ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM HỒNG QUÂN
CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG -MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 6038 40
VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI-2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM HỒNG QUÂN
CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG -MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 6038 40
VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI-2012
ĐẠIHỌCQUỐCGIAHÀNỘI
KHOALUẬT
PHẠMHỒNGQUÂN
CHỨCNĂNG,
NHIỆMVỤCỦAVIỆNKIỂMSÁTTRONGGIAIĐOẠNĐIỀU
TRACÁCVỤÁNHÌNHSỰTRÊNĐỊABÀNTHÀNHPHỐHẢI
PHÒNG-MỘTSỐVẤNĐỀLÝLUẬNVÀTHỰCTIỄN
LUẬNVĂNTHẠCSĨLUẬTHỌC
Hμ néi -2012
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây làcông trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các sốliệu,
vídụvàtrích dẫn trong luận văn đảm bảo độtin cậy, chính xác vàtrung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bốtrong bất kỳcông
trình nào khác.Tác giảluận vănPhạm Hồng Quân
MỤC LỤCTrang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lụcDanh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ6
1.1. Chức năng của viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 6
1.1.1.Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra 6
1.1.2.Nội dung chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra 8
1.2. Nhiệm vụ của viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự20
1.2.1.Các nhiệm vụ của chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra các vụ án hình sự 20
1.2.2.Các nhiệm vụ của chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự 24
1.3. Chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát từ năm 1945 đến trước năm
2003 28
1.3.1.Từ năm 1945 đến năm 1960 28
1.3.2.Từ năm 1960 đến năm 1980 29
1.3.3.Từ năm 1980 đến năm 1992 30
51.3.4.Từ năm 1992 đến trước năm 2003 301.4. So sánh với chức năng, nhiệm vụ
của viện kiểm sát Trung Quốc 31
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONGGIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG34
2.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 34
2.1.1.Vị trí địa lý 34
2.1.2.Điều kiện kinh tế xã hội 34
2.1.3.Tình hình tội phạm 36
2.2. Thực trạng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Hải Phòng trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 38
2.2.1.Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhândân thành phố Hải Phòng 38
2.2.2.Đối với các hoạt động nghiệp vụ 39
2.3. Những tồn tại trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm
sát nhân dân thành phố Hải Phòng 68
2.3.1.Những tồn tại 68
2.3.2.Nguyên nhân 73
Chương 3: NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG THỰC HIỆN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 76
3.1. Các cơ sở của cải cách tư pháp đối với chức năng và nhiệm vụ của viện kiểm
sát trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 76
3.1.1.Tình hình kinh tế -xã hội và tội phạm trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong
thờigian tới 76
63.1.2.Những yêu cầu của cải cách tưpháp trong thời gian tới 80
3.2. Một số kiến nghị, giải pháp 82
3.2.1.Hoàn thiện các quy định pháp luật 82
3.2.2.Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra
các vụ án hình sự trong thời gian tới 95
KẾT LUẬN 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
PHỤ LỤC 116
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCA: Bộ Công an
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
ĐTV: Điều tra viên
HĐND: Hội đồng nhân dân
KSĐT: Kiểm sát hoạt động điều tra
KSHĐTP: Kiểm sát các hoạt động tưpháp
KSV: Kiểm sát viên
THQCT: Thực hành quyền công tố
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
VKSNDTP: Viện kiểm sát nhân dân thành phố
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết củaviệc nghiên cứuTheo quy định của Điều 137 Hiến pháp 1992
(sửa đổi năm 2001), Viện kiểmsát nhân dân (VKSND)có hai chức năng thực hành
quyền công tố (THQCT)và kiểm sát hoạt động tư pháp (KSHĐTP). Trước những
đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước và cảicách tưpháp, Đảng và Nhà nước luôn
đặt ra những yêu cầu mới trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm
sát nhân dân (VKSND). Điều này được thể hiện rõ trong các Nghị quyết của Đảng.
Nghị quyết số 08 NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã đặt ra yêu cầu đối với VKSND
các cấp là:Viện kiểm sát nhân dâncác cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt độngthực hành
quyềncông tốvà kiểm sát hoạt động tư pháp phải được thực hiện ngay từ khi khởi
tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp
saiphạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ...[8].Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách
tưpháp đến năm 2020"xác định: "....tăng cường nhiệm vụ của công tố trong hoạt
động điều tra..."[10]. Tiếp theo đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ IX của Ban
Chấp hành Trung ương khóaX ngày 05/01/2009 về việc tiếp tục thực hiện có
hiệu quả cải cách tư pháp đã khẳng định: "...Bảo đảm có điều kiện cho Viện kiểm
sát nhân dânthực hiện tốt chức năngthực hành quyền công tốvà kiểm sát hoạt động
tư pháp; tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra...". Điều này
cho thấy, hoạt động THQCT và KSHĐTPtrong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
của VKSND không ngừng được nâng cao về chất lượng, đổi mới về nội dung,
phương pháp, cáchthức thực hiện nhằm tạo ra những chuyển biến mới về chất của
công tác này.Theo quy định của Điều 137 Hiến pháp sửa đổi năm 2001, Điều 13
-14 Luật tổ chức VKSND năm 2002và Điều 112 -113Bộ luật tố tụng hình
sự(BLTTHS)hiện hành thì trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự VKSND có
chức năng, nhiệm vụ cụ thể là: khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ
quan điều tra (CQĐT)khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi
tố bị can; kiểm sát việc khởi tố; kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ
vụ án của CQĐT; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; trực
tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật; yêu cầu thủ
trưởng CQĐT thay đổiĐiều tra viên(ĐTV)theo quy định của pháp luật; nếu hành vi
của ĐTV có dấu hiệu của tội phạm thì khởi tố về hình sự; quyết định áp dụng, thay
đổi, hủybỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác, phê
chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT theo quy định của pháp luật;
hủybỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT; Quyết định việc truy tố bị can;
quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án;
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng; giải quyết các
tranh chấp về thẩm quyền điều tra theo quy định của pháp luật; yêu cầu CQĐT
khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu thủ trưởng
CQĐT xử lý nghiêm minh ĐTV đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra;
kiến nghị với cơ quan, tổ chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng
ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.Trong phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, VKSND đã góp phần hạn chế, khắc phục các vi phạm của cáccơ
quan tiến hành tố tụng(CQTHTT), người tiến hành tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, quyền và lợi ích của Nhà nước, các tổ chức xã hội khác...
Qua đó, đã góp phần không nhỏ vào hoạt động đấu tranh, phòng, chống tội phạm
và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa(XHCN).
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Luật tổ chức VKSNDnăm 2002, thời gian
qua Viện kiểm sát nhân dân thành phố(VKSNDTP) Hải Phòng trong công tác
THQCT và KSHĐTPở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự đã có nhiều cố gắng,
từng bước khắc phục khó khăn nâng cao chất lượng công tác. Tuy nhiên, qua tổng
kết hoạt động của VKSNDTPHải Phòngcho thấy, bên cạnh những kết quả đạt
được, công tác THQCT và KSHĐTPtrong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự vẫn
còn nhiều hạn chế, bất cập, đã ảnh hưởng đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Trong việc giải quyết một số vụ
án hình sự cụ thể ở giai đoạn điều tra có tình trạng Kiểm sát viên (KSV)được phân
công THQCT và KSĐT các vụ án hình sự đã không nhận thức và thực hiện đúng,
đầy đủ quyền hạn trách nhiệm của mình như: không tiến hànhkiểm sát điều
tra(KSĐT từ đầu), kiểm sát kết thúc điều tra, thụ động và phụ thuộc vào kết quả
điều tra của CQĐT, không kịp thời phát hiện các vi phạm của CQĐT trong hoạt
động khởi tố, điều tra vụ án hình sự, chưa đề ra được các yêucầu điều tra sát thực
nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong việc điều tra vụ án, dẫn đến tình trạng
Tòaán trả hồ sơ cho VKS(Viện kiểm sát), VKS trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ
sung do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc để lọt tội phạm vẫn còn xảy
ra.Chính vì vậy, trên phương diện là học viên cao học emchọn đề tài: "Chức năng,
nhiệm vụ của Viện kiểm sáttrong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn
thành phố Hải Phòng -Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"làm luận văn nghiên cứu
nhằm gópphần tìm ra các giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác
này, đáp ứng với yêu cầu của cải cách tưpháp trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
2. Tình hình nghiên cứuCó rất nhiều tác giả quan tâmđến vấn đề nàyđã viết bài
như: Kỹ năng THQCT vàkiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
-Nguyễn Văn Huyên; THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra -Lê Hữu
Thể;Một số nghiên cứu về vai trò của VKSND trong giai đoạn điều tra, truy tố,
quyền công tố và THQCTtại địa bàn tỉnh Thái Nguyên -Khoa luật trường Đại học
Quốc gia Hà Nội; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền công tố của VKSND
trong tố tụng hình sự... Tại VKSNDTPHải Phòng cũng đã có một số chuyên đề
nghiên cứu về vấn đề này như:chuyên đề án đình chỉ điều tra, chuyên đề giải pháp
nâng cao chất lượng bản cáo trạng, chuyên đề công tác THQCTvà KSĐT các vụ án
hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng năm 2008... Các công trình nghiên cứu
của các tác giả mới đề cập nhiều ở mặt lý luận và giới hạn ở một số khía cạnh của
từng nội dungcông tác THQCT và KSHĐTPchưa đề cập nhiều đến thực trạng của
hoạt động này tại Hải Phòng.Trong phạm vi đề tài nghiên cứu luận văn tập trung
làm sáng tỏ những chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong các quy định của pháp
luật hiện hành vàthông qua thực tiễnáp dụng, thực hiện hoạt động THQCT và
KSHĐTP trên địabàn thành phố Hải Phòng để tổng hợp, phân tích, đánh giá đúng
thực trạng hoạtđộng THQCT và KSHĐTP của VKSNDTPHải Phòng trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự,từ năm 2006 đến năm 2011. Trên cơ sởđó, đề ra
những đề xuất, kiến nghị, giải pháp để nâng cao chất lượng thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nói chung và VKSNDTPHải Phòng nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận vănNhằm nâng cao hơn nữa chất lượng THQCT và
KSHĐTP trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSND nói chung và
VKSNDTPHải Phòng nói riêng trong thời gian tới.-Mụcđích của việc nghiên cứulà
làm rõ một số vấn đề lý luận và những đòi hỏi, vướng mắc trong thực tiễn của công
tác THQCT và KSHĐTPtrong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSNDTP
Hải Phòng theo các quy định của BLTTHS năm 2003, từ đó có những kiến nghị đề
xuất nhằm nâng cao chất lượng của công tác này.-Từ mục đích trên, luận văn thực
hiện các nhiệm vụ cụ thể như:Nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về chức
năng, nhiệm vụ của VKSNDtrong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo quy
định của pháp luật hiện hành.
Tổng kết, đánh giá thực tiễn hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án hình sự của
VKSNDTP Hải Phòngtừ năm 2006 đến năm 2011. Xây dựng các giải pháp để khắc
phục những hạn chế và nâng cao chất lượng của công tác THQCT và
KSHĐTPtrong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu-Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm: lý
luận về chức năng nhiệm vụ của VKSND trong quá trình THQCT và KSHĐTP ở
giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS năm 2003 và hoạt
động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSNDTP Hải Phòngtừ năm 2006 đến
năm 2011.-Luận văn xác định nghiên cứu hoạt động THQCT và KSHĐTP của
VKSNDTPHải Phòng, không đề cập đến hoạt động của VKS quân sự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu-Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Nhà nước pháp luật của Hồ Chí Minh làm
nền tảng cho quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.-Các phương pháp
nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: thu thập số liệu, thông tin; thống kê, tổng
hợp, phân tích, đánh giá, so sánh...
6. Kết cấu của luận vănNgoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luậnvăn gồm:
Chương 1:Một số vấn đề lý luận về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong
giai đoạn điều tracácvụ án hình sự.
Chương 2:Thựctrạnghoạt động của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra tại thành
phố Hải Phòng.
Chương 3:Những kiến nghị, đềxuất, giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sáttrong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Chương 1MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRACÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. CHỨC NĂNGCỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA CÁC VỤÁN HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm chứcnăng của Viện kiểm sáttrong giai đoạn điều traThuật ngữ
"chức năng"theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học định nghĩa là hoạt
động, tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một cơ quan,một hệ cơ quan nào
đó trong cơ thể"[69]."Chức năng của Cơ quan nhà nước là hoạt động chủ
yếu, thường xuyên, có tính ổn định tương đối của riêng cơ quan đó nhằm thực
hiện chức năng chung của cả bộ máy nhà nước"[18]. Trong Bộ máy nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan VKSND là một mắt xích quan
trọng. Trong đó, nhà nước giao cho VKS hai chức năng cơ bản là THQCT và
KSHĐTP. Theo Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: "Viện
kiểm sát nhân dân tối caothực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp,
góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất"[31]vàĐiều 23BLTTHS quy định: Viện kiểm sát thực hành quyền công tốvà
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằmđảm bảo mọi hành vi
phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người
phạm tội, không làm oan người vô tội [33].Như vậy, VKS là cơ quan thay mặt Nhà
nước truy tố người phạm tội ratrước Tòa án để xét xử và là cơ quan giám sát của
Nhà nước trong quá trìnhgiải quyết vụ án hình sự từ giai đoạn khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án.
Trong tố tụng hình sự Việt Nam chưa có khái niệm quy định thế nào là "giai đoạn
tố tụng". Theo GS.TSKH Lê Cảm: Giai đoạn tố tụng hình sự là những bước của
quá trình tố tụng hình sự, tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư
pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thựchiện
các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải
quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp
luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền
hợp pháp của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự[3].Trên cơ sở các quy định
của BLTTHSViệt Nam thì quá trình tố tụng của nước ta trải qua các giai đoạn: khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.Điều tra là hoạt động có mục đích khám phá
sự thật khách quan phục vụ nhu cầu của con người. Trong lĩnh vực phòng, chống
tội phạm, điều tra là hoạt động khám phá, phát hiện tội phạm. Điều tra là giai đoạn
thứ 2 của quá trình tố tụng, trong đó, CQĐT căn cứ vào các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự và dướisự kiểm sát của VKS tiến hành các biện pháp cần thiết
nhằm thu thập và củng cố chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án, phát hiện
nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc bồi thường thiệt
hạido tội phạmgây ra và trên cơ sở đó quyết định: đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ
điều tra, chuyển toàn bộ tài liệu chứng cứ cho VKS đề nghị truy tố người phạm tội
theo tội danh nhất định được quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS).Chức năng
của VKS trong giai đoạn điều tra là tổng thể nhữngbiện pháp mà VKS áp dụng để
chứng minh việc thực hiện tội phạm, xác định rõ nguyên nhân, điều kiện thực hiện
hành vi phạm tội, động cơ, mục đích của tội phạm, lỗi của chủ thể cũng như nhân
thân người phạm tội, hậu quả của tội phạm, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả của tội phạm, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội
gây ra. Chức năng này là một phần của quyền công tố.Phạm vi thực hiện chức
năng nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi CQĐT hoặc cơ
quan khác có thẩm quyền điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc
khi CQĐT ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc tạm đình chỉ, đình
chỉ giải quyết vụ án.
1.1.2. Nội dung chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra
1.1.2.1. Thực hành quyền công tốTheo TS. Lê Hữu Thể: Quyền công tố là quyền
nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội, hay nói cách khác là quyền nhân
danh quyền lực công thực hiện việc truy cứutrách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội. Quyền này là quyền của Nhà nước, Nhà nước giao cho một cơ quan thực
hiện (ở nước ta từ năm 1960 đến nay là cơ quan Viện kiểm sát). Để làm được điều
này, cơ quan công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu,
chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định việc
truy tố bị can ra trước Tòaán và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa[38]. Quyền
công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự nhân danh công quyền đối với người
phạm tội nên đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội. Với
quan niệm như trên về quyền công tố và đối tượng của quyền công tố, theo ý kiến
của emnội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành
vi tội phạm.Hiện nay trong giới luật học của nước ta có nhiều quan điểm về phạm
viquyền công tố. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Quyền công tố của VKS được tiến
hành tại Tòaán thể hiện bằng quyết định truy tố bị can ra trước Tòaán thông qua
Cáo trạng, bằng việc đọc Cáo trạng tại phiên tòa, bằng lời buộc tội của KSV khi
tranh luận và đề nghị kết tội với mức và loại hình phạt nhất định. Do vậy,việc điều
tra vụ án được giao cho CQĐT là độc lập không liên quan đến chức năng của VKS.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyền công tố của VKS không chỉ ở giai đoạn xét xử
mà ngay từ giai đoạn điều tra.Hoạt động điều tra vụ án hình sự được thực hiện bởi
CQĐT bằng các quyết định tố tụng. Các quyết định này có thể bị VKS thay đổi
hoặc hủybỏ nếu không đúng quy định của pháp luật. Do vậy hoạt động điều tra của
CQĐT là những việc làm giúp VKS thực hiện chứcnăng công tố.Với quan
niệmquyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội, phạm vi của quyền này bắt đầu từ khi có tội
phạm xảy ra và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu tranh chống và phòng ngừa
tội phạm, Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy
định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Các quyền năng pháp
lý đó Nhà nướcgiao cho VKSthực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội.Thực tiễn hoạt động giải quyết án hình sự ở
nước ta50 năm qua cho thấy, CQĐT và Tòaán các cấp cũng khởi tố vụ án hình sự,
thậm chí số vụ án do các CQĐT thực hiện việc khởi tố chiếm tới khoảng hơn
95%.Số vụ án VKS khởi tố và yêu cầu khởi tố chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với tổng
số vụ án mà CQĐT khởi tố. Tuy nhiên phải thấy rằng xét đến cùng VKS là cơ quan
có vai trò quyết định trong việc khởi tố. CQĐT có quyền bắt người phạm tội, điều
tra thu thập chứng cứ v.v... Nhưng đây thực chất chỉ là những hoạt động hỗ trợ,
phục vụ cho hoạt động công tố. Trên cơ sở kết quả điều tra, lời luận tội của KSV và
kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên tòa, Tòaán áp dụng pháp luật quy kết trách
nhiệm đối với bị cáo. Bản án kết tội của Tòaán cũng là sự chấp nhận lời buộc tội
của VKS đối với người phạm tội.Từ những nội dung trình bày trên, có thể
hiểuTHQCT là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Theo đó,THQCT trong các giai
đoạn điều tralà việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội trong giai đoạn này.Từ định nghĩa này, có thể rút ra kết luận về một số đặc điểm
của hoạt động thựchành quyền công tố như sau:Thứ nhất,THQCT do VKS thực
hiện, vì vậy nó mang tính quyền lực nhà nước và có tính mục đích: Bảo đảm mọi
hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; việc điều tra phải khách
quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác.Thứ hai,THQCT là những hoạt động phát động
công tố, đó là khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Khởi tố vụ án là việc Nhà nước chính
thức công khai trước toàn xã hội có tội phạm xảy ra và bắt đầu triển khai hoạt động
thực hành quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện tội phạm
đó. Còn khởi tố bị can là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chính thức tuyên
bố về mặt pháp lý một người nào đó có dấu hiệu phạm tội và đang bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.Khi quyền công tố đã được khởi động, đòi hỏi CQĐTphải tiến
hànhđiều tra để làm rõ có tội phạm xảy ra hay không? Nếu có, ai là người phạm
tội, phạm tội gì, mức độ phạm tội ?...Thứ ba, trong giai đoạn điều tra vụ án, VKS
THQCT với những nội dung cơ bản sau đây:-Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi
quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can.-Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT
tiến hành điều tra.-Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra.
-Quyết định áp dụng, thay đổi, hủybỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện
pháp ngăn chặn khác.-Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT.Hủybỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT -Quyết định việc truy tố bị canQuyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra.-Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ
án.Một vấn đề rất quan trọng bắt buộc phải làm rõ khi nói về hoạt động THQCT,
đó là phạm vi và nội dung THQCT. Theoem,phạm vi THQCT bắt đầu từ khi phát
hiện có dấu hiệu tội phạm và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị
kháng cáo, kháng nghị, hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự. Trong giai đoạn điều tra, phạm vi THQCT bắt đầu từ khi phát hiện có
dấu hiệu tội phạm xảy ra đến khi kết thúc việc điều tra, VKS ra quyết định truy tố
hoặc đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.Việc xác định
đúng khái niệm, đặc điểm, phạm vi của hoạt động THQCT trong giai đoạn
điều travụ án hình sự là căn cứ, cơ sở để phân biệt với hoạt động KSHĐTPtrong
giai đoạn điều travụ án hình sự và các hoạt động thực hiện chức năng khác nhằm
thực hiện đúng thẩm quyền trong quá trình điều tra vụ án hình sự, từ đó nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác.
1.1.2.2. Kiểm sát hoạt động tư phápTrong khoa học pháp lý đang tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau xung quanh khái niệm hoạt động tư pháp:Thứ nhất, hoạt
động tư pháp là hoạt động của các cơ quan: điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan thi
hành án và các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho công tác xét xử của
Tòaán. Tòaán sử dụng công khai các kết quả hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa,
giám định tư pháp, áp dụng các thủ tục tư pháp theo luật định để nhân danh Nhà
nước đưa ra phán quyết cuối cùng thể hiện quyền lực nhà nước.Thứ hai, có bốn
dạnghoạt động tư pháp tương ứng với bốn chức năng của quyền tư pháp. Một
là,thực hiện thẩm quyền giải thích các quy phạm pháp luật mà trước hết là giải
thích Hiến pháp. Hai là,thực hiện thẩm quyền xét xử bằng hoạt động tố tụng tư
pháp. Ba là,thực hiện thẩm quyền giám sát của Tòaán đối với tính hợp pháp và có
căn cứ của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước có tính chất tố tụng,tức
là thực hiện sự kiểm tra của Tòaán trong việc áp dụng các chế tài về hành chính, tố
tụng hình sự và hình sự của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Bốn là,thực hiện thẩm
quyền xác nhận chính thức các sự kiện thông qua các hành vicụ thểcó ý nghĩa pháp
lýtrong các lĩnh vực của đời sống xã hội hoặc hạn chế quyền chủ thể tương ứng của
các công dân trong quá trình giải quyết các mối quan hệ xã hội.Thứ ba, hoạt động
tư pháp là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào việc giải
quyết các tranh chấp pháp lý, các vi phạm pháp luật thuộc thẩm quyền phán quyết
của Tòaán và thi hành các phán quyết đó theo thủ tục tố tụng mà pháp luật quy
định. Từ góc độ chủ thể, hoạt động tư pháp là hoạt động của các CQTHTT(các cơ
quan tư pháp), các cơ quan thựchiện một số nhiệm vụ tố tụng, các cơ quan bổ trợ
tư pháp (giám định tư pháp, công chứng tư pháp, luật sư).Thứ tư, hoạt động tư
pháp phải do cơ quan tư pháp tiến hành. Tuy nhiên, không phải tất cả các hoạt
động của cơ quan tư pháp đều được gọi là hoạt động tư pháp. Xuất phát từ nghĩa
rộng của khái niệm tư pháp, có thể hiểu hoạt động tư pháp là các hoạt động liên
quan tới quá trình giải quyết các tranh chấp bao gồm các hoạt động điều tra, thu
thập tài liệu, chứng cứ về tranh chấp; hoạt động khởi kiện, khởi tố, truy tố; hoặc
xét xử và thi hành các phán quyết của Tòaán trong thực tiễn. Cũng như các cơ quan
nhà nước khác, các cơ quan tư pháp cũng có nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau.
