị lên đường. Cuốn sổ ấy có ý nghĩa như thế nào? Việc Chú Năm trao cuốn sổ cho Chiến và Việt đã khẳng định điều gì? - Giới thiệu truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi - Chi tiết cuốn sổ gia đình của Chiến và Việt là một sáng tạo độc đáo đầy ý nghĩa: + Là cuốn sổ ghi lại những đau thương mất mát và chiến công của gia đình được chú Năm gìn giữ và ghi chép tỉ mỉ , chi tiết bằng nét chữ “lòng còng”,lời văn giản dị , mộc mạc. + Cuốn sổ là bằng chứng nóng hổi về tội ác của kẻ thù và sự kiên cường dũng cảm và chiến công của gia đình, cuốn sổ là một kiểu gia phả, một hình thức giáo dục lòng tự hào về truyền thống gia đình… + Chú Năm giao cuốn sổ cho Chiến và Việt khẳng định hai chị em đã trưởng thành để gánh vác trách nhiệm và ghi tiếp truyền thống gia đình, hành động ấy còn gửi gắm niềm tin tưởng của chú Năm vào Chiến và Việt-khúc sông sau đầy mạnh mẽ của dòng sông truyền thống gia đình… Câu 5. Chi tiết hai chị em Chiến và Việt khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm diễn ra trong hoàn cảnh nào? Ý nghĩa của chi tiết hai chị em Chiến và Việt khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan