Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Chuyên đề BD VỢ NH ẶT KIM LÂN

.DOC
22
1819
118

Mô tả:

CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH ÔN ĐẠI HỌC – CAO ĐẲNG MÔN NGỮ VĂN – LỚP 12 Tác giả chuyên đề: Nguyễn Thị Hồng Châm Chức vụ: TTCM Tổ Văn – Sử - Địa – GDCD Đơn vị công tác: Trường THPT Sông Lô Dự kiến số tiết bồi dưỡng: 08 tiết. ĐẶT VẤN ĐỀ Qúy thầy, cô giáo và các em học sinh thân mến! Có thể nói, chưa bao giờ nguồn lài liệu tham khảo cho việc dạy – học Ngữ văn trong nhà trường lại phong phú và sẵn có như hiện nay. Cùng với nguồn tư liệu truyền thống từ sách, báo…, nhờ những thành tựu trong ứng dụng công nghệ thông tin, chúng ta được tiếp cận những tài liệu tham khảo vô cùng phong phú từ Iternet. Tuy nhiên không phải ai cũng có thời gian, điều kiện kiếm tìm những nguồn lài liệu vô cùng phong phú ấy để có được những trang tham khảo cần thiết trong quá trình dạy – học, đặc biệt là quá trình bồi dưỡng ôn thi ĐH – CĐ. “Chuyên đề Vợ nhặt” (Tìm hiểu tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân) do tôi biên soạn, với mong muốn: góp thêm vào nguồn tư liệu tham khảo khi dạy và học tác phẩm này. Cấu trúc của chuyên đề này được biên soạn như sau: A. HỆ THỐNG KIẾN THỨC CƠ BẢN VÀ NÂNG CAO. Phần I: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm. Phần II: Đọc – hiểu văn bản. B. CÁC DẠNG CÂU HỎI ÔN LUYỆN VÀ GỢI Ý Phần I. Dạng câu hỏi 2 điểm. Phần II. Dạng câu hỏi 5 điểm. Phần III. Dạng câu hỏi so sánh. C. KẾT LUẬN CHUNG D. TƯ LIỆU THAM KHẢO 29 A. HỆ THỐNG KIẾN THỨC CƠ BẢN VÀ NÂNG CAO. PHẦN I: GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM I. Tác giả Kim Lân (1920 – 2007): Kim Lân (1920-2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Sinh ra trong một gia đình nghèo, do đó ông chỉ học hết bậc tiểu học rồi vừa phải đi làm thợ kiếm sống (sơn guốc, khắc trang bình phong) vừa viết văn. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Năm 1944, ông tham gia Hội văn hóa cứu quốc; và từ đó cho đến cuối đời, ông liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ cách mạng, phục vụ kháng chiến (viết văn, làm báo, đóng phim, diễn kịch). Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông là khung cảnh làng quê và hình tượng người nông dân. Đó là mảng hiện thực ông gắn bó và hiểu biết sâu sắc. Ông có những trang viết rất đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê: những thú chơi và sinh hoạt văn hóa cổ truyền của người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ được gọi là những “thú đồng quê” hay “lưu phong đồng ruộng” như non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà…Ông viết chân thực và xúc động về đời sống người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ. Sáng lên trong tác phẩm của ông là vẻ đẹp tâm hồn người nông dân Việt Nam: nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật thà, chất phác mà thông minh hóm hỉnh, tài hoa. Năm 2001, Kim Lân được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Tác phẩm tiêu biểu: Nên vợ nên chồng(Tập truyện ngắn,1955); Con chó xấu xí(Tập truyện ngắn, 1962); Tuyển tập Kim Lân (1996). II. Truyện ngắn “Vợ nhặt”: 1. Bối cảnh của câu chuyện: - Bối cảnh của tác phẩm là nạn đói khủng khiếp do phát xít Nhật và thực dân Pháp gây ra đầu năm Ất Dậu (1945), làm hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói: Có làng chết gần hết; có nhà chết chẳng còn ai; nhiều người chết lả trên đường đi, chết gục bên gốc cây, chết lăn nơi ngòi rãnh, hè nhà, quán chợ…Nhiều gia đình, nhiều người phải ăn cháo cám, rau má, củ chuối cầm hơi…mà vẫn không thoát chết. Sự kiện bi thảm này đã được miêu tả trong các bài thơ nổi tiếng Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc (Văn Cao), Xuân đến và Đói!Đói! (Tố Hữu); trong các tác phẩm Địa ngục (Nguyên Hồng), Mười năm (Tô Hoại), Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi)…Trong những tác phẩm viết về nạn đói năm 1945, Vợ nhặt là tác phẩm có giá trị đặc biệt. Hiện thực về nạn đói thê thảm ấy hắt bóng đen lên từng trang viết, ám ảnh tâm trí người đọc từ đầu đến cuối tác phẩm. Đồng thời từng trang viết của tác phẩm cứ lấp lánh sáng lên niềm khát khao mãnh liệt của người dân lao động nước ta về hạnh phúc gia đình, niềm tin bất diệt của họ đối với sự sống và tương lai, là tình yêu thương, cưu mang đùm bọc lẫn nhau của những con người nghèo khổ ngay cả khi mấp mé bên bờ vực của cái chết. 30 - Tác phẩm có giá trị hiện thực sâu sắc, có giá trị nhân đạo cao cả, xứng đáng là truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Có nhà nghiên cứu văn học đã xếp Vợ nhặt vào loại gần như “thần bút”. 2.Xuất xứ: Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí(1962).Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được Kim Lân viết ngay sau cách mạng tháng Tám 1945. Truyện được khơi nguồn cảm xúc từ nạn đói khiến hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra. 3. Tóm tắt: + Tràng là một thanh niên nghèo ở xóm ngụ cư với mẹ già,làm nghề kéo xe thuê. + Trong nạn đói, một lần kéo thóc lên tỉnh, anh gặp một người con gái ngồi lượm thóc ở nhà kho. Qua vài câu đưa đẩy, họ quen nhau.Thời gian sau anh gặp lại cô gái nhưng đói rách tả tơi thảm thương. Tràng đãi cô ta một bữa bốn bát bánh đúc và chỉ một câu nói đùa của Tràng mà cô sẵn sàng theo anh về làm vợ. + Tràng đưa vợ về nhà trong sự ngỡ ngàng của dân xóm ngụ cư, cũng như sự buồn tủi của bà cụ Tứ - mẹ Tràng. Nhưng khi hiểu ra, thương xót cho hoàn cảnh của mình, của Tràng và cả người đàn bà ấy, bà đã vui vẻ chấp nhận con dâu mới. + Đêm tân hôn của Tràng diễn ra trong không khí tái tê của nạn đói. Hôm sau, căn nhà thay đổi hẳn dưới bàn tay quét dọn của hai người đàn bà. Riêng Tràng, anh cảm thấy mình “nên người”, thấy gắn bó và có trách nhiệm hơn với gia đình. + Bữa cơm ngày cưới có cả tiếng cười và cũng có cả sự hiện diện của nạn đói qua niêu cháo lõng bõng và nồi “chè khoán”, miếng cám chát đắng nhưng họ cùng hướng về cuộc sống đổi mới. Trong óc Tràng hiện lên đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ phấp phới. PHẦN II: ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN 31 1. Ý nghĩa nhan đề - Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa. - “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. 2.Tình huống truyện - Tình huống truyện : Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh. - Tình huống lạ, độc đáo: người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo! Thời buổi đói khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ! Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó. - Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. 3. Cảm nhận về các Nhân vật 3.1/Nhân vật Tràng *Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát: - Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu. - Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.  Hoàn cảnh xuất thân : khó lấy được vợ. - Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được vợ. Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”. + Lần gặp thứ nhất : Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt “Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế. + Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết, hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị “Này có về ở với tôi thì ra khuôn hàng lên xe rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết định “đèo bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ” * Niềm hạnh phúc khi có vợ : - Khi Tràng đưa vợ về qua xóm ngụ cư : tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc nhiên của người 32 dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người- Tràng đã có vợ. - Khi Tràng đưa vợ về đến nhà : Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói “Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói cục cằn kia bỗng văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô “vợ nhặt” và thắc mắc với lòng mình “Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt. Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái. Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa vây. - Tràng - trong buổi sáng ngày hôm sau : + Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”. + Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong; hai cái ang nước vẫn để khô cong duới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng những cảnh tượng rất đỗi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với anh thật giản dị. + Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. + Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm - đó là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa. + Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây. + Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn ngập sự đầm ấm, hoà hợp. - Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta. 3.2/ Nhân vật Thị (người “vợ nhặt”) - Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình… môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. - Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và tính cách của chị: + Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy” + Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)…Thị cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh... cắm đầu ăn một chặp bốn bát 33 bánh đúc... ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống. - Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt. - Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động: + Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận. + Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng. + Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương - Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người. - Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân + Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Nạn đói do chúng gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người và biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể nhặt được. + Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt. 3.3/Nhân vật Bà cụ Tứ : - Nhà văn Kim Lân tâm sự: “ Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị “vợ nhặt” xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau. - Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế. 34 - Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn. Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót. - Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng. - Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một tương lai tươi sáng phía trước: + Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá. + Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán - cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại. + Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “chớ than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”. - Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi. 35 Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ. 4. Giá trị hiện thực, nhân đạo 4.1. Giá trị hiện thực: - Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 : + Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi. + Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma. + Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào. + Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết. + Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối. + Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát. + Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt. + Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. - Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm 1945. - Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng. 4.2. Giá trị nhân đạo + Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ. + Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp. + Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo. + Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng. 5. Đặc sắc Nghệ thuật - Xây dựng tình huống truyện độc đáo. - Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật. - Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng. - Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế. - Ngôn ngữ : Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất Bắc Bộ. 6. Chủ đề Qua truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn khẳng định : trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn B. CÁC DẠNG CÂU HỎI ÔN LUYỆN VÀ GỢI Ý 36 PHẦN I : DẠNG CÂU HỎI 2 ĐIỂM: Câu 1: Anh/chị hãy trình bày hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân? Qua tác phẩm nhà văn gửi tới bạn đọc những ý tưởng gì? GỢI Ý - Hoàn cảnh ra đời: Năm 1946, Kim Lân viết tiểu thuyết Xóm ngụ cư, nhưng mới được 7 chương thì toàn quốc kháng chiến bùng nổ, bản thảo bị mất. Hòa bình lặp lại, dựa trên những gì còn nhớ được ở Xóm ngụ cư, ông viết truyện Nhặt vợ, sau đổi thành Vợ nhặt, một truyện ngắn giản dị nhưng khá đặc sắc, truyện in trong tập Con chó xấu xí (1962). Người đọc thích Vợ nhặt vì cách miêu tả tâm lí rất kĩ lưỡng, tinh tế nhưng hơn hết là vì câu chuyện quá cảm động, thấm đượm chất nhân ái, tình thương yêu và lạc quan của những người lao động trong cảnh khốn cùng. - Ý tưởng nhà văn gửi gắm qua tác phẩm: Bối cảnh của câu chuyện là nạn đói khủng khiếp do phát xít Nhật và thực dân Pháp gây ra đầu năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Tuy nhiên, theo lời tác giả:, viết Vợ nhặt ông không muốn dìm người đọc trong cái buồn khổ, cái đói nghèo: “ Khi viết về cái đói, thường mọi người có ý nghĩ là khi đói, người ta cảm thấy khổ cực và chỉ muốn chết. Tôi có ý định viết một số truyện ngắn với ý khác là: khi đói, người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết, họ vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và hy vọng ở tương lai, vẫn muốn sống và sống cho ra người.”( Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Hà Nội, 1994). Ý tưởng nghệ thuật đã được Kim Lân thể hiện xuất sắc khi ông miêu tả các nhân vật trong một tình huống khá đặc biệt, vừa éo le vừa thương tâm nhưng diễn biến tâm lí và hành động thì đều chuyển biến theo chiều hướng tích cực: hướng về sự sống, hạnh phúc và ti tưởng vào một tương lai tốt đẹp. Câu 2: Giải thích ý nghĩa nhan đề truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân? GỢI Ý - Truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam: Coi việc “dựng vợ gả chồng” là việc làm trọng đại, thiêng liêng trong mỗi con người.Vì thế, khi lấy vợ, lấy chồng, người ta phải chuẩn bị chu đáo cả vật chất lẫn tinh thần.. - “Vợ nhặt”: người vợ do nhặt được mà có. Điều này trái với truyền thống của dân tộc ta. Trong truyện ngắn Vợ nhặt, việc lấy vợ của anh Tràng đơn giản như một câu chuyện tầm phào: nhặt được vợ như nhặt được một thú gì rơi vãi ngoài đường. - Chọm cụm từ độc đáo đặt tên cho tác phẩm, Kim Lân đã bày tỏ nỗi xót xa, cảm thông cho thân phận con người trước nạn đói. Giá trị con người chỉ đổi ngang những thứ tầm thường có thể nhặt được ngoài đường, ngoài chợ. - Qua đó, nhà văn lên án gay gắt tội ác của phát xít Nhật và bọn thực dân phong kiến tàn bạo đã đẩy người nông dân vào nạn đói khủng khiếp năm 1945. Câu 3: Phân tích ý nghĩa hình ảnh kết thúc truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lâm: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…” GỢI Ý 1. Giới thiệu khái quát về tác phẩm: - Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí (1962). 37 - Lấy bối cảnh nạn đói năm 1945 nhưng cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là khẳng định và ngợi ca khát vọng về mái ấm gia đình, về sự đổi đời của người lao động Việt Nam nhờ cách mạng. 2. Phân tích ý nghĩa hình ảnh: - Hình ảnh xuất hiện cuối tác phẩm cũng là hỉnh ảnh kết thúc tác phẩm. Đây là hình ảnh nâng tư tưởng của tác phẩm lên một cấp độ mới cao hơn. Trong hoàn cảnh đói kém khủng khiếp, giữ cho được tình cảm tốt đẹp và lối sống nhân ái quả là điều rất đáng quý nhưng người lao động Việt Nam cần phải hướng tới tương lai, cần phải có những hành động để thay đổi cuộc đời. - Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” gợi nhắc đến việc Tràng đã từng được chứng kiến: cảnh trên đê Sộp – những người nông dân đi phá kho thóc của Nhật dưới sự lãnh đạo của mặt trận Việt Minh. - Hình ảnh gợi lên suy nghĩ: Cách mạng xa mà gần, trừu tượng mà cụ thể. Hiện thực khắc nghiệt vẫn còn, cái đói, cái rét, cái chết đang hoành hành, tiếng trống thúc thuế đang dồ dập, nhưng những người như Tràng vẫn tin tưởng hy vọng vào một tương lai tốt đẹp, vào một sự đổi thay lớn lao sẽ đến với họ. - Hình ảnh đó còn thể hiện cái nhìn mới mẻ của nhà văn Kim Lân về cuộc đời, số phận của người dân lao động Việt Nam. Nhà văn đã dự báo cho họ về sự đổi đời. 3. Kết luận: Đây là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc thể hiện sự khác biệt căn bản của Vợ nhặt với những sáng tác của Nam Cao, Ngô Tất Tố…trước cách mạng. Câu 4: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt” (Vợ nhặt - Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.28). Ý nghĩa chi tiết “dòng nước mắt” của bà cụ Tứ trong đoạn văn trên. GƠI Ý - Chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ gắn với tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Bà cụ cảm thấy ai oán, xót thương cho số kiếp đứa con mình và cũng xót tủi cho chính thân phận mình. - Là chi tiết nghệ thuật đặc sắc, góp phần khắc họa thành công nhân vật bà cụ Tứ. Đây là những dòng lệ của người mẹ trong hoàn cảnh nghèo đói và khốn khổ. Đó là “giọt châu của loài người”, chan chứa tình người trào ra từ tâm hồn người mẹ nghèo thương con, thương người, giàu lòng vị tha, đức hi sinh. - Góp phần thể hiện giá trị hiện thực của tác phẩm: Cuộc sống khổ đau, bế tắc của người nông dân trong nạn đói. - Góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm: tấm lòng thương cảm đối với bi kịch của con người và sự trân trọng vẻ đẹp tình đời, tình người của tác giả. - Về nghệ thuật: cho thấy ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, sâu sắc của Kim Lân. Câu 5: Nhận xét về những đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm. GỢI Ý 1. Sáng tạo tình huống truyện: - Vợ nhặt thể hiện cách dựng truyện tự nhiên, đơn giản nhưng chặt chẽ đầy hấp dẫn của Kim Lân. Tác giả làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách của các nhân vật; giữa diện mạo xấu xí, đói rách với những phẩm chất tâm hồn bao la và cao đẹp. - Tình huống truyện rất độc đáo, vừa mang tính ngẫu nhiên bất ngờ vừa chớ trêu, oái oăm, bi mà hài. 38 2. Giọng văn mộc mạc, giản dị nhưng giàu sức gợi nhiều lắng đọng: - Ngôn ngữ kể chuyện gần với khẩu ngữ, có sự chắt lọc kỹ càng nên mang giá trị biểu cảm cao:( bước đi ngật ngưỡng; con đường khằng khưu ; vẻ mặt phởn phơ...). - Cách viết của Kim Lân mạng đậm hồn quê, tạo được một giọng điệu phong vị riêng. 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật giàu cá tính, sinh động điểm hình và miêu tả tâm lí nhân vật thật tinh tế, sắc sảo. - Tác giả khắc họa được những hình tượng điển hình trong hoàn cảnh điển hình về những người lao động , lam lũ, cơ cực, tội nghiệp nhưng tấm lòng nhân hậu rất mực sáng trong. - Tài năng của Kim Lân là đi sâu vào thế giới nội tâm của con người, diễn tả tinh tế những biến thái tâm lí phong phú, phức tạp của các nhân vật: Tràng, người ”vợ nhặt”, dân xóm ngụ cư, bà cụ Tứ đều có những chuyển biến, trong đó bà cụ Tứ là đốm sáng đặc biệt của tác phẩm. - Ngòi bút Kim Lân rất chủ động, không ”lên gân” và ”tố khổ” cũng không rơi vào thái độ cười cợt, chế giễu những người đói rách khốn khổ, mà qua những số phận đó khiến người đọc phải xúc động. PHẦN II: DẠNG CÂU HỎI 5 ĐIỂM Câu 1: Một trong những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân là đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Hãy phân tích tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn ấy. GỢI Ý 1. Mở bài: - Giới thiệu vài nét về nhà văn Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt. - Nêu hoàn cảnh lịch sử của đất nước được tác giả lấy làm bối cảnh chung cho câu chuyện. 2.Thân bài: Đề bài yêu cầu phân tích và nội dung cần phân tích ở đây được tạo ra bằng một tình huống đặc biệt: đó là câu chuyện Tràng lấy được vợ giữa mùa đói kém, người chết đói như ngả rạ. Thực ra chuyện dựng vợ gả chồng là việc làm thường xuyên bất chấp đói hay no. Nhưng đối với Tràng, nhân vật chính của tác phẩm thì việc lấy vợ lại là một sự kiện đặc biệt, không chỉ đối với Tràng mà đối với cả nhiều người trong xóm và với cả mẹ Tràng. Tác giả đã tạo ra tình huống đặc biệt ấy bằng các sự kiện và tình tiết sau: * Hoàn cảnh riêng tư của Tràng rất đặc biệt: - Nhà nghèo, sống với mẹ già, hàng ngày phải kéo xe bò đi chở thuê để nuôi thân và nuôi mẹ. Vườn tược nhà cửa chẳng có gì đáng nói. Trâu bò lợn gà cũng không. - Tràng lại thuộc loại người xấu trai, có ngoại hình thô kệch, lại có tật hay nói một mình khiến nhiều người nghi ngại. Tác giả không cho biết nhân vật ở độ tuổi nào nhưng chắc cũng đó ngoài hai mươi, mà vào thời đó, ở độ tuổi ấy thì được coi là ế vợ. - Tràng lại thuộc dân ngụ cư, nghĩa là loại dân mà người làng không coi trọng và thường hay bắt nạt, lại càng không thể nghĩ lấy con gái cùng làng được. * Hoàn cảnh chung mà Tràng bị đặt vào - Đó là nạn đói. Cái đói len lỏi khắp nơi. Cái đói gõ cửa mọi nhà. Đi kèm với cái đói là sự chết chóc. Cái chết hiện diện khắp nơi, đe dọa tất cả, chẳng trừ một ai, đặc biệt đối với tầng lớp lao động nghèo khổ. - Nỗi lo bao trùm tất cả là lo chết đói * Hoàn cảnh Tràng gặp người đàn bà 39 - Đây là cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên. Nơi họ gặp nhau là một cái dốc, nơi Tràng phải gắng hết sức để kéo xe qua, nơi mà người đàn bà đã có mặt ở đấy. - Câu hò mà Tràng đưa ra cũng chỉ trêu đùa để cho mình đỡ mệt nhưng lại được người đàn bà chấp nhận như một dịp may hiển nhiên không phải để được “ ăn cơm trắng với giò” mà cũng chỉ là lấy công đổi cơm mà thôi. - Tràng trong hoàn cảnh đó đã gặp được người bạn đời của mình, hay như cách dùng từ của tác giả là “nhặt ”được. Thực ra cả hai đều“ nhặt”được nhau. Người đàn bà không tên ấy cũng “nhặt ” được người bạn đời của mình. - Họ đến với nhau khi cái chết đang liền kề. Không phải họ không biết điều đó, nhưng với cách suy nghĩ giản đơn, dứt khoát, không phải tính toán nhiều bởi họ có niềm tin vào nhau. Khi có nhau, họ sẽ qua được mùa đói khát. Niềm tin của họ được tăng lên bằng hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc và lá cờ đỏ sao vàng phấp phới đang vẫy gọi tất cả đồng lòng hiệp sức để cứu nước cứu nhà. 3. Kết bài: Tình huống này là tình huống đặc biệt bởi tính chất éo le của nó, bởi không phải bao giờ cũng xảy ra. Xây dựng câu chuyện Tràng lấy vợ giữa mùa đói kém, trong hoàn cảnh không mấy suôn sẻ của Tràng mới thấy hết ý nghĩa nhân đạo của tác phẩm. Câu 2: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. GỢI Ý 1.Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và nhân vật: - Kim Lân là nhà văn thành công trong lĩnh vực viết truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảng nông thôn và hình tượng người nông dân. Ông viết chân thật và xúc động về cuộc sống và con người ở nông thôn, những con người gắn bó tha thiết với quê hương đất nước, với cánh mạng và luôn có niềm tin vào cuộc sống. - Vợ nhặt là truyện được xây dựng trên nề cảnh nạn đói năm 1945. Lúc đầu là tiểu thuyết Xóm ngụ cư viết ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa và phần một cốt truyện cũ viết truyện ngắn Vợ nhặt , được in trong tập Con chó xấu xí (1962). Truyện tập trung thể hiện niềm khao khát cuộc sống gia đình hạnh phúc của người lao ddoongj, người nông dân nghèo khổ. Bà cụ Tứ tiêu biểu cho vẻ đẹp của người mẹ nghèo khổ trong xã hội xưa bị áp bức, đói khổ. 2. Phân tích nhân vật: a. Thể hiện tính cách bà cụ Tứ, Kim Lân đặt nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo. - Bà cụ Tứ là người mẹ ngè khổ, góa chồng, sống ngụ cư. Cảnh hai mẹ con sống nghèo khổ, có ngu cơ chết đói. Bà cụ Tứ không làm gì ra cái ăn, gà, ốm yếu. Anh Tràng, con trai bà chỉ làm nghề kéo xe thóc thuê kiếm sống qua ngày, lại xấu tra, ế vợ. - Cả xóm Ngụ cư đang sống trong cảnh chết đói, ai lo phận người nấy sao cho qua được cơn chết đói như ngả rạ, sáng ra gặp vài xác người chết đói nằm còng queo bên đường. Mùi thịt người chết thật ghê sợ. - Giữa tình cảnh chết đói như vậy, anh Tràng – con trai bà đưa một người đàn bà cũng trong tình trạng sắp chết đói về nhà làm vợ, thật là éo le, đáng phải lo lắng, suy nghĩ trăm bề đối với bà cụ Tứ. b. Vẻ đẹp tâm hồn và tính cách bà cụ Tứ được bộc lộ trong hoàn cảnh anh Tràng có vợ “vợ nhặt”. 40 - Lúc đầu bà cụ Tứ sững sờ ngạc nhiên và băn khoăn khi thấy trong nhà có một người đàn bà lạ, lại chào mình “U đã về ạ?”