Bên cạnh hoạt động tư pháp (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án)mỗi cơ
quan tưpháp còn có nhiều lĩnh vực hoạt động khácnhưng nó không gắn với quá
trình giải quyết một vụ án cụ thể nên không được gọi là hoạt động tư pháp.Ví dụ
hoạt động phòng ngừa tội phạm, tuyên truyền, giáo dục pháp luật...Để thực hiện
chức năng,nhiệm vụ của mình, các cơ quan tư pháp còn tiến hành một loại hoạt
động mà hoạt động này được điều chỉnh bằng pháp luật hành chính chứ không
được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng. Vì vậy,nó cũng khôngđược coi là hoạt
động tư pháp (hoạt động báo cáo công tác của cấp dưới với cấp trên, hoạt động
tổng kết công tác của mỗi cơ quan, hoạt động thanh tra). Trong quá trình thực hiện
hoạt động tư pháp, giữa những người ở các cơ quan tư pháp khác nhau luôn tồn tại
một loại quan hệ được gọi là quan hệhành chính -tư pháp (quan hệ hành chính giữa
Thủ trưởng và nhân viên trong việc phân công công tác, quan hệ phối hợp giữa các
cơ quan tư pháp). Vìkhông phải là hoạt động tư pháp nên những hoạt động nói trên
cũng không phải là đối tượng của kiểm sát tư pháp.Emtán thành quan điểmnày vì
đây là quan điểm có cơ sở lý luận và thực tiễn.Theo TS. Lê Hữu Thể: Hoạt động tố
tụng hình sự là một khái niệm chung của khoa học pháp lý, dùng để chỉ những hoạt
động được thực hiện bởicác cơ quan và người tiến hành tố tụng, các cơ quan được
giao thẩm quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng, các tổ chức, cá nhân tham gia
tố tụng,theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, trong quá trình giải quyết các
vụ án hình sự và thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòaán.
Còn hoạt động tư pháp hình sự vốn được coi là đối tượng kiểm sát của Viện kiểm
sátlà những công việc cụ thể, trực tiếp chỉ do các cơ quan tư pháp, các cơ quan
được giao một số thẩm quyền tư pháp, như Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội biên
phòng, Lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, và các Ủyban nhân dân xã,
phường được giao thực hiện một số hoạt động thi hành án chịu trách nhiệm thực
hiện, trên cơ sở các quy định của pháp luậttố tụng hình sự nhằm giải quyết một vụ
án hình sự cụ thể và thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án. Hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực nhànước trong lĩnh vực tư
pháp[37].Từ những phân tích nêu trên, có thể hiểu Hoạt động tư pháp là tập hợp
những việc làm cụ thể do cơ quan tư pháp thực hiện trong tố tụng trực tiếp liên
quan và hướng tới mục đích giải quyết các vụ án một cách đúng đắn, khách
quan.Hoạt động tư pháp có các đặc điểm sau:Thứ nhất, là hoạt động chỉ docác cơ
quan tư pháp và các cơ quan được giao thực hiện một số thẩm quyền tư pháp chịu
trách nhiệm trực tiếp thực hiện. Đây là những hoạt động có tính quyền lực nhà
nước.Thứ hai,là những hoạt động trực tiếp nhằm giải quyết một vụ án hình sự cụ
thể và thihành bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòaán.Thứ ba, là những hoạt
động được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng hình sự.Như vậy, xét ở góc độ chủ thể
tiến hành và tham gia hoạt động tố tụng, phạm vi hoạt động tư pháp hình sự hẹp
hơn so với hoạt độngtố tụng hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự do nhiều chủ thể
khác nhau thực hiện, gồm cả các CQTHTT, các cơ quan được giao thẩm quyền
thực hiện một số hoạt động tư pháp, các cơ quan bổ trợ tư pháp và người tham gia
tố tụng. Hoạt động tư pháp hình sự là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước
trong tố tụng hình sự và chỉ do các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao thẩm
quyền thực hiện một số hoạt động tư pháp tiến hành. Vì vậy,hoạt động tưpháp
trong giai đoạn điều tra làhoạt động của CQĐT, của các cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và hoạt động THQCT của VKS, nhằm bảo
đảm cho việc giải quyết vụ án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.Một vấn
đề cần lưu ý là ngoài các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao thẩm quyền
tiến hành một số hoạt động tư pháp nêu trên còn có các cơ quan bổ trợ tư pháp. Đó
là các cơ quan công chứng, giám định, bào chữa. Hoạt động của các cơ quan này
không phải là hoạt động tư pháp mà là hoạt động bổ trợ tư pháp, nhằm góp phần
cho việc giải quyếtcác vụ án hình sự được đúng đắn, khách quan và cũng bị điều
chỉnh bởi các quy định của pháp luật tố tụng hình sự.Cùng với các hoạt động tư
pháp và hoạt động bổ trợ tư pháp, còn có các hoạt động tham gia tố tụng của những
người khác như người bị tạm giữ,bị can, bị cáo, người làm chứng, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự v.v... Hoạt động của những người này cũng không phải là hoạt
động tư pháp, mà chỉ là các hoạt động tham gia tố tụng bình thường, nhằm góp
phần cho việc giải quyết các vụ án hình sự được đúng đắn, khách quan theo quy
định của pháp luật tố tụng.Do vậy, trước hết phải khẳng định KSHĐTPlà chức
năng hiến định của VKS, được quy định tạiĐiều 137 Hiến pháp năm 1992.
