Tên sách: Chúa Ruồi
Tác giả: William Golding
Dịch giả: Lê Chu Cầu
Nguyên tác: Lord of the Flies
Nhà xuất bản: Văn học
Năm xuất bản: 2010
Số trang: 324
Khổ sách: 13 x 20,5 cm
Trọng lượng: 330 gr
Thực hiện ebook: hiepsiga
Ngày hoàn thành: 19/12/2010
Nguồn: http://www.e-thuvien.com/
----TVE---MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CÁC Ý KIẾN VỀ TÁC PHẨM
CHƯƠNG MỘT
Tiếng chiếc tù và vỏ ốc
CHƯƠNG HAI
Ngọn lửa trên núi
CHƯƠNG BA
Những chiếc lều trên bãi biển
CHƯƠNG BỐN
Mặt vẽ vằn vện và tóc dài
CHƯƠNG NĂM
Ác thú từ ngoài khơi
CHƯƠNG SÁU
Ác thú từ trời cao
CHƯƠNG BẢY
Cây cao bóng cả
CHƯƠNG TÁM
Lễ vật cho Ác quỷ
CHƯƠNG CHÍN
Trông thấy người chết
CHƯƠNG MƯỜI
Vỏ sò và mắt kính
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Tòa Thành Đá
CHƯƠNG MƯỜI HAI
Tiếng hò hét của lũ săn người
LỜI NÓI ĐẦU
William G erald G olding sinh năm
1911 tại Cornwall nước Anh. Xong trung
học, ông theo ngành vật lý để vừa lòng
cha mẹ. Được hai năm, thấy không thích
khoa học tự nhiên nên ông chuyển sang
văn học và triết. Năm 1935, sau khi tốt
nghiệp, G olding lấy thêm bằng sư phạm
và dạy tại nhiều trường khác nhau và từ
năm 1935 đến 1940, trong đó có một
trường dành riêng cho nam sinh.
Năm 1940, khi thế chiến I I bùng nổ,
G olding phục vụ trong Hải quân Hoàng
gia Anh. Là thuyền trưởng, ông đã lập
được nhiều chiến công xuất sắc. G olding
từng có mặt trong chiến dịch đổ bộ lên
Normandie (Pháp) năm 1944 của quân
Đồng minh. Năm 1945, chiến tranh kết
thúc, ông trở lại với nghề sư phạm.
G olding cho rằng những thảm họa
ông từng chứng kiến trong chiến tranh: sự
dã man của con người, đặc biệt là tội ác
diệt chủng của Đức Q uốc xã… tất cả chỉ có
thể giải thích được qua cái Ác Bẩm sinh.
Chúa Ruồi (Lord of the Flies), cuốn tiểu
thuyết đầu tay và nổi tiếng nhất của
G olding xuất bản năm 1954 mang đậm ưu
tư này của tác giả. Truyện kể về diễn tiến
bi thảm trong cuộc sống của mấy chục
đứa trẻ khoảng từ sáu đến mười hai tuổi
may mắn sống sót trên một hoang đảo ở
Nam Thái Bình Dương sau khi chiếc máy
bay chở chúng đi sơ tán bị trúng đạn trong
một cuộc chiến tranh nguyên tử.
Cũng bối cảnh là hoang đảo, nhưng
khác với loại chuyện phiêu lưu có hậu
kiểu Robinson Crusoe hay Đảo giấu vàng…
Chúa Ruồi là một câu chuyện ngụ ngôn, tư
tưởng của tác giả ẩn sau rất nhiều ẩn dụ
và biểu tượng.
Mới đầu, khoảng hai mươi nhà xuất
bản ở Anh đã từ chối bản thảo của
G olding. Cuối cùng, cuốn sách được nhà
xuất bản Faber and Faber tại London phát
hành, song chẳng gây được tiếng vang gì.
Tuy nhiên, hai, ba năm sau, cuốn tiểu
thuyết được nồng nhiệt đón nhận ở Mỹ.
Điều này không thể giải thích rằng “Bụt
chùa nhà không thiêng”, mà vì người dân
Anh mới trải qua hai cuộc thế chiến thảm
khốc chỉ trong vòng hơn hai mươi năm, họ
đâm ra kỵ loại truyện có nội dung u ám, bi
quan. Từ đó, Chúa Ruồi trở nên nổi tiếng,
được đưa vào giáo trình văn học ở Anh,
Mỹ và nhiều nước Châu Âu, tác phẩm còn
được dựng thành phim hai lần – năm 1963
và 1990.
S a u Chúa Ruồi, G olding còn cho ra
đời nhiều tác phẩm khác, phần lớn đều
mang nỗi trăn trở của ông về hai chữ
Thiện và Ác của con người.
Năm 1980, Những nghi lễ của chuyến
đi (Rites of Passage), tập đầu trong bộ
truyện ba quyển với chủ đề tương tự Chúa
Ruồi, đoạt giải Booker.
Năm 1983 G olding được trao giải
Nobel văn học vì sự nghiệp của ông.
Năm 1988 ông được Nữ hoàng
Elizabeth II ban tước Sir.
William G olding mất ngày 19 tháng
Sáu 1993.
Lê Chu Cầu
CÁC Ý KIẾN VỀ TÁC PHẨM
“N ếu Chúa Ruồi chỉ đơn thuần là một
tác phẩm văn học thiếu nhi, ắt hẳn nó sẽ vô
cùng rạo rực và tươi sáng, nhưng tác giả của
nó là Golding, người đã trải qua đủ ác mộng
để hiểu rằng: nơi nào con người không kiềm chế
được cái ác bản năng thì dẫu chỉ là trò chơi của
trẻ nít, vườn địa đàng sớm muộn cũng thành
địa ngục.”
- The Times
Trong một cuộc chiến tranh nguyên
tử, mấy chục đứa trẻ chưa đến tuổi thiếu
niên “may mắn” sống sót trên một hoang
đảo sau khi chiếc máy bay chở chúng đi sơ
tán bị trúng đạn. Chúng tập họp dưới bầu
trời Nam Thái Bình Dương nắng gắt, chia
sẻ gánh nặng và đặt niềm tin vào thủ lĩnh.
Nhưng rồi, cái đói và thiên nhiên khắc
nghiệt từng bước vắt kiệt bọn trẻ. Bản
năng sinh tồn đã dần bóp nghẹt sự ngây
thơ – từ đây thực tại của chúng tan hòa
vào ác mộng.
Một câu chuyện ngụ ngôn đau đớn
và hãi hùng, ngập tràn những tư tưởng ẩn
sâu dưới hàng hàng lớp lớp ẩn dụ và biểu
tượng. Với Chúa Ruồi, một kiệt tác văn học
kinh điển đầy ám ảnh, William Golding đã
khiến các nhà phê bình văn học hao tốn
giấy mực chỉ để tranh luận về một vấn đề:
Có thực “nhân chi sơ tính bản thiện” hay
chăng là… ngược lại?
“Chỉ vài tuần giữa nơi hoang vắng đã
đủ khiến con người quay lại với bóng tối u mê,
nơi hắn đã phải mất hàng ngàn năm để rũ bỏ.
Chúa Ruồi là câu chuyện phiêu lưu giả tưởng
gần nhất với thực tại.”
- The New York Times
CHƯƠNG MỘT
Tiếng chiếc tù và vỏ ốc
Thằng nhóc tóc vàng tuột xuống nốt
vài mét cuối cùng của tảng đá rồi thận
trọng rẽ lối ra phá nước. Tuy nó đã cởi
phăng chiếc áo len đồng phục và kéo lê
bằng một bên tay, nhưng chiếc áo sơ mi
xám vẫn dính sát vào người còn tóc nó bết
trên trán. Xung quanh thằng nhóc, nơi vệt
sẹo cắt dài trên cánh rừng, là một bể hơi
nóng hầm hập. Nó đang vất vả trèo qua
đám dây leo và những thân cây gãy gục
thì bỗng nhiên một con chim, chỉ thoáng
thấy màu đỏ và vàng, vỗ cánh vọt lên
cùng một tiếng kêu quang quác như phù
thủy; một tiếng kêu khác vọng lại ngay tức
thì.
“Ê!” Tiếng kia nói. “Chờ tao chút!”
Tầng cây thấp bên rìa vệt sẹo lay
động, liền đó muôn giọt nước mưa ào ào
rơi xuống.
“Chờ một chút,” tiếng kia nói. “Tao bị
mắc kẹt.”
Thằng tóc vàng dừng lại rồi giật vớ
lên, động tác ấy thản nhiên đến mức trong
một khoảnh khắc khu rừng nhiệt đới
chẳng khác gì các quận hạt ở quê nhà nó.
Tiếng kia lại cất lên.
“Tao hầu như không cục cựa nổi với
cái đám dây neo[1] này.”
Chủ nhân tiếng nói kia bước lùi khỏi
tầng cây thấp, những cành con cạ vào
chiếc áo gió nhầy nhụa của nó. Hai khoeo
chân nần nẫn thịt trầy trụa do móc phải
gai. Nó cúi xuống, thận trọng nhổ gai ra rồi
quay lại. Nó thấp hơn thằng tóc vàng và
béo quay. Nó bước tới, tìm chỗ chắc chắn
để đặt chân rồi ngước nhìn qua đôi mắt
kính dày cộm.
“Cái ông cầm noa đâu rồi?”
Thằng tóc vàng lắc đầu.
“Ở đây là đảo. Ít ra theo tao nghĩ thì
đây là một hòn đảo. Ngoài biển kia có một
dải đá ngầm. Không chừng khắp đảo này
chẳng có người lớn nào cả.”
Thằng mập xem chừng hoảng hốt.
“Có tay phi công. Nhưng hắn không
ngồi trong khoang hành khách, hắn ngồi
chỗ buồng nái phía trước.”
Thằng tóc vàng nheo mắt chăm chú
nhìn về phía dải đá ngầm.
“Còn cả mớ đứa khác nữa,” thằng
mập nói tiếp. “Một số trong đó phải thoát
ra được chứ. Tụi nó phải thoát được chứ,
nhỉ?”
Thằng tóc vàng hờ hững lần bước về
phía phá nước. Nó cố làm ra vẻ tự nhiên
chứ không quá lộ liễu rằng nó chẳng hề
quan tâm, nhưng thằng mập cứ hối hả
bám theo.
“Hoàn toàn không có người nớn nào
thật à?”
“Tao nghĩ thế.”
Thằng tóc vàng nghiêm trang nói; rồi
nó chợt sướng như điên vì điều mình
thầm mơ ước đã thành sự thật. Nó liền
trồng cây chuối ngay chính giữa vệt sẹo,
toét miệng cười với hình ảnh lộn ngược
của thằng mập.
“Không có người lớn nào hết!”
Thằng mập ngẫm nghĩ một lúc.
“Còn tay phi công.”
Thằng tóc vàng lộn đầu trở lại rồi
ngồi xuống mặt đất ẩm.
“Chắc hắn bay đi ngay sau khi thả
bọn mình. Hắn đâu hạ cánh xuống đây
được. Máy bay có bánh không đáp xuống
được đâu.”
“Bọn mình bị tấn công!”
“Hắn sẽ quay lại thôi.”
Thằng mập lắc đầu.
“Lúc cả bọn hạ xuống tao có ngó qua
một trong những ô cửa sổ. Tao đã thấy cái
phần khác của máy bay. Nửa phụt ra ở từ
đó.”
Nó nhìn ngược ngó xuôi cái vệt sẹo.
“Và đây là do cái khoang hành khách
gây ra đấy.”
Thằng tóc vàng vươn tay sờ sờ một
đầu thân cây gãy lởm chởm. Trong một
khoảnh khắc nó lộ ra vẻ quan tâm.
“Cái khoang ấy sao rồi?” Nó hỏi.
“Bây giờ nó ở đâu?”
“Bão cuốn nó ra biển rồi. Với bao cây
cối gãy đổ thế này thì nguy nắm chứ
chẳng đùa. Chắc vẫn còn vài đứa kẹt trong
đó.”
Nó ngập ngừng một lúc rồi nói tiếp.
“Mày tên gì?”
“Ralph”
Thằng mập chờ tới lượt nó được hỏi
tên nhưng sự hồ hởi muốn được làm quen
của nó không được đáp lại; thằng tóc vàng
tên Ralph cười lơ đãng, đứng bật dậy rồi
lại lần tìm ra phá nước. Thằng mập theo
sát gót.
“Tao nghĩ chắc còn cả đống đứa khác
như bọn mình rải rác đâu đây. Mày vẫn
chưa thấy đứa nào đấy chứ?”
Ralph lắc đầu và bước nhanh hơn.
Rồi nó vấp phải cành cây, ngã đánh uỵch
một cái.
Thằng mập đứng lại bên cạnh, thở
dốc.
“Cô tao bảo chớ có chạy,” nó giải
thích. “Vì tao bị suyễn.”
“Bệnh xiễn à?”
“Đúng thế. Tao không thở được. Tao
nà thằng duy nhất trong trường bị suyễn,”
thằng mập nói với vẻ hơi tự hào. “Và tao
đeo kính từ núc nên ba.”
Nó gỡ kính, mắt hấp háy mỉm cười
chìa cho Ralph xem, rồi lại chùi kính vào
cái áo gió bẩn thỉu. Một cơn đau quặn
trong người làm méo mó gương mặt xanh
xao của nó. Nó quệt mồ hôi lên má rồi
chỉnh vội lại kính trên sống mũi.
“Tại trái cây đấy.”
Nó ngó quanh vệt sẹo.
“Tại trái cây,” nó nói. “Tao nghĩ nà…”
Thằng mập đeo kính đứng lên rồi để
Ralph đứng đó, lạch bạch chui qua đám lá
chằng chịt.
“Tao ra đây một chút thôi…”
Ralph thận trọng gỡ mình khỏi đám
cành lá rồi lẩn đi. S au vài giây nó đã bỏ
tiếng hổn hển của thằng mập lại phía sau,
hối hả tiến về phía tấm màn còn ngăn
cách nó với phá nước. Leo qua một thân
cây đổ, nó ra khỏi rừng già.
Bãi biển tua tủa những cây dừa.
Chúng vươn thẳng hay nghiêng về phía
ánh sáng với những cái tán màu lục cao
tới cả vài chục mét. Bờ đất bên dưới mọc
đầy cỏ lá thô, ngổn ngang các thân cây gãy
đổ, rải rác những quả dừa thối rữa và gốc
dừa non. Phía sau nó là bóng tối của rừng
già và vệt sẹo toang hoác. Ralph đứng tì
một tay vào thân cây màu xám, nheo mắt
nhìn mặt nước lung linh. Ngoài kia, chừng
một dặm, sóng bạc không ngớt xô vào
rặng san hô ngầm, xa hơn nữa là trùng
dương một màu lam sẫm. Phía trong
đường cong lởm chởm của dải san hô là
- Xem thêm -