. Được anh Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào u” thì bà cúi đầu nín lặng. Rồi bà hiểu ra, biết bao tủi khổ, mừng vui. + Trước hết, bà ai oán, xót thương cho số phận đứa con mình và bản thân mình “ Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. + Bà nghĩ không biết “chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. + Bà hiểu cơ sự con mình có được vợ là do “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ…”, “bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…”. - Sau những giây phút ai oán, xót thương cho số phận của mẹ con, bà cụ Tứ có cảm nhận mới mẻ: vui, tin tưởng và lo toan cho hạnh phúc của con cũng như gia đình của bà: + Bà nhẹ nhàng bộc bạch “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. + Bà khuyên bảo con trai, con dâu “Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng mày liệu mà bảo nhau làm ăn….” . + Bà nghĩ lại cuộc đời mình cùng chồng khổ cực “nỗi khổ dài dằng dặc”, bà đặt những câu hỏi lo toan cho các con “chúng nó liệu có hơn bố mẹ nó trước kia không?”. + Bà an ủi các con vui với cuộc sống vợ chồng không có cưới cheo vì nghèo khổ: “kể làm được dăm ba mâm cỗ thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo (…) cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi.” + Vui với các con, bà hy vọng vào tương lai hạnh phúc của con cái và gia đình. Bà vui vì có ánh đèn Tràng thắp lên trong đêm tân hôn. Bà nhắc con trai mua nứa ngăn căn nhà cho có buồng mẹ, buồng con. Sáng hôm sau ngày anh Tràng có vợ, bà dậy sớm thu dọn nhà cửa. “Cái mặt bủng u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà nhắc các con nuôi gà, hình ảnh của cuộc sống gia đình đầm ấm trong tương lai. Bà kể toàn chuyện vui với các con trong bữa quá khổ chỉ có cháo cám mà bà gọi là “chè khoán” và cháo loãng. - Hình ảnh bà cụ Tứ là hình ảnh của những bà mẹ nghèo khổ đau trong quá khứ vì bị áp bức bóc lột, trong xã hội thuộc địa, phong kiến; song ở họ vẫn mang những phẩm chất đẹp đẽ: Giàu tình thương yêu con, luôn lo toan và hy vọng vào hạnh phúc gia đình ở tương lai. 3. Kết luận: - Kim Lân rất thành công với truyện Vợ nhặt, trong đó có thành công trong việc xây dựng hình tượng bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ hiện ra chân thật, sinh động hấp dẫn với những chi tiết miêu tả hình dáng, nội tâm, ngôn ngữ, hành động. - Thể hiện hình tượng bà cụ Tứ, Kim Lân thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng, yêu thương người lao động, đặc biệt là con người lao khổ. Qua đó, tác giả thể hiện tư tưởng nhân văn khá sâu sắc. Câu 3: Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. GỢI Ý 1.Mở bài: - Là một cây bút truyện ngắn xuất sắc, Kim Lân thường viết về cuộc sống, cảnh ngộ và đời sống tâm lí của những người nông dân một cách xúc động và chân thật.Trong đó có “Vợ nhặt”- câu chuyện gây xúc động lòng người qua lối viết chân thực về tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra.Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, ngay cả khi cận kề bên cái chết, họ vẫn yêu thương đùm bọc, 41 cưu mang lẫn nhau, vẫn khao khát hạnh phúc và niềm tin bất diệt vào tương lai. Những phẩm chất tốt đẹp ấy được nhà văn thể hiện rất tiêu biểu qua nhân vật Tràng. 2.Thân bài - Tràng là nhân vật chính của truyện được nhà văn xây dựng là một anh nông dân nghèo khổ, có ngoại hình xấu xí, thô kệch,vụng về, thân hình to lớn “lưng to như lưng gấu”, đôi mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, khi cười ngửa mặt lên trời hềnh hệch, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, quai hàm bạnh ra rung rung, lại thêm cái tật vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ làm người ta liên tưởng đến những ý nghĩa “vừa hung tợn vừa buồn cười trong đầu anh”.Đáng buồn hơn Tràng lại là dân ngụ cư, rất nghèo và đang ế vợ. *Ngôn ngữ của Tràng suồng sã, thô kệch: “rích bố cu, làm đếch gì có vợ… *Phẩm chất của Tràng, tuy có nét dở hơi nhưng hiền lành, nhân hậu và tốt bụng: + Thấy người đàn bà đói rách, anh ko chê mà còn cho ăn +Thấy cách cư xử cong cớn, bốp chát, suồng sã của thị anh ko coi thường mà chấp nhận đưa về nhà làm vợ - Tâm trạng của Tràng khi quyết định đưa người đàn bà về làm vợ: * Khi quyết định đưa cô gái về: + Khi cô gái theo về lúc đầu Tràng cũng “chợn” nghĩ : “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không , lại còn đèo bòng”.Nhưng sau một thoáng do dự, anh tặc lưỡi một cái: “Chặc, kệ!” rồi đưa người đàn bà xa lạ về nhà. Cái tặc lưỡi ko phải là sự phó mặc liều lĩnh, dễ dãi mà đó là tình thương yêu của anh với người cùng khổ. Anh đã ko nỡ từ chối người đàn bà đói khổ cùng đường phải theo không anh về làm vợ. Quyết định và hành động của Tràng thể hiện niềm khao khát hạnh phúc gia đình của một người nông dân nghèo khổ *Trên đường đưa vợ về nhà: + Tràng như đã thành một con người khác: “Mặt hắn có gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và mắt thì sáng lên lấp lánh” Tràng lấy làm tự hào, anh sắm cho cô một cái thúng con cho có vẻ, ăn một bữa thật no rồi mới về-> cái tình của anh thật giản dị và dễ thương: “ Trong một lúc, Tràng quên tất cả cuộc sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói, cái khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn giờ chỉ còn tình nghĩa giữa người đàn bà đi bên, một cái gì dó lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng…”=>Câu văn thật tah thiết gieo vào lòng người đọc niềm cảm xúc sâu xa, nếu sự đói khát đã làm giảm đi giá trị con người thì được yêu thương lại là niềm hạnh phúc lớn hơn tất cả, ngay cra khi người ta tưởng cuộc sống ko còn gì ngoài bát cơm manh áo… *Tình cảm, cảm xúc của Tràng lần đầu tiên được đi bên một người đàn bà mà trong cuộc đời nghèo khó của anh chưa bao giờ dám mơ ước: +Vốn là người thô kệch, vụng về, đi bên người vợ nhặt anh lại càng vụng về, ngượng ngập hơn, tay nọ xoa vào vai kia lúng ta lúng túng. +Thấy xung quanh vắng vẻ, Tràng muốn nói vài lời tình tứ với vợ mà ko sao nói nổi.Cuộc đối thoại giữa hai người thật rời rạc, nhát gừng, cộc lốc, Tràng ngây thơ đến ngờ nghệch + Không biết nói chuyện gì, Tràng khoe với người đàn bà chai dầu thắp (hai hào), Tràng muốn cho đêm tân hôn của mình sáng lên một chút trong cái thảm cảnh tối tăm ấy, và phần nào để cho người đàn bà đỡ tủi=>Dù chỉ theo nhau về thành vợ chồng, nhưng cái hạnh phúc đời thường tối thiểu nhất là chút ánh sáng cũng phải có và được trân trọng. 42 + Niềm hạnh phúc tuy nhỏ bé, đơn sơ nhưng đã làm cho tâm hồn anh lâng lâng vui sướng, xúc động đến ngỡ ngàng. Nhìn người đàn bà ngồi ngay giữa nhà mà anh vẫn còn ngờ ngợ như ko phải thế. Vì việc xảy ra quá nhanh khiến người đàn ông thô vụng thành đứa trẻ con hiền lành ngờ nghệch. *Khi giới thiệu với mẹ về nàng dâu mới:Ngôn ngữ của anh tuy đơn giản nhưng đầy yêu thương và kính trọng: “Kìa ! Nhà tôi nó chào u!”. Đón một người đàn bà về làm vợ ko có rước dâu, cỗ bàn đình đám, cô dâu ko có cả một bộ quần áo cho lành lặn, nhưng mấy tiếng giới thiệu của Tràng thật gần gũi thân thương: “Nhà tôi nó chào u!”, “Nhà tôi nó về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau…chẳng qua nó cũng là cái số cả…” đó là lời giới thiệu trịnh trọng, nghiêm túc của những con người khốn khổ về với nhau trong ngày đói. * Tâm trạng của Tràng trong buổi sáng đầu tiên khi anh có vợ được miêu tả tinh tế mà chân thực: + Một cảm giác lạ chưa từng thấy tràn ngập trong anh, anh thấy trong người êm ái, lửng lư như người ở trong giấc mơ đi ra, việc có vợ vẫn hình như ko phải. + Nhận ra xung quanh mình “có cái gì vừa thay đổi mới lạ”.Nhà ưcả sân vườn, lối đi được quét dọn sạch quang, những chiếc quần áo rách như tổ đỉa khươm mươi niên vắt trong góc nhà nay đã được đem phơi phóng. Hai cái ang nước mọi ngày há miệng khô khốc giờ đây đã ăm ắp nước. + Bà mẹ lúi húi dẫy cỏ, nàng dâu quét tước, nấu nướng,cảnh tượng diễn ra thật bình thường mà đối với Tràng nó cảm động và thấm thía, ấm áp biết bao. + Trước cảnh gia đình mới, ai cũng vui vẻ hạnh phúc Tràng mới thực sự hiểu được giá trị của một gia đình đầy đủ, hạnh phúc.Niềm vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập tâm hồn anh, anh bỗng thấy yêu và gắn bó với ngôi nhà dù còn bao khốn khó. Nhưng nó là nơi che mưa che nắng cho cả gia đình anh.Tràng thấy mình phải có trách nhiệm với người mẹ già cả cuộc đời dằng dặc khổ đau, với người vợ mới dù nghèo nhưng chăm chỉ, hiền thục.Trong bữa cơm năm đói thảm đạm, niềm hy vọng đã hé mở lối thoát xuất hiện trong tâm trí Tràng: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”… =>Trong khung cảnh đói khát chết chóc của đất nước, người nông dân khốn khổ như Tràng đã biết vượt lên hoàn cảnh, tìm đến hạnh phúc trong niềm vui nương tựa đùm bọc lẫn nhau. Chỉ có tấm tình chân thực mới giúp họ có sức mạnh vượt qua sự thật nghiệt ngã của cuộc đời .Và ko gì có thể ngăn nổi niềm tin, hi vọng của họ vào tương lai đó là giá trị nhân văn đầy cảm động của thiên truyện này. 3.Kết bài Qua nhân vật Tràng nhà văn thể hiện sự éo le, khốn cùng của người dân ngụ cư năm 1945 cũng như thể hiện lòng nhân ái, tình thương yêu giữa con người với con người trong hoàn cảnh khốn khổ.Đồng thời thể hiện sức sống mãnh liệt, sự khát khao và niềm tin, hi vọng của người dân ngụ cư.Niềm tin và khát vọng hạnh phúc giúp họ vượt lên trên cái chết, cái thảm,cái đói khát để làm người Viết về nhân vật Tràng, đặt nhân vật vào một tình huống vừa kì quặc, vừa oái oăm, vừa bi hài, nhà văn đã cất lên bài ca nhân bản mạnh mẽ, làm thiết tha lòng người về cái hạnh phúc đời thường. Con người dù có nghèo khổ đến đâu, họ vẫn có quyền mơ ước một cuộc sống gia đình hạnh phúc Câu 4: Phân tích những nét nổi bật làm nên giá trị nhân đạo sâu sắc của truyện ngắn Vợ nhặt. 43 GỢI Ý 1. Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm: - Vợ nhặt là là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và của Văn học Vệt Nam sau năm 1945. Truyện được in trong tập Con chó xấu xí (1962). - Vợ nhặt là tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Thông qua tình huống truyện “nhặt vợ” ngồ ngộ mà đầy thương tâm, tác giả đã cho ta thấy được nhiều điều về cuộc sống tối tăm của những người lao động trong nạn đói năm 1945 cũng như khát vọng sống mãnh liệt và ý thức về nhân phẩm của họ. 2. Giải thích khái niệm: - Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ. - Tư tưởng nhân đạo vốn là mạch nguồn xuyên suốt trong văn học tự ngàn xưa. Văn học Đông, Tây kim cổ đều xem tư tưởng nhân đạo là linh hồn tác phẩm, là thước đo giá trị tác phẩm. Tư tưởng ấy được nhà văn thể hiện thông qua nhân vật chính, nhân vật trung tâm của tác phẩm . “Nhân vật là trụ cột của sáng tác” (Tô Hoài), là linh hồn của tác phẩm để nhà văn thể hiện chủ đề, tư tưởng, bộc lộ tình cảm. thái độ của nhà văn đối với cuộc đời, xã hội. Kim Lân đã thể hiện tư tưởng ấy qua các nhân vật của mình trong tác phẩm. 3 . Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm với các biểu hiện chính: a. Tác phẩm bộc lộ niềm xót xa, thương cảm đối với cuộc sống bi đát của người dân nghèo trong nạn đói, qua đó tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân, phát xít đối với nhân dân ta. Dẫn chứng: Điểm qua các chi tiết miêu tả nạn đói: xác người chết nằm còng queo, tiếng quạ gào thê thiết, tiếng khóc hờ trong đêm. mùi xác chết gây gây, những khuôn mặt u ám, những dáng ngồi ủ rũ, những nỗi lo âu… b. Tác phẩm đi sâu khám phá và nâng niu trân trọng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của con người. - Những khao khát hạnh phúc của Tràng (cái “tặc lưỡi” có phần liều lĩnh, cảm giác mới mẻ “mơn man khắp da thịt”, những sắc thái khác nhau của tiếng cười, sự “tiêu hoang” (mua hai hào dầu thắp), cảm giác êm ái lửng lơ sau đêm tân hôn…). - Ý thức bám lấy sự sống rất mạnh mẽ ở nhân vật “vợ nhặt” (chấp nhận “theo không” Tràng, bỏ qua ý thức về danh dự). - Ý thức vun đắp cho cuộc sống ở các nhân vật (Bà cụ Tứ bàn về việc đan phên ngăn phòng, việc nuôi gà; mẹ chồng, nàng dâu thu dọn cửa nhà quang quẻ,…). - Niềm hy vọng về một cuộc đời mới của các nhân vật (hình ảnh lá cờ đỏ vấn vương trong tâm trí Tràng). c. Tác phẩm thể hiện lòng tin tưởng sâu sắc vào phẩm giá, vào lòng nhân hậu của con người. - Cái đẹp tiềm ẩn của Tràng: sự thông cảm, lòng thương người, sự hào phóng, chu đáo (đãi người đàn bà bốn bát bánh đúc, mua cho chị ta cái thúng con, cùng chị đánh một bữa thật no nê), tình nghĩa và thái độ trách nhiệm,… - Sự biến đổi của người “vợ nhặt” sau hi theo Tràng về nhà: vẻ chao chát, chỏng lỏn biến mất, thay vào đó là sự hiền hậu, đúng mực, sự mau mắn trong việc làm, sự ý tứ trong cách cư xử,… - Tấm lòng nhân hậu của bà cụ Tứ: thương con rất mực, cảm thông với tình cảnh của nàng dâu, trăn trở về bổn phận làm mẹ, cố tạo niềm vui trong gia đình giữa cảnh sồng thê thảm,… 4. Đánh giá chung về giá trị nhân đạo của tác phẩm: 44 Điểm đáng nói nhất về giá trị nhân đạo của tác phẩm này là niềm tin tưởng sâu sắc vào con người lao động, vào bản năng sống, khát vọng sống mạnh mẽ của họ. Tình cảm nhân đạo ở đây rõ ràng có nét mới mẻ so với tình cảm nhân đạo được thể hiện trong nhiều tác phẩm của văn học hiện thực trước cách mạng. Câu 5: Phân tích giá trị hiện thực trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. GỢI Ý 1. Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm: - Kim Lân từng sáng tác trước cách mạng tháng Tám, nhưng chỉ sau năm 1945 nhưng nhà văn mới chỉ thực sự có vị trí trong Văn học Việt Nam. Ông có biệt tài viết truyện ngắn, thành công nhất là đề tài nông thôn. - Vợ nhặt được Kim Lân viết năm 1962,in trong tập Con chó xấu xí. Bên cạnh giá trị nhân đạo sâu sắc, Vợ nhặt còn giàu giá trị hiện thực. 2. Phân tích cụ thể: - Giá trị hiện thực là một tiêu chí để đánh giá sự thành công của một tác phẩm. Là nhà văn của nông thôn, Kim Lân rất hiểu ngườ nông dân, lại là người trong cuộc của nạn đói nên ông đã dựng lên trong Vợ nhặt một bức tranh hiện thực, cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc thành ấn tượng rõ nét. - Bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945: + Cảnh người đói từ Nam Định, Thái Bình bồng bế, dắt díu đi kiếm sống khi nạn đói tràn đến. Tất cả đều “ xanh xám như những bóng ma nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. + Cái đói tràn đén xóm ngụ cư, ùa vào từng gia đình, bủa vây, đe dọa số phận từng con người, những âm thanh, mùi vị, màu sắc gợi lên sự ảm đạm thê lương của một cuộc sống đang gần kề cái chết. Bức tranh xóm ngụ cư là hình ảnh thu nhỏ của hàng vạn xóm làng Việt Nam từ Bắc Kỳ đến Quảng Trị năm 1945. - Bức trang về số phận của những con trên bờ vực thẳm của nạn đói: + Xóm ngụ cư: những khuôn mặt hốc hác, u tối trong cuộc sống đói khát (lũ trẻ con nằm ủ rũ không buồn nhúc nhích…) + Số phận của bà cụ Tứ: góa chồng, già nua, còm cõi, nghèo “lực bất tòng tâm”. + Số phận của Tràng: nghèo hèn, ngụ cư, làm thuê nuôi sống gia đình. Lấy vợ trong lúc mình chưa nuôi nổi mình. Đêm tân hôn của anh đầy tiếng khóc hờ và mùi hắc của “đống rấm” khét lẹt. + Số phận của người “vợ nhặt”: là người nhưng đến cái tên riêng cũng không có nữa. Thân hình tiều tụy. Vì cái đói mà quên cả nhân phẩm, chỉ nghĩ đến cái ăn, sao cho khỏi chết. - Có một hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng hiện ra ở cuối truyện, trong ý nghĩ của Tràng: “… cảnh những người âm thầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”. Đây là hiện thực nhưng cũng là niềm mơ ước của những người như Tràng. 3. Kết luận: - Nạn đói khủng khiếp, số phận bi thảm của những người đói và lá cờ cách mạng là những mặt chủ yếu của hiện thực lúc bấy giờ được Kim Lân phản ánh bằng những nét bản chất đã làm nên giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. Nó như một chứng tích văn học về một sự kiện lịch sử không thể nào quên. - Giá trị hiện thực ấy có sức tố cáo bọn thực dân, phát xít. Cùng với giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực làm nên sức sống của tác phẩm. Câu 6: Hãy phân tích người “vợ nhặt” trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. 45 GỢI Ý 1. Giới thiệu chung: - Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở nông thôn và hình tượng người nông dân. - Vợ nhặt được in trong tập truyện Con chó xấu xí, là tác phẩm đặ sắc viết về nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945), được coi là một trong những tác phẩm thành công nhất của Kim Lân. - Nhân vật người “vợ nhặt” để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. 2. Phân tích cụ thể; a. Lai lich: Người “vợ nhặt” có lai lịch khá đặc biệt: không tên tuổi, không quên quán, không quá khứ, không tài sản, không nghề nghiệp ổn định. Từ đầu đến cuối tác phẩm nhân vật chỉ được gọi là “cô ả”, “Thị”, “người đàn bà”. Qúa khứ của chị chỉ là một lần “Thị liếc mắt cười tít” và đẩy xe bò giúp Tràng. b. Chân dung: - Ngoại hình tả tơi, tiều tụy, áo quần rách như tổ đỉa, chỉ sau mấy ngày mà “gầy xọp hẳn đi trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ có hai con mắt”. - Cách nói năng chỏng lỏn, đanh đá “bỏ bố”, “sợ gì”… - Điệu bộ, hành động thô lỗ “sầm sập chạy tới” , “sưng sỉa nói”, “đứng cong cớn”, “cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc”,… Trước khi trở thành “vợ nhặt”, chị là nạn nhân của cái đói. Cái đói làm chị tả tơi, xác xơ, quên cả sĩ diện, mất cả nữ tính. c. Phẩm chất, tính cách: - Khát vọng sống mãnh liệt: + Với người “vợ nhặt”, lúc này cần thiết nhất là phải có cái ăn, ăn để mà sống nên tìm cách đòi để mà ăn, ăn quên cả giữ kẽ. + Chị vin vào câu nói nửa đùa nửa thật của Tràng để được sống. Chị theo Tràng về làm vợ mặc dù chưa biết gì về anh, chấp nhận một “đám cưới” tội nghiệp không lễ nghi, cưới hỏi. + Chị thuộc những ngườu đói mà không nghĩ đến cái chết chỉ nghĩ đến cái sống, khát khao có hạnh phúc, có tổ ấm cho riêng mình. - Vẻ đẹp nữ tính: + Trên đường theo Tràng về nhà, vẻ đẹp nữ tính của người “vợ nhặt” dần dần được bộc lộ: khép nép, thẹn thùng “rón rén, e thẹn” , “ngượng ngịu, chân nọ bước ríu vào chân kia”. Chị cư xử với Tràng mộc mạc chân thành, mắng yêu khi Tràng khoe chai dầu vừa mua, lo lắng băn khoăn trước gia cảnh của Tràng. + Chị cư xử với mẹ chồng đúng mực (chào hỏi lễ phép, đứng cúi mặt, tay mân mê tà áo rách bợt”,… + Sáng hôm sau chị đã hoàn toàn thay đổi trở nên hiền hậu, đúng mực, xăm xắn dọn dẹp, thu vén nhà cửa, trò chuyện với mẹ chồng. + Trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, chị đón bát cháo cám từ tay mẹ chồng, tuy đôi mắt có “tối lại” nhưng chị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Chị không nỡ làm mất đi niềm vui tội nghiệp của người mẹ già nua. - Niềm tin vào tương lai: + Trong bóng tối của nghèo đói, chị vẫn hướng về sự sống khát khao thay đổi cuộc đời. Chị nhắc đến chuyện ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế,còn phá kho thóc của Nhật để chia cho người đói. 46 + Người “vợ nhặt” đã làm thay đổi cuộc sống của Tràng, làm thay đổi không khí trong nhà anh và xóm ngụ cư, làm rạng rỡ khuôn mặt bủng beo của bà cụ Tứ và những khuôn mặt ú ám của người dân xóm ngụ cư. d. Đánh giá nhân vật: - Về tư tưởng: + Người “vợ nhặt” là hình ảnh tiêu biểu cho những người nông dân trong hoàn cảnh đói khát khốn cùng vẫn khát khao sống, khát khao hạnh phúc và tin tưởng vào tương lai. + Miêu tả chân thật người “vợ nhặt” Kim Lân đã tố cáo giai cấp thống trị trực dân, phát xít đã đẩy nhân dân ta vào hoàn cảnh cùng cực đồng thời ca ngợi sức sống mãnh liệt và phẩm chất tốt đẹp của họ. - Về nghệ thuật: Kim Lân đã rất thành công khi miêu tả nhân vật người “vợ nhặt” (ngoại hình, tính cách) đặc biệt là nghệ thuật diễn tả tâm lí nhân vật ( tâm lí của chị trên đường về nhà, trong bữa cơm đầu tiên tại nhà Tràng…). 3. Kết luận: - Nhân vật người “vợ nhặt” là một thành công nghệ thuật của Kim Lân. - Nhân vật đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao giá trị hiện thực của tác phẩm và bộc lộ tư tưởng nhân đạo của tác giả. PHẦN III: CÁC CÂU HỎI SO SÁNH Câu 1(5 điểm) Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao và truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đều viết về tình cảnh người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Anh/chị hãy: a) Phân tích những khám phá riêng của mỗi tác giả về số phận và cảnh ngộ của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945 trong mỗi tác phẩm. b) Chỉ ra sự khác nhau trong cách kết thúc của hai thiên truyện. Giải thích vì sao có sự khác nhau ấy. Nêu ý nghĩa của mỗi cách kết thúc. c) Phân tích nét đặc sắc trong tư tưởng nhân đạo của hai tác phẩm. GỢI Ý 1. Giới thiệu khái quát về Nam Cao với truyện ngắn Chí Phèo và Kim Lân với truyện ngắn Vợ nhặt. 2. Những khám phá riêng của mỗi tác giả: a. Khám phá của Nam Cao trong Chí Phèo: - Thân phận khốn khổ của người nông dân: Chí Phèo từ đứa trẻ bị bỏ rơi, không nhà cửa, không họ hàng thân thích, không cha mẹ…- “tứ cố vô thân” đến làm canh điền cho nhà lý Kiến rồi bị đẩy vào tù. - Bị đẩy vào con đường lưu manh hóa, bị hủy hoại từ nhân hình đến nhân tính, bị gạt bỏ ra ngoài xã hội con người, trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. - Khi thức tỉnh nhân tính, Chí Phèo khao khát trở về cuộc sống lương thiện nhưng bị xã hội cự tuyệt. Chí lâm vào tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người dẫn đế cái chết đầy bi phẫn. - Qua Chí Phèo, Nam Cao khái quát một hiện tượng phổ biến ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945: Một bộ phận nông dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh hóa, tha hóa; họ vùng lên nhưng đó chỉ là manh động, tuyệt vọng. 47 b. Khám phá của Kim Lân trong Vợ Nhặt: - Thân phận nghèo hèn của mẹ con Trang (dân ngụ cư, nghèo túng đến nỗi không lấy nổi vợ…) - Nỗi khốn khổ ê chề của cô gái mà Tràng “nhặt” về làm vợ một cách ngẫu nhiên, dễ dàng chỉ bằng mấy lời bông đùa, mấy bát bánh đúc. - Tình cảnh của cả gia đình Tràng cũng như là tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, là tình cảnh thê thảm của thân phận con người. - Qua Vợ nhặt, tác giả xây dựng được hình tượng người lao động nghèo khổ nhưng có tấm lòng rất đáng quý trong hoàn cảnh sống ngặt nghèo là nạn đói. Họ đã biết cưu mang nhau và đã nhận được hạnh phúc dù đơn xơ nhưng ấm lòng. 3. Về kết thúc hai thiên truyện: a) Sự khác nhau: - Truyện Chí Phèo kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh của cái lò gạch cũ đã xuất hiện ở phần đầu tác phẩm. Khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và trong óc Thị thoáng hiện ra hình ảnh cái lò gạch cũ bỏ không và vắng người qua lại. - Truyện Vợ nhặt kết thúc bằng hình ảnh hiện lên trong óc Tràng: đoàn người đi phá kho thóc của Nhật cùng với lá cờ đỏ của Việt Minh bay phấp phới. Hình ảnh này đối lập với hình ảnh thê thảm của người nông dân được miêu tả ở những phần trước của thiên truyện. b) giải thích vì sao có sự khác nhau đó: - Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử: Chí Phèo viết trước Cách mạng (viết năm 1940, in năm 1941), trong hoàn cảnh đen tối của xã hội Việt Nam đương thời. Còn Vợ nhặt viết sau năm 1945, khi quần chúng đã được cách mạng giải phóng. - Chí Phèo thuộc khuynh hướng văn học hiện thực, chưa nhìn thấy lối thoát của người nông dân. Còn Vợ nhặt là tác phẩm của nền văn học cách mạng từ sau năm 1945, có khă năng và cần thiết phải chỉ ra chiều hướng tích cực của đời sống xã hội. c) Kết thúc của hai tác phẩm: Kết thúc của Chí Phèo đầy ám ảnh, góp phần tạo nên kết cấu theo kiểu vòng tròn, thể hiện sự bế tắc của số phận người nông dân, đồng thời cho thấy “hiện tượng Chí Phèo” vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội cũ. Còn kết thúc của Vợ nhặt mở ra hướng giải thoát số phận các nhân vật, chỉ ra con đường sống của người nông dân, và cho thấy khi bị đẩy vào tình trạng đói khát cùng đường thì những người nông dân nghèo khổ hướng tới cách mạng. 4. Nét đặc sắc trong tư tưởng nhân đạo của mỗi tác phẩm: - Ở Chí Phèo, đằng sau cái sắc lạnh là một tấm lòng nhân đạo lớn. Đó là lời kêu cứu: Hãy cứu lấy nhân tính đang bị trà đạp, cứu lấy những con người đang bị cái xã hội độc ác bất lương phá hoại cả nhân hình và nhân tính. - Ở Vợ nhặt, tư tưởng nhân đạo thể hiện ở sự miêu tả diễn biến tâm trạng của các nhân vật: + Cả ba nhân vật đều diễn biến theo hướng tích cực. + Dù ở cảnh ngộ nào, người lao động vẫn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. + Trước cái đói không nghĩ đến cái chết, con người cố gắng không nghĩ đến nỗi buồn, cái khổ để vẫn nghĩ tới sự sống, thể hiện sự sống, thể hiện sự khát khao hạnh phúc và niềm tin, niềm hy vọng tương lai sẽ tốt đẹp hơn. Câu 2: (5 điểm):Phân tích và so sánh kết thúc truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao (SGK Ngữ văn 11 tập 1 NXB giáo dục)và truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân (SGK Ngữ văn 12, tập 2, NXB giáo dục). GỢI Ý 48
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan