ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ TRANG NHUNG
CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC
CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ TRANG NHUNG
CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC
CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.LƯU KHÁNH THƠ
THÁI NGUYÊN - 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Trang Nhung
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm
ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn - Xã hội, Trường Đại học
Khoa học - Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng
dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn - PGS.TS.Lưu Khánh Thơ đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo
trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Trang Nhung
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................... ii
MỤC LỤC .............................................................................................................. iii
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ...............................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ...................................................................6
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu .............................................................6
5. Phạm vi nghiên cứu ..........................................................................................7
6. Cấu trúc luận văn ..............................................................................................7
7. Đóng góp của luận văn .....................................................................................7
Chương 1. HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH CHỦ ĐỀ
BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA........8
1.1. Khái quát các chặng đường sáng tác của Trần Đăng Khoa ...........................8
1.1.1 Thời kì niên thiếu ....................................................................................8
1.1.2. Thời kì trưởng thành .............................................................................13
1.2.Những yếu tố hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Khoa ................17
1.2.1.Nguồn cội văn học dân gian của quê hương .........................................17
1.2.2. Truyền thống gia đình ..........................................................................23
1.2.3. Ảnh hưởng của các nhà thơ bậc thầy trong làng thơ Việt Nam
hiện đại ...........................................................................................................25
1.2.4. Không khí sáng tác thơ ca thời chống Mĩ cứu nước ............................28
1.3. Những cơ sở nảy sinh chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa .....30
1.3.1. Bối cảnh văn hóa - xã hội thời kì hậu chiến .........................................30
1.3.2. Quan điểm nghệ thuật của Trần Đăng Khoa ........................................33
Tiểu kết chương 1....................................................................................................36
Chương 2. SỰ THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG SÁNG TÁC
CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA ............................................................37
2.1. Khẳng định chủ quyền lãnh thổ ...................................................................37
iv
2.2. Ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam .......................47
2.3. Tiếng thơ ca ngợi tình yêu đôi lứa ...............................................................58
Tiểu kết chương 2....................................................................................................67
Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO TRONG
SÁNG TÁC CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA ......................................68
3.1 Hệ thống biểu tượng .....................................................................................68
3.1.1. Khái niệm biểu tượng nghệ thuật .........................................................68
3.1.2. Biểu tượng cánh buồm .........................................................................71
3.1.3. Biểu tượng tàu và biển .........................................................................73
3.1.4. Biểu tượng cánh chim hải âu ................................................................77
3.2. Giọng điệu....................................................................................................79
3.2.1. Trữ tình, trong sáng, thiết tha ...............................................................80
3.2.2. Triết lí, suy tư .......................................................................................82
3.3. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi và giàu nhạc điệu ..............................................85
3.3.1. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi ....................................................................85
3.3.2. Ngôn ngữ giàu nhạc điệu ......................................................................88
3.4. Biện pháp tu từ .............................................................................................91
3.4.1. Nhân hóa ...............................................................................................91
3.4.2. So sánh..................................................................................................95
Tiểu kết chương 3....................................................................................................99
KẾT LUẬN ..........................................................................................................100
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................103
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lãnh thổ Việt Nam không chỉ bao gồm phần đất liền mà còn phải kể đến
không phận và vùng lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc. Ngay từ xa xưa ý thức giữ
gìn tài sản quý báu ấy đã luôn được cha ông ta coi trọng, đề cao. Biển là quà tặng vô
giá của thiên nhiên dành tặng cho con người Việt Nam . Biển đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc cả trong lịch sử, hiện tại và
tương lai. Việt Nam với 63 tỉnh thành thì trong đó có tới 28 tỉnh, thành phố giáp
biển. Biển không chỉ đem đến nhiều nguồn lợi cho cư dân người Việt mà biển còn
là cửa ngõ để nước ta giao lưu kinh tế trong khu vực và trên thế giới, là nơi trao đổi
và gặp gỡ với nhiều nền văn hóa. Biển nước ta được ví như mặt tiền, sân trước, cửa
ngõ quốc gia; biển, đảo, thềm lục địa và đất liền hình thành phên dậu, chiến lũy
nhiều lớp, nhiều tầng, bố trí thành tuyến phòng thủ liên hoàn bảo vệ Tổ quốc.
“Bao đời nay, biển đảo luôn là vẻ đẹp tráng lệ của mỗi miền quê, là địa
danh ghi dấu những chiến công hiển hách của lịch sử chống ngoại xâm, là bản sắc
văn hoá và là nguồn cảm hứng bất tận của văn học nghệ thuật... Trong bức tranh
toàn cảnh của văn học Việt Nam nói chung, chủ đề biển đảo làm nên một dòng chảy
liên tục, xuyên suốt từ văn học dân gian sang văn học viết gồm nhiều thể loại như
thơ, phú, kí, truyện ngắn, tiểu thuyết… Mỗi giai đoạn, mỗi thể loại sẽ có những kiểu
sáng tác và hệ hình thi pháp riêng nhưng chung quy đều hướng tới việc khám phá
đời sống con người cùng những đa dạng về sinh thái học: Cảnh sắc thiên nhiên,
chân dung tâm hồn, phong tục tập quán, nguyên tắc và văn hoá ứng xử trước biển…
Biển đảo, do vậy, là một đề tài vừa mang tính duy mĩ, vừa có ý nghĩa nhân văn sâu
sắc. Đây thực sự là một lưu vực lớn trong địa lí văn chương Việt’’ [64].
Không chỉ là không gian dành riêng cho đôi lứa, khi đến với biển mỗi người
trong chúng ta như được tiếp thêm sinh lực, bỏ lại sau lưng những bon chen của
cuộc sống hàng ngày, ta như đắm chìm trong thiên nhiên, nhẹ nhõm và thư thái,
biển là người bạn luôn lắng nghe ta chia sẻ, giãi bày. Phải chăng khi đến với biển
mỗi người trong chúng ta dễ dàng tìm được sự đồng điệu giữa tâm trạng và cảnh
quan do đó chủ đề biển đảo đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều tác giả
như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Xuân Quỳnh, Hữu Thỉnh…
2
Trần Đăng Khoa là một tác giả có một diện mạo riêng, khá độc đáo trong nền
thơ Việt Nam hiện đại. Thời niên thiếu với “Góc sân và khoảng trời” cánh thơ Trần
Đăng Khoa đã bay xa đến với mọi miền đất nước như biên cương, hải đảo để khai
thác những khía cạnh mới mẻ, khám phá, tìm tòi và trải nghiệm những điều thú vị ở
những địa hạt ít người đặt chân tới . Chủ đề biển đảo là cảm hứng chủ đạo làm nên
giá trị rất riêng của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Một trong những nơi nhà thơ hái
lượm được nhiều thi tứ nhất là Trường Sa, “cái giọt máu thiêng liêng dưới ngầu
ngầu bọt sóng” của Tổ quốc thân yêu.
Đọc chùm thơ viết về Trường Sa của Trần Đăng Khoa, người đọc bắt gặp nhà thơ
lúc này là anh lính Hải quân chững chạc, có lúc anh đứng bên “Cây bão táp đảo Nam
Yết” để cảm nhận nhựa sống dẻo dai, bền bỉ của nó, có lúc xao xuyến cùng “Cô tổng đài
hải đảo”, có lúc tếu táo, hóm hỉnh cùng “Lính đảo hát trường ca trên đảo”, có lúc khao
khát mong chờ đến rực cháy “Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn”. Không gian sống cùng đồng
đội ở Trường Sa, Trần Đăng Khoa được tôi luyện dạn dày qua thời gian bám trụ giữa
bão táp phong ba. Thời gian ấy là quãng thời gian đáng nhớ trong cuộc đời của anh, khó
khăn thử thách chỉ giúp người lính tôi luyện và từ đó tình đồng đội, ý chí kiên cường,
lòng trung thành với Tổ quốc được soi sáng.
Khảo sát các công trình nghiên cứu chúng tôi thấy chưa có nhiều luận văn,
luận án nghiên cứu “Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa”. Chọn
đề tài: “Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa”chúng tôi muốn bước
đầu nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện những đặc điểm riêng biệt của đề tài
cũng như những đóng góp của tác giả với đời sống văn học đương đại. Đồng thời
đặt trong bối cảnh nước ta đang sục sôi xây dựng biển đảo và bảo vệ chủ quyền đất
nước đề tài góp phần khẳng định tình yêu biển đảo, yêu quê hương đất nước là một
mạch nguồn không bao giờ vơi cạn trong văn học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Những bài nghiên cứu chung về Trần Đăng Khoa
Trần Đăng Khoa là một nhà thơ đặc biệt. Vì vậy có nhiều người yêu thơ,
nghiên cứu thơ, văn của anh cũng là điều dễ hiểu. Mỗi người một giọng điệu, một
cách hiểu, một thái độ.
3
Phương diện thứ nhất đề tài nghiên cứu những nhận định chung về Trần
Đăng Khoa. Những bài phê bình thơ Trần Đăng Khoa chủ yếu được in trên nhiều
tờ báo, ta có thể kể đến một số bài viết sau: Đọc “Góc sân và khoảng trời”. In trên
báo Nhân dân số 7344(9/6/1974)của tác giả Phong Lan; đọc “Em kể chuyện này”
của Nguyễn Hồng Kiên, Cẩm Thơ, Trần Đăng Khoa in trên báo Văn Nghệ số
452(1972- tác giả Lê Đình Kỵ); đọc “Khúc hát người anh hùng” in trên báo Văn
nghệ số 29(1975- Bàng Sỹ Nguyên); đọc tâp thơ “Thư viết bên cửa sổ máy bay” in
trong tạp chí Văn nghệ Quân đội tháng 2/1987 - Hồng Diệu.
Nghiên cứu phê bình gần đây nhất viết về thơ Trần Đăng Khoa tương đối
đầy đủ phải kể đến cuốn “ Trần Đăng Khoa thần đồng thi ca” (Nhà xuất bản văn
hóa - Thông tin, tháng 3/2000 của nhà phê bình nghiên cứu Vũ Nho). Vũ Nho
được nghe nói về thơ Trần Đăng Khoa khi đang còn là một sinh viên của Đại Từ
(Thái Nguyên) với sự cảm phục, yêu mến. Cái tình ấy cứ theo ngày tháng mà sâu
đậm mãi thêm. Và rồi cuốn sách “ Trần Đăng Khoa thần đồng thi ca” đã ra đời.
Cuốn sách có 3 phần, phần 1 giới thiệu khái quát về thơ Trần Đăng Khoa, phần 2
là một số bài bình của tác giả về những bài thơ tâm đắc trong tập thơ như“ Trăng
sáng sân nhà em”, “Đánh thức trầu” “Sao không về vàng ơi”. Phần 3 là tập hợp
một số bài bình, nghiên cứu của một số tác giả về thơ Trần Đăng Khoa như
N.Niculin, Phạm Hổ, Tố Hữu, Xuân Diệu, Lại Nguyên Ân - Trần Đình Sử, Phạm
Khải, Lê Thường.
Trong Mạn đàm quanh “ Đảo Chìm” do Phong Điệp thực hiện in trên
Báo Văn Nghệ Trẻ số 14, đã ghi lại những nhận định của các nhà nghiên cứu phê
bình như sau:
Nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã nhận xét “ Đây là tập sách hay, được
viết trong một thời gian khá dài. Qua tập sách này càng chứng tỏ thêm về khả
năng văn xuôi của Trần Đăng Khoa, mà trước đây, Chân dung và đối thoại đã
nói đến điều đó. Hóm và sắc sảo – có thể nói ngắn gọn về văn xuôi của Trần
Đăng Khoa như vậy. Đảo chìm gồm nhiều bài nhỏ ghép lại được viết trong nhiều
năm. Trần Đăng Khoa đã trả được món nợ tinh thần với đồng chí, đồng đội
trong những năm anh ở Hải quân, ở đảo với các chiến sĩ”.
4
Nhà văn Lê Lựu nhận định rằng: “Tất cả những truyện viết trong Đảo Chìm,
Khoa đã kể cho tôi nghe không dưới 10 lần (!), nhưng đến khi đọc văn vẫn thấy cái gì
như mình mới khám phá, như mới bắt gặp, như mới đột nhiên ngỡ ngàng và cứ như
thần. Mà chuyện thì rõ ràng là đã nghe, kể đến thuộc làu rồi. Theo tôi Đảo Chìm là
thần bút, vì những chuyện thông thường, ai ra đảo cũng thấy thế hoặc không thấy thế
mà tự nhiên có và vẫn thấy như là có thật. Ví dụ như chuyện ông tướng ngồi gác, mổ
ruột thừa bằng panh sa lam có thể là Khoa bịa, nhưng vẫn chấp nhận được. Ý tưởng
của tác phẩm đã vượt ra ngoài những chuyện cụ thể, tưởng như rất vụn vặt. Chính vì
thế nó có sức hấp dẫn đối với bạn đọc. Và dù khắt khe thế nào, tôi vẫn phải đánh
giá đây là những trang văn tuyệt vời...”
Nhà văn Phạm Ngọc Tiến cho rằng “Trần Đăng Khoa đã chứng tỏ mình
là một người lính thực sự. Anh khai thác đời sống những người lính đảo một
cách tài tình, giúp người đọc hiểu được những khó khăn vất vả nơi đây, đồng
thời biết yêu thương, kính trọng họ một cách tự nhiên, chân thành. Tôi đã đọc
Đảo Chìm liền một mạch và không nhận thấy bất khiếm khuyết nào trong tập
sách này. Nếu tôi tỉnh táo hơn một chút, bớt Yêu, bớt Phục, bớt Tin Khoa đi một
chút, chắc chắn sẽ nhận ra khiếm khuyết trong văn của anh”.
Nhà phê bình Ngô Vĩnh Bình cũng đánh giá rất cao về Trần Đăng Khoa: “
Có thể nói, Khoa có cái nhìn khác người, và đặc biệt là rất sâu sắc. Chính vì thế
phần lớn các truyện trong Đảo Chìm viết từ trước đây rất lâu ( thậm chí 15 – 20
năm) nhưng đến nay vẫn mang được tính thời sự của nó. Cho rằng Khoa may
mắn hơn người khác bởi được sống trong một vùng đất “hay” như thế...cũng
không sai. Nhưng nếu không có tài năng văn chương thì tất cả tư liệu quý giá ấy
cũng không thể thành “thời sự” được và không thể cuốn hút được người đọc đến
như thế...”[19].
Qua các nhận định, đánh giá phê bình chúng tôi nhận thấy rằng những bài
viết đi sâu phân tích về biển đảo trong các sáng tác của nhà thơ Trần Đăng Khoa
không nhiều, còn tản mạn chưa sắp xếp thành hệ thống. Tiếp thu và phát triển ý
kiến của những nhà nghiên cứu phê bình đi trước chúng tôi chọn đề tài “ Chủ đề
biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa” làm đề tài nghiên cứu của mình
với mong muốn sự thành công của đề tài sẽ là động lực thúc đẩy mọi người
nghiến cứu sâu hơn, toàn diện hơn về mảng đề tài này trong các sáng tác của
Trần Đăng Khoa.
5
2.2. Những bài nghiên cứu đánh giá về chủ đề biển đảo trong văn học hiện đại
Việt Nam
Phương diện thứ hai là những bài nghiên cứu đánh giá về chủ đề biển đảo
trong văn học hiện đại Việt Nam. Ta có thể thấy trên các báo Thanh Niên, Biên
Phòng, Sài Gòn Giải Phóng…và các trang báo mạng xuất hiện một số bài viết bàn
về đề tài biển đảo trong thơ Việt Nam.
Trong bài Biển - đảo và tổ quốc trong thơ, tác giả Phạm Thị Phương Thảo
thấy rõ vị trí địa lý và lãnh thổ của Việt Nam - một đất nước có “bờ biển trải dài
theo hình chữ S” nên biển đảo là nơi “ gắn liền với những kỳ quan thiên nhiên của
thế giới bởi những vẻ đẹp và những kiến tạo độc đáo”. Nó không chỉ là “những vị
trí và dấu mốc quạn trọng trước lịch sử”, mà còn là “nguồn cảm hứng bất tận của
thi ca”. Tác giả bài viết còn khẳng định: “lãnh thổ Việt nam chúng ta bây giờ không
chỉ được trải dài từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau, mà còn bao gồm cả vùng
trời, vùng biển và hải đảo được trải rộng từ Tây Trường Sơn sangĐông Trường Sa.
Do đó cần thấy rõ ranh giới và lãnh thổ của đất nước ta luôn gắn liền với quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa”[63].
Tác giả Nguyễn Viết Chính trong bài viết của mình Biển đảo - nguồn cảm
hứng vô tận cho thi ca và cho âm nhạc nhấn mạnh; “Đất nước Việt Nam thân
thương của chúng ta có đến 3670 cây số bờ biển, với hơn 1 triệuKm² diện tích nước
trên biển Đông và trên 4000 đảo chìm, đảo nổi lớn, nhỏ. Biển đã mang lại cho ta
tiềm năng vô tận và đông thời là nguồn cảm hứng cho các sáng tạo của văn học
nghệ thuật, trong đó có thơ ca và âm nhạc”[8]. Tác giả dẫn lời lý giải của nhà văn
Nguyễn Trí Huân về câu hỏi tại sao thơ ca và âm nhạc lại có nhiều tác phẩm viết về
biển như vậy: “Việt Nam là một dân tộc hướng ra biển. Biển “ nóng” lên thế nào,
đất liền cũng sẽ nóng lên như vậy Trên biển không chỉ có sóng, có gió mà có cả con
người - những con người hết sức đẹp đẽ. Trong nhiều năm qua, đã có hàng trăm
nhà văn, nhà thơ đến với Trường Sa, Hoàng Sa…Nhưng không chỉ có Trường Sa,
Hoàng Sa mà những hòn đảo khác nữa trong vùng biển thiêng liêng của tổ quốc
mãi sẽ là vấn đề lớn với thi ca bởi đó là máu thịt, là hương hỏa từ ngàn đời của ông
cha ta bao thế hệ”[8].
Đề tài nghiên cứu “Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa” là
một đề tài khá mới mẻ. Tiếp thu những bài viết trên, luận văn nghiên cứu, tìm hiểu
6
“Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa”để có một cái nhìn toàn
diện về mảng đề tài này và trong văn học Việt Nam hiện đại. Trên cơ sở đó, chúng
tôi mong góp một tiếng nói nhỏ bé của mình để khẳng định đầy đủ và sâu sắc hơn
những đóng góp của Trần Đăng Khoa trong dòng chảy của văn học dân tộc, nhất là
trước những vấn đề thời sự hôm nay.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Người viết tập trung làm rõ những đặc điểm của thơ, văn viết về biển đảo
cũng như đóng góp của nhà thơ Trần Đăng Khoa trong mảng đề tài này.
3.2.Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa”
nhằm phát hiện những tìm tòi rất riêng của tác giả khi viết về biển đảo. Đặc biệt để
thấy được tiếng thơ khẳng định chủ quyền lãnh thổ, tình yêu cảnh trí non sông, tình
yêu thương con người. Từ đó khẳng định vị trí, phong cách tiêu biểu nhà thơ Trần
Đăng Khoa và những đóng góp của tác giả với nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu hành trình sáng tác, quan điểm nghệ thuật của nhà thơ
thể hiện qua các tác phẩm nổi bật. Luận văn hướng tới làm rõ chủ đề biển đảo là
cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác củaTrần Đăng Khoa, từ đó khẳng định những
đóng góp của Trần Đăng Khoa đối với văn học Việt Nam hiện đại.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
chính sau đây
4.2.1. Phương pháp hệ thống
Với quan điểm mỗi sáng tác là một chỉnh thể nghệ thuật nằm trong một chỉnh
thể lớn hơn là nền văn học hiện đại, khi khảo sát, phân tích các biểu tượng nghệ thuật
người viết không đặt nó riêng lẻ mà luôn ý thức đặt chúng trong một chỉnh thể thống
nhất với các yếu tố nghệ thuật khác để làm rõ hơn nội dung tác phẩm.
4.2.2. Phương pháp thống kê
Đây là phương pháp không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu. Qua việc
khảo sát tập thơ, người viết thống kê các yếu tố về nội dung và nghệ thuật có tính
7
khải quát trong tập thơ, những hình ảnh, chi tiết được lặp lại nhiều lần nhằm tìm ra
cảm hứng chủ đạo và các biện pháp tu từ được sử dụng trong tập thơ. Trên cơ sở
này, chúng tôi tìm ra nét riêng, độc đáo của tài năng thơ Trần Đăng Khoa.
4.2.3 Phương pháp phân tích - tổng hợp
Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong đề tài của luận văn. Chúng
tôi đã dựa trên một số tài liệu nhận xét, đáng giá của các nhà phê bình nghiên cứu
cùng sự tìm tòi, phát hiện của bản thân trên văn bản các bài thơ trong Tuyển tập
Trường Sa để làm cơ sở cho việc tiếp cận và tìm hiểu tập thơ nhằm phục vụ tốt hơn
cho đề tài.
4.2.4 Phương pháp so sánh
Phương pháp này giúp chúng tôi có sự liên hệ, đối chiếu, so sánh những
điểm giống và khác nhau giữa thơ Trần Đăng Khoa và các nhà thơ khác viết cùng
chủ đề để qua đó có một cái nhìn đúng mức về tài năng, tâm hồn Trần Đăng Khoa
và những đóng góp của tác giả cho nền văn học nước nhà.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi khảo sát tuyển tập
Trần Đăng Khoa - Tuyển tập Trường Sa, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, (2014)
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danhmục tài liệu tham khảo, cấu trúc
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1.Hành trình sáng tạo và sự hình thành chủ đề biển đảo trong sáng
tác của Trần Đăng Khoa
Chương 2. Sự thể hiện chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần Đăng Khoa
Chương 3. Hình thức thể hiện chủ đề biển đảo trong sáng tác của Trần
Đăng Khoa
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn tiếp tục đưa ra một hướng tiếp cận mới về chủ đề biển đảo trong
sáng tác của Trần Đăng Khoa và giải mã những mối liên hệ quan yếu giữa ý thức và
sáng tạo nghệ thuật cũng như việc lĩnh hội nghệ thuật. Đưa ra những kiến giải ban
đầu biểu tượng nghệ thuật trong sáng tác của Trần Đăng Khoa.
8
Chương 1.
HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO VÀ SỰ HÌNH THÀNH CHỦ ĐỀ BIỂN ĐẢO
TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
1.1. Khái quát các chặng đường sáng tác của Trần Đăng Khoa
1.1.1 Thời kì niên thiếu
Trần Đăng Khoa - thần đồng thi ca Việt Nam sinh ngày 26 tháng 4 năm 1958
tại thôn Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ngay từ nhỏ
Trần Đăng Khoa đã lớn lên cùng những câu chuyện, những bài thơ ca cổ của người
mẹ tảo tần. Anh trai của Trần Đăng Khoa - nhà thơ Trần Nhuận Minh cũng là người
say mê văn học. Có lẽ vì vậy Trần Đăng Khoa khi học hết vỡ lòng đã rất thích đọc
sách và thuộc nhiều ca dao. Sáng tác của Trần Đăng Khoa cho đến thời điểm hiện
tại rất phong phú về thể loại: Thơ, văn xuôi, phê bình văn học, trường ca...Những
sáng tác đó có thể chia làm hai thời kì: Thời kì niên thiếu và thời kì trưởng thành.
Nói đến thơ thiếu nhi không thể không nói đến thơ thời niên thiếu của nhà
thơ Trần Đăng Khoa, người nổi lên như thần đồng thi ca của những năm 60 thế kỷ
XX. Nhà văn Đình Kính đã nhận xét về thơ Trần Đăng Khoa: “Thơ Trần Đăng
Khoa hấp dẫn như loại vang nho, nhẹ, không gây sốc, không làm chúng ta khùng
nhưng uống rồi sẽ ngấm, sẽ say lâu và khó bỏ.”
Thời kì niên thiếu được tính từ khi Trần Đăng Khoa cho ra đời bài thơ Con
bướm vàng năm 1966. Lúc ấy cậu bé 8 tuổi Trần Đăng Khoa chỉ làm thơ một cách
ngẫu hứngcảm xúc đến với anh chân thật và giản dị. Anh từng tâm sự: “ Không biết
các nhà thơ khác làm thơ như thế nào? Còn tôi, bài thơ đến với tôi thường bất chợt.
Có khi đang ngồi nói chuyện với bạn tự dưng trong đầu nảy ra một ý gì đó mà mình
tự thấy hay hay. Cũng có khi đang đọc sách, gặp một chi tiết thú vị, rồi chi tiết đó
cũng gợi cho mình một cái tứ nào đó. Thế rồi bài thơ hình thành, bài thơ đầu tiên ra
đời trong những phút ngẫu hứng ấy”[40, tr.57].
Bài thơ Con bướm vàng là tác phẩm đầu tay của Trần Đăng Khoa nhưng đã
để lại một ấn tượng mạnh mẽ về một giọng thơ trong sáng, hồn nhiên và chân thành.
Nối tiếp sau thành công đó là sự nở rộ của cảm xúc và tài năng Trần Đăng Khoa
9
bằng việc ra đời hàng loạt các bài thơ có giá trị như Chiếc ngõ nhỏ, Trăng sáng sân
nhà em, Trông trăng, Bên kia sông Kinh Thầy, Ảnh Bác, Hạt gạo làng ta, Kể cho bé
nghe,...Những bài thơ ngộ nghĩnh nhưng cũng rất đỗi tinh tế ấy đến với người đọc
với một số lượng lớn. Ta có thể thấy rằng, cùng lứa tuổi với Trần Đăng Khoa cũng
có rất nhiều các bạn nhỏ làm thơ nhưng không phải ai cũng đạt được thành công
như Trần Đăng Khoa, thành công của Trần Đăng Khoa đó là cách cảm nhận những
điều tồn tại xung quanh mình qua lăng kính trẻ thơ, ngây thơ, ngộ nghĩnh, nhưng
quan sát tinh tế, liên tưởng độc đáo và thú vị đưa người đọc đi từ bất ngờ này tới bất
ngờ khác.
Thời kì niên thiếu là thời kì của một tài năng nở rộ, thăng hoa về cảm xúc,
quãng thời gian rực rỡ của Trần Đăng Khoa. Thời thơ ấu tôi và bạn bè đã đọc thuộc
lòng những câu trong Nghe thầy đọc thơ, Hạt gạo làng ta...Mặc dù chưa hiểu hết
được hết cái hay của những câu thơ đó, chúng tôi vẫn cảm nhận được một cái gì đó
rất gắn bó, gần gũi. Sau này lớn lên, tôi biết được tác giả của những vần thơ đã đi
theo mình suốt thời thơ ấu là Trần Đăng Khoa, và càng thú vị khi biết rằng những
bài thơ đó được sáng tác khi tác giả còn rất nhỏ. Đọc thơ của Trần Đăng Khoa thời
niên thiếu là một thế giới lung linh đầy màu sắc và ánh sáng, ngộ nghĩnh và đáng
yêu mở ra. Thế giới ấy được soi chiếu qua lăng kính trẻ thơ, trong sáng đến kì diệu,
hồn nhiên đến ngộ nghĩnh thơ ngây, sống động đến bất ngờ. Trong thế giới đó ẩn
chứa rất nhiều những hình ảnh điển hình của làng quê Việt từ mảnh vườn, cánh
đồng, cánh cò, dòng sông, cho đến những cây trồng, con vật bé nhỏ, bạn của trẻ con
nhà nông như chú dế, con giun, con kiến, con trâu, con cua, bờ rào, cây chuối, cây
bưởi...Đối với Trần Đăng Khoa tất cả đều trở nên có hồn, tất cả ngộ nghĩnh, đáng
yêu. Trần Đăng Khoa đã thổi linh hồn của cuộc sống khiến cho những vật vô tri vô
giác ấy trở thành thế giới trong trẻo của riêng anh. Độc giả như đắm chìm vào thế
giới ấy khi đọc thơ Trần Đăng Khoa.
Trâu ơi, ăn cỏ mật
Hay là ăn cỏ gà
Đừng ăn lúa đồng ta
Trâu ơi uống nước nhá
10
Trâu cứ chén cho no
Ngày mai cày thật khỏe
Đừng lo đồng nứt nẻ.
(Con trâu đen lông mượt)
Cánh đồng là không gian khá quen thuộc đối với làng quê người Việt, đó
không chỉ là không gian sản xuất nông nghiệp mà còn là không gian rất riêng của
đám trẻ thôn quê sau giờ học tập với những trò chơi dân gian thả diều, bắt bóng,
chơi quay, chọi dế. Một không gian rộng mở cho những ước mơ bay xa.
Cánh đồng làng Điền Trì
Sớm nay sao mà rộng
Sương tan trên mũi súng
Trên sừng trâu cong veo
(Cánh đồng làng Điền Trì)
Hạt gạo có tầm quan trọng vô cùng to lớn đối với cư dân nông nghiệp lúa
nước. Trong thời chiến hạt gạo càng thêm phần giá trị. Hạt gạo“gửi ra tiền tuyến gửi về phương xa”. Trần Đăng Khoa đã hiểu rất rõ điều này không hào nhoáng mà
rất chân thật những nỗi vất vả của người dân lao động quanh năm chân lấm tay bùn
và sự khắc nghiệt của khí hậu thời tiết cũng được tác giả khắc họa.
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
...Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy...
(Hạt gạo làng ta)
11
Không chỉ sáng tác những bài thơ ngộ nghĩnh con trẻ, chúng ta còn nhận
thấy một Trần Đăng Khoa suy tư, chiêm nghiệm người lớn trước tuổi. Khi Trần
Đăng Khoa viết về chú bộ đội, những anh hùng trong thời chiến.
Có qua những cuộc đấu tranh
Máu người đổ xuống mới thành núi sông
Đẹp sao dòng máu anh hùng
Lại từ sông núi chảy trong tim người
(Khúc hát người anh hùng)
Qua tấm gương anh hùng Mạc Thị Bưởi tác giả thể hiện lòng biết ơn, tự hào
về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Có máu và nước mắt
đổ xuống để dựng lên tượng đài bất diệt về lòng yêu nước của dân tộc.
Có ai có thể nhận ra tác giả của những dòng thơ chiêm nghiệm này lại là một
cậu bé mười hai tuổi khi viết về người mẹ của mình.
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan
Cả đời đi gió đi sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi
(Mẹ ốm)
Cậu bé Trần Đăng Khoa không chỉ có tố chất thơ ca mà còn là một tâm hồn
rung động tinh tế, nhạy cảm. Cảm nhận sự vật tồn tại xung quanh mình nhẹ nhàng,
chậm dãi. Những sự vật tưởng chừng rất đỗi tầm thường dưới sự quan sát tỉ mỉ của
Trần Đăng Khoa nổi bật lên ý nghĩa sâu sắc, làm lay động lòng người.
Mái gianh ơi hỡi mái gianh
Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương
(Khúc hát người anh hùng)
Hay
Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
(Đêm Côn Sơn)
12
Điều này đã khiến nhiều nhà thơ thuộc thế hệ đàn anh có tuổi đời, tuổi
nghề và vị thế vững chãi trong làng văn thời ấy đưa ra nhận xét về Trần Đăng
Khoa như sau: “Tinh hoa văn học của một dân tộc đã dồn đúc vào một số ít
người, trong đó có Khoa. Giời đã mượn cái miệng trẻ con để làm thơ cho người
lớn đọc. Không hiểu sao một chú bé tám tuổi lại có được những câu thơ như
vậy. Đó là câu thơ của Giời”[59,tr.117].
Có thể thấy rằng, thời niên thiếu Trần Đăng Khoa đã nhanh chóng gặt hái được
nhiều thành công, nền tảng vững chắc trên con đường sáng tạo nghệ thuật sau này của
mình. Chỉ trong vòng mười năm ngoài tập Góc sân và khoảng trời, Trần Đăng Khoa đã
xuất bản 4 tập trường ca: Khúc hát anh hùng, Trừng phạt, Làng quê, Đánh Thần Hạn.
Từ năm 1968- 1983 thơ của anh liên tục được xuất bản, thơ Trần Đăng Khoa khiến
không chỉ các em nhỏ mà bạn đọc xa gần đều đón nhận nhiệt tình, say mê.
Các tác phẩm thơ thời niên thiếu được xuất bản trong nước:
- Góc sân và khoảng trời, Nhà xuất bản Hải Dương, 1968.
- Từ góc sân nhà em, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1968.
- Thơ Trần Đăng Khoa, tập 1, Nhà xuất bản Hải Dương, 1970.
- Từ góc sân nhà em(Tập khác), Nhà xuất bản Hải Dương, 1972.
- Góc sân và khoảng trời (tập khác), Nhà xuất bản Kim Đồng, 1973.
- Khúc hát người anh hùng (trường ca),Nhà xuất bản Văn nghệ quân đội, 1974.
- Đánh Thần Hạn(trường ca), Nhà xuất bản văn nghệ, Hà Nội.
- Em kể chuyện này, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1977.
- Kể cho bé nghe, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1979.
- Thơ Trần Đăng Khoa, tập 2, Nhà xuất bản Hải Dương, 1982.
- Thơ Trần Đăng Khoa, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1982.
- Góc sân và khoảng trời, Nhà xuất bản Đồng Tháp, 1983.
- Hạt gạo làng ta, Nhà xuất bản Hải Hưng, 1983.
- Trần Đăng Khoa, Thơ với tuổi thơ, Nhà xuất bản Kim Đồng, 2007.
Các tác phẩm xuất bản ở nước ngoài
- Tiếng hát còn tiếp tục, xuất bản ở Pháp, năm 1971.
- Góc sân và khoảng trời, xuất bản tại Cuba, năm 1973.
- Cánh diều no gió, xuất bản tại Cộng hòa dân chủ Đức, năm 1974.
- Com bướm vàng, xuất bản tại Hunggari, năm 1973.
13
Thơ Trần Đăng Khoa thể hiện một năng lực quan sát nhạy bén của tác giả đối
với cảnh vật và cuộc sống thôn quê. Tuy tuổi còn nhỏ nhưng Trần Đăng Khoa đã biết
chọn lựa nhiều cách biểu hiện khác nhau để khắc họa, miêu tả thế giới này phong phú,
đa dạng, ngộ nghĩnh và sinh động vô cùng: Nghệ thuật tả cảnh, ngôn ngữ sử dụng
chính xác, gợi cảm khiến cho những hình ảnh vốn quen thuộc trở nên khác lạ, độc đáo,
đầy bất ngờ. Giọng thơ hồn nhiên trong sáng triết lí mà sâu sắc. Thơ thời niên thiếu của
Trần Đăng Khoa không xa lạ mà rất gần gũi quen thuộc, là sản phẩm của đôi mắt trẻ
thơ cộng tài năng thiên bẩm cùng sự học tập tìm tòi, sự nghiêm túc trong sáng tạo nghệ
thuật để từ đó giúp cho tác giả sáng tác lên những trang thơ thật hay. Một tài năng nở rộ
khi tuổi mới thiếu thời, trong khoảng thời gian ngắn Trần Đăng Khoa đã sáng tác một
lượng tác phẩm lớn tỉ lệ thuận với đó là giá trị mà các tác phẩm đó để lại trong lòng độc
giả. Trần Đăng Khoa xứng đáng với danh xưng “Thần đồng thi ca”. Tài năng hiếm có
không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới.
1.1.2. Thời kì trưởng thành
Mùa xuân năm 1975 là cột mốc của dân tộc, cũng là cột mốc để đánh giá
sáng tác Trần Đăng Khoa. Thời kì trưởng thành của Trần Đăng Khoa được tính từ
khi anh nhập ngũ, chính thức trở thành người lính cụ Hồ năm anh mười bảy tuổi.
Khi đó anh đang học lớp 10 tại trường phổ thông Nam Sách. Nghe tiếng gọi của đất
nước, anh lên đường tham gia đợt Tổng động viên mùa xuân năm 1975. Và cũng kể
từ đó, Trần Đăng Khoa từ giã thời niên thiếu với thế giới mộng mơ của Góc Sân và
Khoảng Trời để sải đôi cánh của tuổi trẻ bay cao và bay xa với những ước mơ,
nhưng cũng thật nhiều gian nan và thử thách.
Em chẳng còn bé bỏng như xưa
Chiếc khăn quàng em đeo đã bắt đầu thấy chật
Những trang giấy cứ cồn lên mặt đất
Đường hành quân dẫn đến mọi chân trời
Cao hơn trang thơ, hơn cả cuộc đời
Là Tổ quốc đang một còn, một mất.
... Và sau này, nếu các anh gặp em
Không phải trong góc sân nhà ngồi ngắm trăng lên
Mà trong chớp đạn rực trời, cứ điểm thù tan rã
Thì điều ấy, chắc các anh không lạ.
(Thư thơ)
14
Về thơ Trần Đăng Khoa trước đây đã có phần chững chạc người lớn trước
tuổi. Tuy nhiên chỉ khi khoác lên mình bộ quân phục màu áo lính thì Trần Đăng
Khoa mới chính thức chuyển sang một giai đoạn mới đó là giai đoạn trưởng thành.
Từ giã quê hương thân yêu gắn bó bao ngày, từ giã “góc sân và khoảng trời”
nhà em, chàng trai Trần Đăng Khoa khi ấy mới 17 tuổi lên đường đi tới mọi miền tổ
quốc và tới cả nước Nga xa xôi mang theo khát vọng rực cháy, sức mạnh chiến đấu,
cống hiến cho non sông đất nước.
Hôm nay em đến giảng đường
Anh hằng khao khát
Thế hệ anh, mấy lớp người đi cứu nước
Có bao anh chưa được tới lớp mười
Có bao anh nằm lại dọc đường rồi
Bên con suối không tên, dưới ngọn đồi không tuổi
Có thể sau này em dẫn học trò tới
Chỉ thấy im lìm rừng xanh với núi xanh
(Gửi em gái)
Trong bài Ngày mai ra trận người đọc cùng hồi hộp, nín thở cảm nhận sự
căng thẳng của người lính
Nếu ngày mai chúng mình đều còn cả
Ta sẽ ôm nhau hát vang rừng
Cho mẹ chúng mình ở nhà đừng sốt ruột
Cho sông núi biết chúng mình là những thằng hai mươi
(Ngày mai ra trận)
Tuy nhiên nổi bật nhất trong các sáng tác của Trần Đăng Khoa viết ở tuổi
trưởng thành là mảng đề tài người lính và cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Những
tác phẩm của anh thời kì trưởng thành chủ yếu được tập hợp trong tập Đi ngang qua
bão và sau này là Bên cửa sổ máy bay.Trong tập Bên cửa sổ máy bay gồm 3 cụm
chính. Một cụm là các bài thơ về tình yêu, một cụm thơ về đời sống bộ đội trên hải
đảo, một cụm suy ngẫm về cuộc đời, về thơ, về làng quê. Nhưng thú vị nhất vẫn và
cụm thơ viết về người lính trên đảo, Trần Đăng Khoa đã phác họa sự khó khăn,
- Xem thêm -