KSHĐTPlà một dạng giám sát nhà nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính
quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát nhà nước nói chung
về tư pháp, KSHĐTPlà sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan
tư pháp và các cơ quan được giao một số thẩm quyền tư pháp trong quá trình tố
tụng. Mục đích của KSHĐTPhình sự là nhằm bảo đảm cho pháp luật được áp dụng
nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự. Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, VKS có trách nhiệm áp dụng
những biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định để loại trừ việc vi
phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan tư pháp hoặc cán bộ tư pháp nào. Ởnước ta,
hoạt động KSHĐTPhình sự chỉ do duy nhất một chủ thể tiến hành, đó là cơ quan
VKS. Hoạt động này được thực hiện bởi các KSV là người tiến hành tố tụng trong
tố tụng hình sự, trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKS được ghi
nhận trong Luật tổ chức VKSND và BLTTHS. KSHĐTPhình sự là hoạt động thực
hiện quyền lực nhà nước, do Quốc hội giao cho VKS nhằm bảo đảm pháp chế
trong hoạt động tư pháp hình sự.Bản chất của kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong các hoạt động tư pháp hình sự là kiểm tra tính hợp pháp trong hành vi của
các chủ thể bị kiểm sát, theo emđối tượng của kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong các hoạt động tư pháp hình sự là hành vi xử sự của các cơ quan tư pháp và
các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động tư pháp trong quá
trình tiến hành tố tụng hình sự. Đối tượng của kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong các hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra là hành vi xử sự của các CQĐT và
các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Khi tiến hành
hoạt động kiểm sát, VKS phải dựa trên các căn cứ pháp lý là Hiến pháp, Luật tổ
chức VKSND, BLHS, BLTTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan để theo
dõi, xem xét, bảo đảm sự tuân theo pháp luật của các chủ thể bị kiểm sát cũng như
để bảo đảm tính hợp pháp của ngay chính các hoạt động kiểm sát của VKS. Đồng
thời, mối quan hệ giữa VKS cấp trên với các VKS cấp dưới không phải là quan hệ
"kiểm sát việc tuân theo pháp luật". Đây chỉ là quan hệ quản lý trong chỉ đạo, điều
hành giữa cấp trên và cấp dưới. Vì vậy, VKS cấp trên không thể áp dụng các quyền
kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với VKS cấp dưới như đối với các chủ thể
khác. Phạm vicủa KSHĐTPhình sự là vấn đề cũng đang có nhiều tranh luận. Về
mặt lý luận, phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra, theo đó
các cơ quan tư pháp có thẩm quyền có trách nhiệm phát động quyền công tố để
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Khi quyền công tố được phát
động thì mặc nhiên phát sinh hoạt động tố tụng của các chủ thể tiến hành tố tụng
trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Do đó, đòi hỏi hoạt động kiểm sátviệc tuân theo pháp luật trong
các hoạt động tư pháp cũng được bắt đầu tiến hành để bảo đảm các hành vi tố tụng
của các chủ thể nói trên tuân thủ
pháp luật. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp
sẽ chấm dứt khi kết thúc các hoạt động tố tụng và mục đích của tố tụng hình sự đã
đạt được. Nói cách khác, trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự đều có hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tư pháp, nhằm bảo
đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự.Về mặt nguyên tắc, phạm vi
của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp hình sự bắt đầu
từ khi vụ án hình sự được khởi tố (một số trường hợp có thể được tiến hành trước
khi khởi tố: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi...) và kết thúc khi
người phạm tội đã thi hành xong bản án. Phạm vi của KSHĐTPở giai đoạn điều tra
bắt đầu từkhi vụ án hình sự được khởi tốvà kết thúc khi VKS quyết định việc truy
tố hoặc không truy tố kẻ phạm tội ra tòa, hoặc khi vụ án được đình chỉtheo qui định
của pháp luật tố tụng hình sự.Khi tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của các chủ thể thực hiện các hoạt động tư pháp hình sự, VKS có những quyền
hạn sau đây: Thứ nhấtlà các các quyền nhằm phát hiện vi phạm pháp luật củacác
cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tư pháp. Những quyền trên nhằm
bảo đảm cho VKS nắm được vi phạm, xác định nguyên nhân và điều kiện dẫn đến
vi phạm. Trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp để khắc phục vi phạmnhằm bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Thứ hailà các quyền
yêu cầu khắc phục, xử lý vi phạm của các chủ thể tiến hành các hoạt động tư pháp
hình sự.Từ những nội dung trình bày trên, có thể đưa ra khái niệm về
KSHĐTPhình sự như sau: KSHĐTPhình sự là chức năng Hiến định của VKS, có
nội dung là giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được
giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được
thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.
Theo đó, KSHĐTPtrong giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là:hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luậtcủa VKStrong việc điều tra của CQĐT, các cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hànhmột số hoạt động điều tra trong quá trình
điều tra vụ ánhình sựnhằm bảo đảm cho việc điều tra được tiến hành theo đúng các
quy định của pháp luật.Từ khái niệmtrên trên có thểrút ra đặc điểm KSHĐTP trong
giai đoạn điều travụ án hình sựnhư sau:Thứ nhất, KSHĐTP trong giai đoạn điều
travụ án hình sựlà hoạt động chỉ do VKS chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện. Đây
là những hoạt động có tính quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm cho pháp luật được
áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra.Thứ hai,KSHĐTP
trong giai đoạn điều travụ án hình sựlà những hoạt động phát hiện vi phạm và yêu
cầu xử lý vi phạm của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành các hoạt
động điều tra, nhằm đảm bảo cho phápluật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất trong quá trình điều tra vụ án.Thứ ba, trong giai đoạn điều tra vụ ánhình sự,
VKS KSHĐTP với những nội dung cơ bản sau đây:-Kiểm sát việc khởi tố, kiểm
sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT.-Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của người tham gia tố tụng.-Giải quyết các tranh chấp về thẩm
quyền điều tra.-Yêu cầu CQĐT khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động điều
tra; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của ĐTV; yêu
cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêmđối vớiĐTV đã vi phạm pháp luật trong khi
tiến hành điều tra.-Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp
phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.Việc xác định đúng khái niệm, đặc
điểm, phạm vi của hoạt động tư pháp và KSHĐTP trong giai đoạn điều travụ án
hình sự là căn cứ, cơ sở để phân biệt với hoạt động THQCT trong giai đoạn điều
travụ án hình sự và các hoạt động thực hiện chức năng khác của VKS, nhằm thực
hiện đúng thẩm quyềntrong quá trình KSĐT vụ án, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác.Tóm lại, ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự, THQCT là những biện
pháp mà VKS trực tiếp quyết định:quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; quyết
định áp dụng, thay đổi, hủybỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết định phê chuẩn các
quyết định của CQĐT; quyết định việc truy tố bị can ra Tòaán; còn KSHĐTPlà
những biện pháp VKS không trực tiếp ra quyết định, mà qua công tác kiểm sát, nếu
phát hiện các vi phạm pháp luật của CQĐT thì yêu cầu, kiến nghị CQĐT, các cơ
quan được giao một số hoạt động điều tra khắc phục.Giữa hoạt động KSHĐTP và
THQCT trong giai đoạn điều travụ án hình sựcó mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng
với nhau,hỗ trợ cho nhau. Mối quan hệ này song song tồn tại trong phạm vi bắt đầu
từ khi tội phạm được phát hiện, khởi tố, điều tra cho đến khi CQĐT kết thúc quá
trình điều tra. Trong mối quan hệ giữa hoạt động THQCT và KSHĐTPtrong giai
đoạn điều travụ án hình sự, cần phải lưu ýmục đích của hoạt động THQCT và mục
đích của hoạt động kiểm sát tư pháp trong giai đoạn điều tra.Mục đích của hoạt
động THQCT ở giai đoạn điều tra là nhằm chứng minh tội phạm và người phạm tội
cũng như các hành vi thực hiện tội phạm của họ. Hoạt động này phải đầy đủ, chính
xác, khách quan, theo đúng các trình tự, thủ tục, nội dung do pháp luật quy định.
KSHĐTPở giai đoạn điều tra có mục đích là bảo đảm các hoạt động điều tra (hoạt
động chứng minh tội phạm trong giai đoạn điều tra) được đúng đắn, đầy đủ, khách
quan, tức là được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung do pháp luật quy
- Xem thêm -