Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Văn học Chủ tịch hồ chí minh...

Tài liệu Chủ tịch hồ chí minh

.PDF
20
252
58

Mô tả:

Chủ tịch Hồ Chí Minh
I . MỞ ĐẦU 1 . Lý do chọn đề tài . Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa lớn của nhân loại. Người là hiện thân cao đẹp của giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách mạng. Người đã viết: Hồ chí Minh đã nói :"có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Nẵm rõ bản chất và vai trò lãnh đạo của Ðảng nên từ năm 1947, người Đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Cuốn sách có sáu phần. Phần I: Phê bình và sửa chữa Phần II: Mấy điều kinh nghiệm Phần III: Tư cách và đạo đức cách mạng Phần IV: Vấn đề cán bộ Phần V: Cách lãnh đạo Phần VI: Chống thói ba hoa , để xây dựng cách lãnh đạo và lề lối làm việc, làm cẩm nang cho cán bộ đảng viên trong điều kiện Ðảng cầm quyền.Trong đó đáng chú ý nhất là phần I và phần III. Sau khi tổng hợp và vạch rõ những căn bệnh bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân có thể làm ảnh hưởng đến uy tín và danh dự, thậm chí phá hỏng cả sự nghiệp vẻ vang của Ðảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên, trước hết là lãnh đạo chủ chốt thật sự có đức, có tài, tiêu biểu cho trí tuệ,danh dự, lương tâm của Ðảng Cộng sản. Qua thực tiễn hoạt động và những thành quả cách mạng đã đạt được, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên một số bài học mà chúng ta cần nghiêm túc nghiên cứu, áp dụng sáng tạo trong hoàn cảnh Ðảng ta đang kiên trì và nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ then chốt là xây dựng Ðảng, vững mạnh trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ, công chức, mỗi người dân Việt Nam đối với Bác kính yêu - một con người mà tư tưởng và tầm vóc vĩ đại đã vượt qua mọi không gian và thời gian, trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của văn minh nhân loại, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới.Trong “ Hồ Chí Minh toàn tập”, tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” là một tác phẩm lý luận kinh điển nổi tiếng thể hiện nét rất riêng của tư tưởng Hồ Chí Minh 2 . Ý nghĩa của việc nghiên cứu Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào lúc cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược đang ở giai đoạn gay go, quyết liệt. Sau khi nêu lên những tính tốt của đạo đức cách mạng, cũng như vạch rõ những tính xấu của chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng: “Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu”, song “đã là người cách mạng thì phải cố gắng phát huy những tính tốt, sửa bỏ những tính xấu”. Và cách làm tốt nhất là phải “luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình”. Người viết tác phẩm này nhằm vạch ra những sai lầm, khuyết điểm, lệch lạc và chấn chỉnh lại tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác của cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” ra đời cách đây 65 năm, nhưng những bài học mà Người dạy về tư cách, đạo đức của người cách mạng vẫn còn nguyên ý nghĩa và giá trị thời sự của nó trong công tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh và giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên hiện nay. Tác phẩm này vẫn là con đường dẫn lối cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày nay. Vì vậy việc nghiên cứu tác phẩm này sẽ giúp chúng ta nhìn nhận được những sai lầm, khuyết điểm, lệch lạc trong mỗi cán bộ, đảng viên và có biện pháp chấn chỉnh khắc phục, xây dựng đội ngũ đảng viên trong sạch, xây dựng Đảng vững mạnh, phát triển. Như chúng ta đã biết, cải cách hành chính Nhà nước đang là yêu cầu khách quan, cấp bách của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nền hành chính Nhà nước là hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước ở trung ương và chính quyền địa phương, cơ cấu gắn với hệ thống thể chế hành chính, đội ngũ cán bộ, công chức và hệ thống quản lý tài chính công thực thi quyền hành pháp để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cải cách hành chính là quá trình cải biến có kế hoạch cụ thể để đạt được mục tiêu hoàn thiện một hay một số nội dung của nền hành chính Nhà nước(thể chế, cơ cấu, tổ chức, cơ chế vận hành, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức…) nhằm xây dựng nền hành chính công đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính hiệu lực, hiệu quả và hiện đại. Nhà nước là trung tâm, cột trụ của hệ thống chính trị, nền hành chính có vai trò thực thi quyền hành pháp. Để thực hiện thắng lợi các chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước sự vận hành hoạt động có hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính có vai trò quyết định. Do tính chất đặc thù của hệ thống chính trị nước ta đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước đa số là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Chúng tôi tin chắc rằng nếu như tất cả các đảng viên trong cơ quan hành chính Nhà nước đều học tập, thực hành sửa đổi lối làm việc đúng với tư cách và đạo đức cách mạng thì mục tiêu của cải cách nền hành chính quốc gia sớm đạt được Giá trị thực tiễn của tác phẩm được thể hiện trên nhiều mặt: -Tác phẩm là tài liệu học tập thiết thực, bổ ích trong việc giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên trở thành những người cách mạng trung thành với sự nghiệp của Đảng, của nhân dân. -Tác động tích cực tới đông đảo quần chúng nhân dân, mang lại sự hứng khích, niềm tin tưởng cho họ vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo với mục tiêu duy nhất: Phục vụ nhân dân, vì độc lập dân tộc, vì ấm no, hạnh phúc của mọi người dân; làm cho nhân dân tin yêu Đảng, gắn bó với Đảng, thực hiện đường lối của Đảng… Ra đời trên 60 năm nay, nhưng tác phẩm vẫn là một trong những văn kiện quan trọng về xây dựng Đảng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Làm theo những chỉ dẫn cụ thể của Bác trong tác phẩm sẽ góp phần đẩy lùi sự suy thoái về ý tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, khắc phục các biểu hiện tiêu cực,nhiều quan liêu, tham nhũng, độc đoán, chuyên quyền, kém kỉ luật, thiếu ý thức trách nhiệm…của một bộ phận cán bộ, đảng viên. -Học tập và làm theo những chỉ dẫn của Bác, sẽ góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, tăng cường sự gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân; đổi mới phương thức và phong cách lãnh đạo của Đảng, làm cho Đảng thật sự trở thành một Đảng cầm quyền “là đạo đức, là văn minh” như mong muốn của Bác Hồ . Không những vậy, việc nghiên cứu về tác phẩm này cũng góp phần chỉ dẫn cho giới trẻ ngày nay, những chủ nhân tương lai của đất nước hiểu được vai trò của bản thân đối với đất nước, giúp chúng ta định hướng được lối làm việc, nhìn nhận lại lối suy nghĩ vì lợi ích chung của cộng đồng, là kim chỉ nam cho chúng ta học tập, kế thừa và phát huy trong sự nghiệp đổi mới, phần đấu vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh Qua việc học tập, nghiên cứu tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc”, giúp chúng tôi nhận thức rõ hơn về nội dung, tư tưởng của môn học “Tư tưởng Hồ Chí Minh”.Chuẩn bị được những tư tưỡng về chính trị vững chắc,là hành trang cho công việc sau này.Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc là kim chỉ nang cho những chuẩn mực cơ bản về đaọ đức của mỗi cán bộ nhân viên, nhà lãnh đạo cũng như mỗi cá nhân con người. I I. NỘI DUNG 1. Phân tích sửa đổi lối làm việc 1.1 Tóm tắt tác phẩm Phần I: Phê bình và sửa chữa. -Người nêu mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phê bình và tự phê bình. Phải mau phê bình và sửa chữa để khắc phục khuyết điểm, vì "có tẩy sạch khuyết điểm, công việc mới có tiến bộ". Người chỉ ra những căn bệnh mà mỗi cán bộ, đảng viên phải khắc phục, sửa chữa (chủ quan, hẹp hòi, ba hoa…). Người chỉ ra cách phê bình: “phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm… Chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người". -Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa và giúp đồng chí sửa chữa. Tổ chức: Mỗi cơ quan, bộ đội, đoàn thể phải tổ chức một ủy ban học tập, do cán bộ cao cấp lãnh đạo, do các cấp cử đại biểu tham gia. Số ủy viên nhiều hay ít. tùy hoàn cảnh mà định. Ủy ban này định ra kế hoạch; nghiên cứu, thảo luận, kiểm tra và thực hành. Thời gian học tập: từ 2 đến 3 tháng. Mỗi nơi tùy hoàn cảnh mà định ngày giờ. Dù sao, phải có ngày giờ nhất định. Tài liệu học tập: Thư Hồ Chủ Tịch và những tài liệu Trung ương sẽ gửi thêm. Cách thức học tập: Nghiên cứu : Mỗi người phải đọc kỹ càng các tài liệu, rồi tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình, có khuyết điểm gì và ưu điểm gì. Thảo luận : Khai hội thảo luận và phê bình. Trong lúc thảo luận, mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh. Những kết luận trong cuộc thảo luận phải có cấp trên duyệt y mới là chính thức. Cách phê bình: Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Vì vậy, phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua-cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người. Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét. Kiểm tra: Ủy ban học tập phải có một ban kiểm tra để xem xét việc học tập và sự tiến bộ của mọi người, giúp đỡ người tiến bộ ít, khen ngợi người tiến bộ nhiều. Báo cáo: Mỗi tháng phải báo cáo về Trung ương một lần. Thực hành: Người có ưu điểm thì phải cố gắng thêm, và ngươi khác phải cố gắng bắt chước. Mọi người phải tích cực sửa chữa khuyết điểm của mình và giúp anh em sửa chữa khuyết điểm của họ. Mọi người phải nhớ rằng: cộng nhiều khuyết điểm nhỏ thành một khuyết điểm to, sẽ rất có hại. Cộng nhiều ưu điểm nhỏ thành một ưu điểm lớn, rất lợi cho Đảng và công cuộc kháng chiến -Phải sửa đổi lối làm việc của Đảng Bệnh chủ quan là chứng bệnh kém lý luận hoặc lý luận suông. “Vì kém lý luận, cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Kết quả thường thất bại…". Vì vậy, “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông". Bệnh hẹp hòi "rất nguy hiểm… trong thì ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết; ngoài thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân. Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa, v.v… đều do bệnh hẹp hòi mà ra!". Đó là những cán bộ chỉ thấy lợi ích bộ phận của mình, không thấy lợi ích của toàn thể. Vì ham danh vọng và địa vị cho nên khi phụ trách một bộ phận nào, thì lôi người này, kéo người khác, ưa thì kéo vào, không ưa thì tìm cách bẩy ra…". Người nhấn mạnh "Để chữa khỏi những bệnh kia, ta phải tự phê bình ráo riết và phải lấy lòng nhân ái, lấy lòng thành thật, mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau… Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Phần III : Tư cách và đạo đức cách mạng. -Tư cách của Đảng chân chính cách mạng. Hồ Chí Minh đã nêu lên 12 tiêu chí của một Đảng cách mạng chân chính, bao gồm: Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng; Hiểu biết lý luận cách mạng gắn với thực hành; Liên hợp chặt chẽ với quần chúng; Nêu cao tính cách mạng và "lại phải khéo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát”; Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình; Đảng phải chọn những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo; Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài; Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới; Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành như thế nào. Người đã khẳng định bằng hai câu thơ lục bát: “Muốn cho Đảng được vững bền, Mười hai điều đó chớ quên điều nào". - Phận sự của đảng viên và cán bộ. Người cán bộ, đảng viên phải “Trọng lợi ích của Đảng hơn hết… vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là "tính Đảng". Đảng viên và cán bộ phải có “đạo đức cách mạng". Người khái quát và đi sâu phân tích năm chữ Nhân, Nghĩa, Chí, Dũng, Liêm. "Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng… Trí vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng… Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ, khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại vinh hoa, phú quý không chính đáng. Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình… Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ…". Người cán bộ, đảng viên "phải giữ kỷ luật". Kỷ luật của Đảng là kỷ luật tự giác. “Không ai bắt buộc ai vào Đảng làm chiến sĩ tiên phong. Mà đó là tự giác, lòng hăng hái của mỗi người mà tình nguyện làm đảng viên”. Đối với những người không chịu nổi khó nhọc, không chịu nổi kỷ luật nghiêm khắc của Đảng mà xin ra khỏi Đảng thì Đảng vẫn bằng lòng để họ ra. Đảng chỉ yêu cầu họ một điều là: họ thề không lộ bí mật của Đảng, không phản Đảng, không phá hoại Đảng. Như thế thì Đảng vẫn giữ cảm tình thân thiện với họ". Phải khắc phục “những khuyết điểm, sai lầm”. Đó là “bệnh tham lam”, “Bệnh lười biếng", "bệnh kiêu ngạo", “bệnh hiếu danh", "thiếu kỷ luật”, “óc hẹp hòi", “óc địa phương", “óc lãnh tụ”, “bệnh hữu danh vô thực", "bệnh kéo bè, kéo cánh", “bệnh cận thị", “bệnh cá nhân”, “bệnh tị nạnh", “bệnh xu nịnh, a dua”. Người nhắc nhở về bệnh sợ tự phê bình. Người đã nói rất khảng khái": “… Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Phải bình tĩnh tìm ra nguyên nhân sai lầm và cách sửa chữa khuyết điểm. Hồ Chí Minh chỉ rõ "Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa v v… Những thói xấu đó, họ mang từ xã hội vào Đảng". Người phê phán thái độ đối với người có khuyết điểm, sai lầm như đối với hổ mang, thuồng luồng… đòi đuổi ra khỏi Đảng ngay…, làm cho họ chán nản, thất vọng. Hoặc họ không làm gì nữa hết. Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ những người máy móc quá. Đó cũng là bệnh chủ quan”. -. Tư cách và bổn phận của đảng viên. Hồ Chí Minh viết về tiêu chuẩn người đảng viên, thể thức giới thiệu, kết nạp người vào Đảng, rèn luyện, giáo dục đảng viên mới. Người chỉ rõ bổn phận của người đảng viên là "Suốt đời tranh đấu cho dân tộc, cho Tổ quốc; đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, lên trước hết; hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật của Đảng; kiên quyết thi hành những nghị quyết của Đảng; cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc; cố gắng học tập chính trị, quân sự, văn hóa. Phải gần gũi quần chúng, học hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo quần chúng”. Tư cách Thừa nhận chính sách của Đảng. Thực hành các nghị quyết của Đảng. Ra sức làm công việc Đảng. Nộp Đảng phí. Những người trí thức, công nhân, nông dân, phụ nữ, quân nhân, hăng hái yêu nước, từ 18 tuổi trở lên đều được vào Đảng. Mỗi người muốn vào Đảng phải có hai đảng viên cũ giới thiệu - Những người bỏ đảng phái khác mà vào Đảng, phải có ba người giới thiệu, và phải được cấp trên của Đảng chuẩn y. - Những người rời Đảng đã lâu, mà có người làm chứng rằng, trong thời gian đó không hề làm việc gì có hại cho Đảng, thì được trở lại làm đảng viên. Những người mới vào Đảng phải qua một thời kỳ dự bị. Nông dân và công nhân hai tháng. Quân nhân ba tháng, trí thức bốn tháng. Trong thời kỳ dự bị, Đảng phải dạy dỗ cho họ, và trao việc cho họ làm. Đồng thời, Đảng phải xem xét tính nết, công tác và lịch sử của họ. - Những người giới thiệu phải giúp đỡ họ học tập và công tác. Những người dự bị phải công tác cho Đảng và nộp Đảng phí. Họ có quyền tham gia huấn luyện, đề ra ý kiến, bàn bạc các vấn đề, nhưng không có quyền biểu quyết. Bổn phận -Suốt đời tranh đấu cho dân tộc, cho Tổ quốc. -Đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, lên trước hết. -Hết sức giữ kỷ luật vã giữ bí mật của Đảng. -Kiên quyết thi hành những nghị quyết của Đảng. -Cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc -Cố gắng học tập chính trị, quân sự, văn hóa. Phải gần gũi quần chúng, học hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo quân chúng. - Phải rèn luyện tính đảng. Hồ Chí Minh khẳng định: "Mỗi cán bộ, đảng viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng không làm nên”. Tính đảng là: “Phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết; việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn; lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau. Đảng phải nghiêm ngặt kiểm tra, các địa phương phải kiên quyết thực hành những nghị quyết của Đảng. Nơi nào sai lầm, ai sai lầm, thì lập tức sửa chữa. Kiên quyết chống thói nể nang và che giấu, chống thói “trước mặt thì nể, kể lể sau lưng". Phải kiên quyết thực hành kỷ luật. Phải đòi hỏi mỗi đảng viên, trước hết là mỗi cán bộ, phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa những khuyết điểm của mình". 1.2 Phân tích “Sửa đổi lối làm việc”. Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc gồm có sáu phần, là sự thể hiện những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, thực sự có ý nghĩa sâu sắc trong xây dựng Đảng ta cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, là cẩm nang cho cán bộ, đảng viên trong học tập, phấn đấu công tác, tu dưỡng đạo đức và rèn luyện tác phong làm việc. Với những câu văn ngắn gọn, hàm súc, lời văn gần gũi với quần chúng, dễ đọc, dễ hiểu, tác phẩm Sửa đổi lối làm việc đề cập một cách toàn diện các vấn đề về xây dựng Đảng: Tự phê bình và phê bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập nhiều lần nhất trong tác phẩm bởi tầm quan trọng đặc biệt của nó đối với công tác xây dựng Đảng. Tự phê bình và phê bình, theo Người, là để nhận rõ ưu điểm, thấy được khuyết điểm, để từ đó mà tìm cách phát huy ưu điểm, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, để giúp nhau tiến bộ, để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Sửa đổi lối làm việc của Đảng để sửa trị các chứng bệnh nguy hiểm bên trong như chủ quan, hẹp hòi, ba hoa. Đó là ba chứng bệnh rất nguy hiểm, nếu không chữa ngay, để nó lây ra, thì nguy hại vô cùng. Từ bệnh chủ quan mà sinh ra các bệnh kém lý luận, khinh lý luận, lý luận suông; bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức. Từ bệnh hẹp hòi mà sinh ra nhiều bệnh khác như: chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa… Từ thói ba hoa mà sinh ra nhiều thói xấu khác: dài dòng, rỗng tuếch; cầu kỳ; khô khan, lúng túng; báo cáo lông bông; lụp chụp cẩu thả; “sáo cũ”; nói không ai hiểu; bệnh hay nói chữ… Để chữa khỏi những bệnh đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phương thuốc hay nhất vẫn là tự phê bình và phê bình. Mấy điều kinh nghiệm phê phán những khuyết điểm trong công tác như cách lãnh đạo kém và quan liêu dẫn tới không biết cất nhắc cán bộ tốt, hao phí nhân tài, không biết nghiên cứu kinh nghiệm đến gốc, làm việc ít có sáng kiến và lòng hăng hái, cách lãnh đạo không đợc dân chủ, cách công tác không được tích cực, không sát quần chúng, hợp quần chúng... Đồng thời, đối với sai lầm, khuyết điểm trong mỗi công tác, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều có những chỉ dẫn thiết thực, cụ thể để sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm đó. Tư cách và đạo đức cách mạng được Người đề cập không dài nhưng toát lên đầy đủ những nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng, tầm quan trọng của nó đối với mỗi con người cũng như đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng, đặc biệt, Người đã bàn tương đối cụ thể về phương pháp rèn luyện đạo đức cách mạng. Người nêu lên tư cách của Đảng chân chính cách mạng gồm 12 điều, mà theo Người: "Muốn cho Đảng được vững bền, mười hai điều đó chớ quên điều nào”. Về đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên, Người chỉ rõ, cán bộ, đảng viên phải: "Trọng lợi ích của Đảng hơn hết", nghĩa là "vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là tính Đảng". Người chỉ ra năm tính tốt của người cán bộ chân chính cách mạng gồm: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, và khẳng định: "Đó là đạo đức cách mạng... Đạo đức đó... không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người". Vấn đề cán bộ luôn là vấn đề Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm. Người cho rằng: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng". Với quan điểm đó, Người đề cập đến một cách toàn diện về công tác cán bộ bao gồm cách huấn luyện cán bộ, dạy cán bộ và dùng cán bộ, lựa chọn cán bộ, chính sách cán bộ... chỉ rõ những khuyết điểm trong công tác cán bộ và chỉ dẫn cách khắc phục, để xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một đội ngũ cán bộ có đức có tài, trong đó đức là gốc, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, phục vụ nhân dân, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Phương thức lãnh đạo của Đảng được Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng cách nói giản đơn, dễ hiểu là cách lãnh đạo. Theo Người, cách lãnh đạo đúng là liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng và liên hợp lãnh đạo với quần chúng. Cách lãnh đạo đúng còn phải biết làm việc theo cách quần chúng, học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng. Lãnh đạo phải gắn với công tác kiểm tra, giám sát thì mới có hiệu quả, đồng thời phải giữ vững mối liên hệ mật thiết, máu thịt giữa Đảng và nhân dân, "một giây, một phút cũng không thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng", bởi vì "không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại", v.v.. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là vũ khí sắc bén để làm cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh. Người chỉ rõ: mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa chữa cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Cũng vì đối tượng phê bình là đồng chí của mình và bản thân mình, mục đích vì sự vững mạnh và tiến bộ của Đảng, nên việc phê bình và thực hiện tự phê bình vừa phải nghiêm túc nhưng cũng rất thân ái: tự phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, châm chọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người. Người nêu lên những căn bệnh mà người cán bộ thường mắc phải cần phê bình, sửa chữa. Đó là bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi và bệnh ba hoa. Ngay trong phần đầu “Phê bình và sửa chữa”, Bác viết: “Cán bộ và đảng viên ta vì bận việc hành chính hoặc quân sự, mà xao nhãng việc học tập. Đó là một khuyết điểm rất to. Khác nào người thầy thuốc chỉ đi chữa người khác, mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa. Từ nay, chúng ta cần phải thiết thực học tập, sửa chữa các khuyết điểm. Vì có tẩy sạch khuyết điểm, công việc mới có thể tiến bộ”. Theo Bác, Đảng ta phải chú ý cảnh giác, phòng ngừa và cần nhanh chóng có “thuốc trị” 3 căn bệnh chủ yếu làm mất tư cách người cách mạng là: Bệnh về tư tưởng, đạo đức, lối sống, chủ quan; bệnh hẹp hòi, xa dân; bệnh ba hoa, thích khoa trương thành tích, không trung thực, chạy theo thành tích. Bác khẳng định: Đó là ba chứng bệnh rất nguy hiểm. Nếu không chữa ngay, để nó lây lan thì có hại vô cùng. Phải cố sửa chữa cho tiệt nọc các chứng bệnh, khiến cho Đảng càng mạnh khoẻ, bình an. Bệnh chủ quan. Đó là chứng bệnh nguy hiểm gây tác hại lớn cho cách mạng. Vì mắc bệnh chủ quan, cán bộ, đảng viên ta thường giải quyết công việc xuất phát từ ý muốn chủ quan, mà không căn cứ vào điều kiện cụ thể và quy luật khách quan. Do không biết nhận rõ điều kiện, hoàn cảnh khách quan, khăng khăng làm theo ý mình, nên kết quả thường nhận lấy thất bại. Người chỉ rõ nguyên nhân của bệnh chủ quan là:Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông. Người mắc bệnh chủ quanđều coi khinh lý luận, làm việc chỉ theo kinh nghiệm của bản thân, không biết khái quát thành lý luận chung, giải quyết công việc một cách sự vụ, vụn vặt. Đó là bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Chủ nghĩa kinh nghiệm chính là một biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan, nguyên nhân của bệnh chủ quan, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là do kém lý luận hay khinh lý luận. Do đó, có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ. Vì vậy, không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi. Ngược lại, lý luận là cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn cuốn lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách. Xem nhiều sách để mà lòe, để làm ra ta đây, thế không phải là biết lý luận. Khi phân tích các biểu hiện của bệnh chủ quan như: kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ bệnh lý luận suông là bệnh giáo điều chủ nghĩa. Đó là sự bắt chước kinh nghiệm của người khác, kinh nghiệm của các nước anh em một cách máy móc, mù quáng; xem thường kinh nghiệm của quần chúng, không năng đi xuống cơ sở để học tập và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn... Bệnh hẹp hòi. Đây là căn bệnh rất nguy hiểm, mà nhiều cán bộ và đảng viên còn mắc phải. Trong, thì bệnh này ngăn cản Đảng thống nhất và đoàn kết. Ngoài, thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân. Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa... đều do bệnh hẹp hòi mà ra! Biểu hiện của bệnh hẹp hòi là ham danh vọng và địa vị, cho nên khi phụ trách một bộ phận nào thì lôi người này, kéo người khác, ưa ai thì kéo vào, không ưa thì tìm cách đẩy ra. Thế là chỉ biết có mình, chỉ biết có bộ phận mình mà quên cả Đảng. Bệnh hẹp hòi trái hẳn với nguyên tắc tập trung và thống nhất trong Đảng. Từ trước đến nay, vì bệnh hẹp hòi mà có những sự lủng củng giữa bộ phận và toàn cục, đảng viên với Đảng, cán bộ địa phương với cán bộ phái đến, cán bộ quân sự với cán bộ mặt trận, cán bộ mới và cán bộ cũ, cơ quan này và cơ quan khác. Bệnh hẹp hòi của cán bộ, đảng viên còn biểu hiện ở thói tự tôn tự đại, khinh rẻ người ta, không muốn biết, muốn học những ưu điểm của người khác. Những cán bộ, đảng viên mắc bệnh này quên rằng: chỉ đoàn kết trong Đảng, cách mạng cũng không thành công được, còn phải đoàn kết nhân dân cả nước. Họ cố tình không hiểu: so với nhân dân thì số đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một người đảng viên. Nếu không có nhân dân giúp sức thì Đảng không làm được việc gì hết. Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết dùng nhân tài, việc gì cũng ôm lấy hết. Ôm lấy hết thì cố nhiên làm không nổi. Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết cách xử trí khôn khéo với các hạng đồng bào (như tôn giáo, dân tộc thiểu số, anh em trí thức...). Điều đó tất yếu dẫn đến phá hoại chính sách đoàn kết, cũng như ảnh hưởng không nhỏ tới sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Bệnh ba hoa. Ba hoa là nói và viết dài dòng, rỗng tuyếch, dùng chữ cầu kỳ, khó hiểu, không nhằm đúng đối tượng, quần chúng không hiểu, cho nên không có tác dụng gì cả. Người nhắc nhở: cán bộ tuyên truyền bao giờ cũng tự hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai nghe? Nếu không vậy, thì cũng như có ý không muốn cho người ta nghe,không muốn cho người ta xem. Như vậy, sửa đổi lối làm việc của Đảng ở các cấp, theo tư tưởng của Hồ Chí Minh,trước hết phải phê bình và sửa chữa bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh giáo điều, bệnh hẹp hòi, bệnh ba hoa... Mỗi chứng bệnh đó là một kẻ địch nguy hiểm. Mỗi kẻ địch bên trong là bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài, trong đó kẻ địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phòng những kẻ địch đó. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Để chữa khỏi những bệnh trên, ta phải tự phê bình ráo riết và phải lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật, mà ráo riết phê bình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau. Mỗi cán bộ, đảng viên mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày rửa mặt. Được như vậy Đảng ta mới thực sự trong sạch, vững mạnh. Đặc biệt, khi nói về đảng viên, Bác nêu mọi cán bộ đảng viên phải hội tụ đủ 5 đức tính là: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Và cần chữa những căn bệnh: cá nhân chủ nghĩa, lợi dụng to quyền, mạnh thế, cái gì cũng muốn vơ lợi về cho cá nhân, gia đình, vợ con dòng tộc của mình. Bác nêu thẳng thắn: Trong Đảng ta còn có những người chưa học được, chưa làm được bốn chữ "chí công vô tư", cho nên mắc phải chứng chủ nghĩa cá nhân. Với bệnh cá nhân chủ nghĩa, Bác căn dặn, muốn chữa bệnh này, trước hết mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải hoàn toàn phục tùng lợi ích của Đảng, mà ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào hết. Không nên vì cá nhân mà làm tổn hại đến lợi ích của dân. Sau này, Bác còn viết bài “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Trong quan điểm của Người, do chủ nghĩa cá nhân mà cán bộ hư hỏng về đạo đức, tác phong, lối sống, mất hết phẩm chất cần có của người cộng sản. Người cho rằng chủ nghĩa cá nhân như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm. Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng trước, lợi ích của cá nhân sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là "tính đảng". Nếu gặp khi lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng . Khi cần đến tính mệnh của mình cũng phải vui lòng hy sinh cho Đảng. Lợi ích của Đảng cũng là lợi ích của dân tộc, không có gì mâu thuẫn nếu Đảng là một tổ chức cách mạng chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân. Sự phát triển và thành công của Đảng là thành công của dân tộc đồng thời cũng là thành công của đảng viên. Vì vậy, chỉ khi Đảng thành công và thắng lợi, thì đảng viên mới có thể thành công và thắng lợi. Do đó, đảng viên cần biết hy sinh lợi ích của mình cho lợi ích chung của Đảng . Nhất là những cán bộ, đảng viên càng phải xứng đáng với lòng tin của Đảng , của dân tộc. Hơn nữa, đảng viên phải làm gương cho tất cả quần chúng noi theo. Trước đây, người dân sẵn sàng đi theo tiếng gọi của Đảng, hi sinh thân mình vì tồn vong của dân tộc trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Ngày nay, trong điều kiện hòa bình, cuộc chiến đấu với nghèo nàn, lạc hậu, tham ô, tham nhũng cũng phức tạp không kém vì quan hệ "địch - ta" với giặc nội xâm nằm ngay trong tổ chức của Đảng. Không ít đảng viên thoái hóa, biến chất, hà hiếp nhân dân... đã làm giảm uy tín của Đảng, mất niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc CNH, HĐH. Những căn bệnh phổ biến của đảng viên Bác chỉ ra là: Bệnh tham lam: Những người mắc phải bệnh này vì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ "tự tư tự lợi". Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen buôn lậu. Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình, vơ vét công quỹ, tham ô, tham nhũng. Bệnh lười biếng: Không hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ, khoán trắng cho cấp dưới và bộ máy cơ quan, lấy an nhàn cho cá nhân mình. Làm việc không có kế hoạch, gặp sao làm vậy, làm lấy lệ, làm không có ngăn nắp, làm không đến nơi đến chốn. Gặp dân chúng thì không gần gũi, không hỏi han, không tuyên truyền, không giải thích. Xem như dân chúng không có quan hệ gì với mình. Thấy những việc có hại đến dân chúng cũng mặc kệ, không khuyên răn, không ngăn cản, không giải thích. Những tật bệnh đó khiến cho Đảng xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách không thi hành được triệt để, Đảng xa rời dân chúng. Các bệnh khác như: Bệnh kiêu ngạo, bệnh háo danh, bệnh tùy tiện, thiếu kỷ luật, coi thường pháp luật, làm sai pháp luật; bệnh có đầu óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ… Và còn những bệnh: "hữu danh, vô thực", kéo bè kéo cánh thành phe nhóm. Bác yêu cầu mọi cán bộ đảng viên phải rất cảnh giác với thứ bệnh này. Theo Bác kéo bè kéo cánh lại là một bệnh rất nguy hiểm nữa. Từ bè phái mà đi đến chia rẽ. Ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng. Nó làm hại đến sự thống nhất. Nó làm Đảng mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ chính sách của mình. Nó làm mất sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí. Nó gây ra những mối nghi ngờ. Bác chỉ ra những bệnh làm suy thoái, giảm uy tín Đảng cầm quyền như: Bệnh cận thị, không trông xa thấy rộng; bệnh tị nạnh, cái gì cũng muốn mình phải được hưởng lợi hơn người; bệnh xu nịnh, a dua, bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, bệnh nóng tính, bệnh lụp chụp... Bác đã cảnh báo thứ bệnh không trung thực trong khi thừa hành nhiệm vụ, “làm láo, báo cáo hay, báo cáo lông bông, báo cáo gian dối. Thành công ít thì xuýt ra nhiều. Còn khuyết điểm thì giấu đi, không nói đến. Các thứ bệnh mà Bác Hồ, với tầm nhìn xa rộng, đã chỉ ra từ 65 năm trước nay đang hiện hữu trong Đảng ta, có bệnh thuộc hàng “tứ chứng nan y”. Bác chỉ rõ: “Ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công. Nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của ta, thì cũng như giấu giếm tật bệnh trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính mệnh”. Từ gần 5 năm nay, các cấp bộ đảng tổ chức sâu rộng đến từng đảng viên “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đây là một chủ trương lớn, vừa mang tính cấp bách trong tình hình hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Học tập là phải làm theo, noi theo tấm gương của Bác. Trong thực tế , ai cũng thấ y tuy học nhiều , nhưng cán bộ đảng viên ta làm theo còn ít, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống chưa có chiều hướng thuyên giảm, có những mặt ngày càng nghiêm trọng. Thiết nghĩ, để thực hiện thắng lợi Nghị quyết TƯ 4, cần học kỹ, phân tích sâu, soi rọi để tự chỉnh đốn, trị cho hết các “căn bệnh” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc”. Thật tài tình, trong cuốn sách quý này, dường như 4 nhóm giải pháp mà Nghị quyết TƯ 4 nêu ra đã được Bác phân tích rất kỹ, chỉ dạy cách làm rất cụ thể, rõ ràng, thực sự thấu đáo, có lý, có tình. Đây cũng là cách làm thiết thực, có trọng tâm, trọng điểm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức của Người, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Bác chỉ rõ: Mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phòng những kẻ địch đó, phải chữa hết những chứng bệnh đó. Nghị quyết Hội nghị TƯ 4 khẳng định: Nguyên nhân về sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân; ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm, bất chấp đạo lý, dư luận; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm; cán bộ lãnh đạo, quản lý không gương mẫu… suy đến cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân. Bác Hồ đã nhiều lần nhấn mạnh, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù hung ác, là giặc nội xâm, nó không mang gươm, mang súng nhưng vô cùng nguy hiểm, gian giảo, xảo quyệt; nó kéo người ta xuống dốc không phanh. Mọi thứ xấu xa, hư hỏng đều sinh ra từ căn bệnh này. Nếu không đánh bại, không quét sạch chủ nghĩa cá nhân thì Đảng ta không thể trong sạch, vững mạnh được, không thể là một đảng cách mạng chân chính hết lòng vì nước, vì dân. Tuy cuốn sách Bác Hồ đã viết từ 65 năm trước, nhưng nay đọc lại, tưởng như đang nghe Bác nói với chúng ta hôm nay. Để ngăn chặn và loại trừ suy thoái, để làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao sức chiế n đấ u, hơn lúc nào hết cần nghiêm túc, thật sự học và làm theo đúng những chỉ dẫn của Bác trong “Sửa đổ i lố i làm viê ̣c” 2 . Những suy nghĩ về đạo đức của người lãnh đạo Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là vũ khí sắc bén để làm cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh. Người chỉ rõ: mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa chữa cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Cũng vì đối tượng phê bình là đồng chí của mình và bản thân mình, mục đích vì sự vững mạnh và tiến bộ của Đảng, nên việc phê bình và thực hiện tự phê bình vừa phải nghiêm túc nhưng cũng rất thân ái: tự phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, châm chọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người. Người nêu lên những căn bệnh mà người cán bộ thường mắc phải cần phê bình, sửa chữa. Đó là bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi.. Hồ Chí Minh nhận định : “Nguyên nhân của bệnh chủ quan là: Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông ”. Trong tác phẩm của mình Bác đã từng nói : “Có những cán bộ, những đảng viên cũ, làm được việc, có kinh nghiệm. Cố nhiên, những anh em đó rất quý báu cho Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh khinh lý luận. Họ quên rằng: nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều.Họ quên rằng: kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ.”. Kém lí luận, khinh lí luận, lí luận suông, đó là những biểu hiện và là thực tế không chỉ tồn tại trong cán bộ, đảng viên trước cách mạng ở nước ta, mà trong công việc đổi mới hiện nay, tình trạng đó vẫn còn tồn tại như một hiện tượng phổ biến. Lí luận suông dẫn đến tác hại là nói không đi đôi với làm; hoặc nói nhiều làm ít. Cán bộ, đảng viên mà lí luận suông là không làm tròn vai trò tiên phong gương mẫu của mình, sẽ làm mất uy tín của Đảng, giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Muốn sửa đổi bệnh chủ quan mỗi cá nhân tổ chức phải không ngừng nâng cao lý luận , thực hành lý luận đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông. Bệnh hẹp hòi: Bệnh này rất nguy hiểm. Bác Hồ nói: “Trong, thì bệnh này ngăn trở Đảng thống nhất và đoàn kết. Ngoài, thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân” (Sđdtr236). Biểu hiện của bệnh hẹp hòi là chỉ thấy lợi ích bộ phận của mình, của cá nhân mình, không thấy lợi ích chung của tập thể, chỉ muốn đem lợi ích của tập thể phục vụ cho bộ phận mình, cho cá nhân mình. Từ bệnh hẹp hòi mà sinh ra nhiều thứ bệnh khác như chủ nghĩa cục bộ địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa độc đoán... Khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi; đố kị với người trung thực, thẳng thắn, bệnh hủ hoá, dối trá... Sinh thời, Người thường nói: “Hiện nay chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí. Họ tự cho mình cái gì cũng giỏi, họ xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng. Họ ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền và giáo dục quần chúng. Họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, càng không yêu họ. Chung quy là họ không làm nên trò trống gì”.Hẹp hòi là một căn bệnh cần phải sửa đổi.Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phân tích: “Bệnh hẹp hòi đối ngoại”, đó là thứ bệnh đảng viên xa rời quần chúng, cách li với quần chúng, vì những cán bộ, đảng viên đó có “bệnh tự tôn, tự đại, tự cao, khinh rẻ người ta; không muốn biết, muốn học những ưu điểm của người khác”. Đó là “bệnh hẹp hòi hạng nặng”. Muốn chữa được căn bệnh này cần trong mỗi cá nhân cần phải sửa đổi cách suy nghĩ,cách làm việc . Đặt lợi ích của cá nhân sau lợi ích chung của cộng đồng, sống vì mọi người, tránh chủ nghĩa tư lợi cá nhân. Khi bàn về Tư cách và đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh đã nhận định. Tư cách của Đảng chân chính cách mạng,Hồ Chí Minh đã nêu lên 12 tiêu chí của một Đảng cách mạng chân chính, bao gồm: Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng; Hiểu biết lý luận cách mạng gắn với thực hành; Liên hợp chặt chẽ với quần chúng; Nêu cao tính cách mạng và "lại phải khéo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát”; Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình; Đảng phải chọn những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo; Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài; Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới; Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành như thế nào. Người đã khẳng định bằng hai câu thơ lục bát: “Muốn cho Đảng được vững bền, Mười hai điều đó chớ quên điều nào". Đạo đức Hồ Chí Minh không phải cái trừu tượng, xa vời, không phải nhất thành bất biến, mà là những biểu hiện trong mỗi lời nói, mỗi việc làm của Người đều hướng tới chân, thiện, mỹ. Đạo đức Hồ Chí Minh là nói đi đôi với làm, mà làm thì phải có hiệu quả, Người cho rằng nếu làm gì cũng không có hiệu quả thì không phải là người có đạo đức. Đạo đức Hồ Chí Minh rất gần gũi, rất cụ thể và mang đầy đủ, sâu sắc giá trị truyền thống, tư tưởng tôn giáo. Chủ tịch Hồ chí Minh yêu cầu đạo đức người cán bộ cách mạng phải “trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng”. Phận sự của đảng viên và cán bộ.Người cán bộ, đảng viên phải “Trọng lợi ích của Đảng hơn hết… vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là "tính Đảng".Đảng viên và cán bộ phải có “đạo đức cách mạng". Người khái quát và đi sâu phân tích năm chữ Nhân, Nghĩa, Chí, Dũng, Liêm. Người cho rằng “Mỗi đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng mình vào Đảng để làm đầy tớ cho nhân dân…làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải làm “quan” nhân dân”. Theo đó thì đày tớ của dân không phải cha mẹ dân, chỉ là kẻ làm công, lấy tiền thuê của nhân dân mà thôi. Có lẽ vì vậy mà sinh thời Hồ Chủ tịch thường dùng hai chữ “công bộc” để nhắc cho mỗi cán bộ hiểu được chức vụ của mình. Người rất coi trọng việc xây dựng đạo đức cách mạng, trong đó nhấn mạnh việc ngăn ngừa vi phạm đối với cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo. Vì cán bộ lãnh đạo phạm sai lầm thì sẽ dẫn đến hậu quả rất nặng nề, những sai lầm đó là: “Trái phép… vì tư thù tư oán mà bắt bớ và tịch thu làm cho dân oán thán. Cậy thế… quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân. Hủ hóa: ăn muốn cho ngon, mặc muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ… thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức. Tư túng kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu của mình không tài năng gì cũng kéo vào chức này, chức nọ, người có tài, có đức nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài… Chia rẽ: bênh vực lớp này, chống lại lớp khác, không biết làm cho các tầng lớp nhân nhượng lẫn nhau, hòa thuận nhau. Kiêu ngạo: lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng” lên. Tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta phê bình. Việc gì cũng muốn làm thầy người khác”. Nên để rèn luyện tu dưỡng đạo đức người cán bộ, Bác rất chú trọng việc “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Người cho rằng “chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu mệnh lệnh…”. Vì vậy Bác dạy rằng “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Hồ Chủ tịch rất coi trọng công tác xây dựng cán bộ, Người cho rằng vấn đề cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu, rất cần thiết”, “công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém”.Muốn làm tốt tư tưởng này người Đảng viên cần không ngừng nâng cao trình độ học vấn cũng như các kỹ năng lãnh đạo, sống hết mình vì sự nghiệp của Đảng , của Đất nước.Sống trong sạch , tránh xa bệnh quan liêu , bao cấp, gần gũi với dân chúng.Rèn luyện tính Đảng. Thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa chứng minh “tính Đảng” là “thuộc tính căn bản, cốt lõi và bản chất” của Đảng Cộng sản. Đảng ta ngay từ khi thành lập đã mang trong mình bản chất giai cấp công nhân, và cơ sở chính trị - xã hội là giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức tiến bộ mà Đảng là người đại diện lãnh đạo; chiến đấu cho lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Với việc tự nguyện thừa nhận nền tảng tư tưởng, thừa nhận tính tổ chức và tính kỷ luật của Điều lệ Đảng, và khi trở thành đảng viên mang tính “đại diện” tiên phong đó, thì người đảng viên không ngừng gìn giữ và phát huy thông qua các hoạt động cụ thể từ lời nói, hành vi trong hoạt động xã hội cũng như thông qua hoạt động của tổ chức (tuân thủ tính tổ chức và tính kỷ luật nghiêm) nơi cá nhân đảng viên đó sinh hoạt chính trị. Như vậy, rõ ràng “tính Đảng” của Đảng Cộng sản được thể hiện thông qua tính đại diện của đảng viên cộng sản khi tham gia tổ chức chính trị và trong hoạt động xã hội. Đảng Cộng sản chỉ vững mạnh khi mọi đảng viên chấp hành nghiêm các yếu tố cấu thành nên “tính Đảng” - đó phải là sự chấp hành mang tính nội dung, chứ không phải là sự thừa nhận một cách hình thức. Đánh giá về đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trong tình hình hiện nay, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”. Nghị quyết cũng chỉ rõ một trong những nguyên nhân quan trọng của những hạn chế, yếu kém là: “Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân”. Để chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó rèn luyện tính đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những vấn đề rất quan trọng hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tính Đảng ở vị trí rất cao với cán bộ, đảng viên và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải có tính Đảng, phải rèn luyện tính Đảng. Người nói: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên cần phải có tính Đảng mới làm được việc, kém tính Đảng thì việc gì cũng không làm nên”. Bằng nội dung ngắn gọn, tinh túy, hàm súc, sâu sắc, dễ hiểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ khái niệm tính Đảng gồm ba nội dung: “Tính Đảng là gì? Một là: Phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Hai là: Việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn. Phải hiểu rằng: Đảng có hiểu rõ tình hình thì đặt chính sách mới đúng. Mà muốn Đảng hiểu rõ thì đảng viên và cán bộ phải điều tra và báo cáo rõ ràng tình hình từng xã, từng huyện, từng tỉnh, từng khu. Nếu không biết rõ tình hình mà đặt chính sách thì kết quả là “nồi vuông úp vung tròn”, không ăn khớp gì cả. Ba là: Lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau”.Người chỉ rõ hậu quả của việc cán bộ, đảng viên kém tính Đảng. Vì kém tính đảng mà mắc phải mười hai loại bệnh:“Bệnh ba hoa,Bệnh địa phương,Bệnh ham danh vị,Bệnh thiếu kỷ luật,Bệnh cẩu thả (gặp sao hay vậy), Bệnh xa quần chúng,Bệnh chủ quan,Bệnh hình thức,Bệnh ích kỷ,Bệnh hủ hóa,Bệnh thiếu ngăn nắp,Bệnh lười biếng”.Và “mắc phải một bệnh trong 12 bệnh đó tức là hỏng việc”. Người cũng chỉ rõ cán bộ, đảng viên phải dùng vũ khí phê bình và tự phê bình để sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm, các bệnh đã mắc phải. Người nói: “Chúng ta phải ráo riết dùng phê bình và tự phê bình để giúp nhau chữa cho hết những bệnh ấy. Có như thế Đảng mới chóng phát triển”. Trong giai đoạn hiện nay, khi bối cảnh tình hình chính trị thế giới có sự thay đổi, chứa đựng sự phức tạp chưa thể lường hết được, nhiệm vụ phát triển kinh tế của đất nước ta trước mắt đứng trước những thuận lợi, thời cơ, khó khăn và thử thách mới, đòi hỏi sự đoàn kết thống nhất cao trong toàn Đảng và toàn dân tộc, hơn bao giờ hết “tính Đảng” của người đảng viên cộng sản càng phải được đề cao hơn. Để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện, phấn đấu: “Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì nhân dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc”. Củng cố và nâng cao hơn nữa “tính Đảng” sẽ nhân thêm sức mạnh nội lực của Đảng, đồng thời tạo ra thế và lực mới trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế và xã hội, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiếp tục giành thêm những thắng lợi mới III, Kết luận Trong thực tế , ai cũng thấ y tuy học nhiều , nhưng cán bộ đảng viên ta làm theo còn ít, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống chưa có chiều hướng thuyên giảm, có những mặt ngày càng nghiêm trọng. Qua tác phẩm ta thấy Bác đã chỉ rõ: Mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phòng những kẻ địch đó, phải chữa hết những chứng bệnh đó. Nghị quyết Hội nghị TƯ 4 khẳng định: Nguyên nhân về sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân; ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm, bất chấp đạo lý, dư luận; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm; cán bộ lãnh đạo, quản lý không gương mẫu… suy đến cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân. Bác Hồ đã nhiều lần nhấn mạnh, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù hung ác, là giặc nội xâm, nó không mang gươm, mang súng nhưng vô cùng nguy hiểm, gian giảo, xảo quyệt; nó kéo người ta xuống dốc không phanh. Mọi thứ xấu xa, hư hỏng đều sinh ra từ căn bệnh này. Nếu không đánh bại, không quét sạch chủ nghĩa cá nhân thì Đảng ta không thể trong sạch, vững mạnh được, không thể là một đảng cách mạng chân chính hết lòng vì nước, vì dân. Tuy cuốn sách Bác Hồ đã viết từ 65 năm trước, nhưng nay đọc lại, tưởng như đang nghe Bác nói với chúng ta hôm nay. Để ngăn chặn và loại trừ suy thoái, để làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao sức chiế n đấ u, hơn lúc nào hết cần nghiêm túc, thật sự học và làm theo đúng những chỉ dẫn của Bác trong “Sửa đổ i lố i làm viê ̣c” “Sửa đổi lối làm việc” giúp cho Đảng rút ra nhiều bài học bổ ích, đẩy mạnh công tác, hiệu quả công việc, làm cho Đảng lớn mạnh không ngừng; Mặt khác giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên khắc phục được những sai lầm khuyết điểm. Ra đời trên 60 năm, nhưng nội dung của tác phẩm vẫn là vấn đề thời sự trong sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Tác phẩm càng có ý nghĩa hơn khi Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới, với bối cảnh mới và những yêu cầu rất khắt khe trong công việc, việc thay đổi tư duy, lề lối làm việc, tác phong cho khoa học hơn là điều cần thiết hơn bao giờ hết. Đọc lại tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với những chỉ dẫn cụ thể trong tác phẩm, nếu được học tập và quán triệt tốt sẽ góp phần đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên, từ đó nâng cao ý thức chính trị, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, tính chuyên nghiệp trong công việc như mong muốn của Bác lúc sinh thời. “Sửa đổi lối làm việc” thực sự là một cuốn cẩm nang quý báu, về phong cách, lối làm việc của toàn bộ hệ thống chính quyền và mỗi cán bộ, đảng viên. Thực hiện thật tốt các lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Sửa đổi lối làm việc” chúng ta sẽ xây dựng được Đảng trong sạch, vững mạnh. Và tác phẩm cũng như là một cẩm nang quý báu cho tất cả chúng ta. Học tập tác phẩm chúng ta càng sáng ra nhiều điều và càng tự thấy mình phải cố gắng sống và làm việc tốt hơn để thực hiện những điều Bác dạy STT 1 Họ và tên Lương Lê Hương Mai SĐT 01227492636 Email [email protected] Điểm 10 2 Nguyễn Thị Thùy Linh 0976352548 nguyenthithuylinh1012@gmail. com 10 3 Lê Quang Mậu 0975344122 [email protected] 9 4 Võ Xuân Bảo 01684040977 [email protected] 9
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan