LUẬN VĂN:
Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay
Lời mở đầu
Gắn liền với công cuộc đổi mới và mở cửa ở nước ta, có nhiều yêu cầu phải mở
giải quyết cùng một lúc: Vừa ổn định, vừa phát triển kinh tế trong nước, vừa mở rộng
giao lưu quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài ...Nhu cầu mở rộng lượng tiền
cung ứng (Cầu về tiền) ngày càng lớn, dẫn đến sự xác lập quan hệ cung - cầu mới về tiền
trong khi đó vẫn phải tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập
nền tảng cho sự phát triển chung.
Ngày nay không ai còn có thể phủ nhận bằng việc điều chỉnh tiền tệ cho phù hợp
với nhu cầu của nền kinh tế là một trong những vấn đề thiết yếu mà tổ chức của các hệ
thống tiền tệ phải tuân thủ và chính sách tiền tệ phải theo đuổi.
Xét về toàn cảnh thị trường tài chính thế giới trong những năm qua thì bức tranh
thị trường tài chính khá sáng sủa, các khoảng tối đã bị thu hẹp và nhường chỗ cho những
khoảng sáng. Thế giới đã từng chứng kiến sự hồi phục nhanh chóng của các nền kinh tế
từ châu á, châu Âu và Mỹ sau những tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ châu á diễn ra giữa năm 1997 chắc chắn còn là nỗi ám ảnh đối với nhiều người.
Bước vào thế kỷ mới, năm 2000, năm bản lề của sự phát triển và hưng thịnh, Việt
Nam - con rồng châu á xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vì vậy
việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu
quả nhất vẫn còn là một ẩn số phức tạp và nhiều bất cập.
Qua quá trình học tập môn học, được sự hướng dẫn của các thầy cô giáo ở bộ môn
nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, em xin mạnh dạn trình bày tiểu luận môn học Lý thuyết
tiền tệ với đề tài: “Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay”.
Tiểu luận gồm 3 phần:
Phần I : Lý thuyết chung về chính sách tiền tệ.
Phần II: Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
Phần III: Những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn hiện
nay.
Phần I
Lý thuyết chung về chính sách tiền tệ
I. Những lý luận cơ bản về chính sách tiền tệ
1. Chính sách tiền tệ và vai trò của nó.
Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của
Nhà nước, nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân với các
nội dung sau:
Một là, Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động Ngân hàng.
Hai là, có biện pháp để động viên các nguồn lực trong nước là chính tranh thủ tối
đa nguồn lực ngoài nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế.
Ba là, bảo đảm vai trò chủ đạo và chủ lực của các tín dụng Nhà nước trong lĩnh
vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàn.
Bốn là, giữ vững định hướng XHCN, chủ quyền quốc gia, mở rộng hợp tác và hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng.
Năm là, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần công nghiệp
hóa hiện đại hoá đất nước.
Đây là chính sách lớn, mang tính định hướng cho hoạt động của hệ thống Ngân
hàng nói chung và trong lĩnh vực tiền tệ nói riêng. Chính sách tiền tệ có vai trò quan trọng
trong nền kinh tế thị trường. Nó là đòn bảy kinh tế lớn nhất trong hệ thống đòn bảy kinh
tế được sử dụng thường xuyên và linh hoạt nhất đối với mọi thành phần kinh tế. Không
sử dụng và không thực hiện đúng chính sách, chắc chắn sẽ làm cho quá trình phát triển
kinh tế gặp nhiều khó khăn hay vấp phải nguy cơ không lường trước được. Do đó điều
tiết vĩ mô cho đến nền kinh tế mỗi quốc gia.
Để chuẩn bị bước vào thế kỷ 21, thế kỷ hội nhập quốc tế và bùng nổ của khoa học
công nghệ, việc xây dựng chiến lựợc phát triển đã trở thành một vấn đề quan trọng đối
với mỗi quôc gia. Cho đến nay đã hoàn thành việc xây dựng cho mình một chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội chặng đường đầu tiên của thế kỷ mới. Với Việt Nam hiện nay,
vấn đề này đang được Đảng và Nhà nước coi là một nhiệm vụ to lớn củ cả các ngành, các
cấp, trong đó xây dựng chiến lược tài chính thực hiện chính sách tiền tệ được đặc biệt coi
trọng bởi tài chính luôn là một lĩnh vực bao trùm, chi phối mọi mặt, mọi phương diện của
đời sống xã hội trong bối cảnh kinh tế thế giới đầy thách thức và trở ngại với công cuộc
CNH - HĐH đất nước thì vai trò chính sách tiền tệ càng trở nên quan trọng bức thiết hơn
bao giờ hết.
Cụ thể hơn, chính sách tiền tệ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều tiết
khối lượng tiền lưu thông trong toàn bộ nền kinh tế. Thông qua chính sách tiền tệ NHTW
có thể kiểm soát được hệ thống tiền tệ để từ đó kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định sức
mua của đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác chính sách tiền tệ còn là
công cụ để kiểm soát toàn bộ hệ thống các NHTM và các tổ chức tín dụng.
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Về cơ bản
6 mục tiêu cơ bản được những người của Dự trữ liên bang nêu lên thường xuyên
khi họ bàn luận đến đối tuợng chính sách tiền tệ là :
1. Công ăn việc làm cao
2.Tăng trưởng kinh tế.
3. ổn định giá cả
4. ổn định lãi suất
5. ổn định thị trường tài chính
6. ổn định thị trường ngoại hối
2.1. Về việc tạo công ăn việc làm
Việc làm cao là một mục tiêu có giá trị từ hai lý do chính :
- Trường hợp ngược lại, thất nghiệp cao, gây nên nhiều sự đau khổ cho con người,
các gia đình bị khốn cùng về tài chính.
- Khi thất nghiêph lên cao, thì nền kinh tế không những có những người lao động
ngồi không mà còn những nguồn tài nguyên để không(Xí nghiệp đóng cửa, thiết bị không
hoạt động, sản xuất ngưng trệ) đưa đến kết quả hoạt động giảm đi (GDP thấp xuống).
Mục tiêu của việc làm cao do đó sẽ không phải là một mức số không thất nghiệp,
mà là một mức trên số không phù hợp với việc làm đầy đủ, mà tại mức này cầu của lao
động ngang bằng cung của lao động. Các nhà Kinh tế gọi mức thất nghiệp đó là tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên.
Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm chủ yếu phụ thuộc vào tình hình tăng trưởng
kinh tế. Tình hình đó đặt ra cho NHTW trách nhiệm là phải vận dụng các công cụ của
mình góp phần tăng cưòng mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh đồng thời phải tham gia
tích cực vào sự taưng trưởng liên tục và ổn định khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt
quá mức tăng thất nghiệp tự nhiên.
2.2. Về việc tăng trưởng kinh tế :
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế quan hệ chặt chẽ với mục tiêu việc làm cao. Các
Chính sách có thể đặc biệt nhằm vào việc khuyến khích tăng trưởng kinh tế bằng cách
khuyến khích trực tiếp các hãng đầu tư hoặc quần chúng nhân dân tiết kiệm để có thêm
nhiều vốn cho các hãng đưa vào đầu tư.
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu và quan trong nhất của chính sách tiền
tệ. Với tư cách là trung tâm tiền tệ tín ụng và thanh toán trong nền kinh tế quốc dân.
NHTW có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này. Ngân hàng nhà nước Việt
Nam cần Bằng mọi phương thức để có thể huy động được hầu hết các nguồn vốn nhàn rổi
trong nước và nước ngoài để phuc vụ cho mục tiêu này. Mục tiêu từ năm 2000 trở đi tốc
độ tăng trưởng kinh tế hàng năm phải đạt từ 9- 10% đó là múc tăng trưởng cao, nó đòi hỏi
phải gia tăng đầu tư hàng năm hàng chục tỷ USD.
2.3. Về ổn định giá cả
Hơn hai thập kỷ qua công chúng và các nhà kinh tế chuyên nghiệp Mỹ càng hiểu
rõ hơn cái giá phải trả về khinh tế và xã hội của lạm phát gay nên. Họ đã quan tâm nhiều
hơn đến một mức giá ổn định. ặn định giá cả là điều ai cũng mong muốn bởi vì mức giá
cả tăng lên (lạm phát) gây nên tình trạng bấp bênh trong nền kinh tế. Vì vậy, NHTW phải
góp phần duỳ trì tăng trưởng liên tục nhưng ổn định triệt tiêu nghững nhân tố gây nên sự
tăng nhu cầu giả tạo để tăng chi phí lên cao. Trong cuộc đấu tranh này, lãi suất và cung
ứng tiền tệ là hai thứ vũ khí lợi hại, luôn nắm bắt và theo dõi được thực tế diễn biến của
quá tình thực hiện mục tiêu để từ đó có những giải pháp, điều chỉnh phù hợp.
2.4.Về ổn định xã hội.
Mong muốn có một sự ổn định lãi suất vì những biết động của lãi suất làm cho nền
kinh tế bấp bênh và khó lập kế hoạch cho tương lai. Vì vậy, ổn định lãi suất chính là thực
hiện lãi suất tín dụng cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân thông
qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ các nguồn
tiền gửi của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo phải linh hoạt, phù hợp với sự
vận động của cơ chế thị trường.
2.5. Về ổn định thị trường tài chính.
Một lý do rõ ràng của việc thành lập hệ thống dự trữ liên bang là hệ thống đó có
thể thúc đẩy một hệ thống tài chính ổn định. Việc ổn định thị trường tài chính cũng được
thúc đẩy bởi sự ổn định lãi suất bởi vì biến động trong lãi suất gay nên sự lưỡng lự lớn
cho các tổ chức tài chính. Trong những năm gần đây những biến động mạnh của lãi suất
là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với các hiệp hội tiết kiệm và cho vay đã gặp khó
khăn về tài chính như chúng ta đã biết.
2.6. Về ổn định thị trường ngoại hối
Nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền nội địa NHTW thưc hiên các nhiệm
vụ giao dịch về tài chính và tiền tệ đối ngoại qua các phương diện:Quản lý ngoại hối, lập
và theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế, thưch hiện các nghiệp vụ hối đoái tổ
chức và điều tiết thị trường hối đoái trong nước. Xây dựng và thống nhất quản lý dự trữ
ngoại hối, tiến hành kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế. Cần lập mối quan hệ
với NHTW khác với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ
(vay nợ) nước ngoài và có điều kiện ưu đãi khuyến khích đầu tưu nuớc ngoài và thu hút
kiều hối.
*Các mục tiêu trung gian
Trong cơ chế thị trường, NHTW phải xác định các mục tiêu trung gian của chính
sách tiền tệ, nhằm đạt đến mục tiêu cuối cùng của chính sách này. Bởi lẽ NHTW sử dụng
các mục tiêu trung gian đẻ có thể xét đoán nhanh chóng tình hình thưch hiện các hoạt
động của mình phục vụ cho các mục tiêu cuối cùng hơn là chờ cho đến khi nhìn thấy
được kết quả cuối cùng của các mục tiêu đó. Các mục tiêu trung gian cảu chiónh sách tiền
tệ mà NHTW sử dụng là các khối tiền tệ M1,M2,M3 và lãi suất.
Đây là những mục tiêu mang tính định luợng, chúng có thể đo lường, kiểm soát
được và có thể dự đoán tác động của chúng đối với việc thực hiện cac mục tiêu cuối cùng
của chính sach tiền tệ.
Bằng việc tăng, giảm các khối tiền tệ, NHTW góp phần tác động đến tăng, giảm
tổng cung và tổng cầu của tiền tệ. Đồng thời, NHTW cũng có thể sử dụng công cụ lãi suất
để tác động đến sự tăng giảm khối lưọng tiền tệ từ đó mà tác động đến tổng cung và tổng
cầu xã hội. Tuy nhiên thực tiễn thi hành chính sách tiền tệ ở nhiều nuớc cho phép người
ta thiên về hướng lụa chọn các khối lượng tiền tệ làm mục tiêu trung gian hơn là lựa chọn
lãi suất.
Trong các khối tiền tệ, tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước, NHTW có thể lựa
chọn M1, M2 hoặc M3 làm mục tiêu trung gian ưu tiên
3. Nội dung chính sách tiền tệ
Trong cơ chế kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ bào gồm ba thành phần cơ bản
gắn liền với ba kênh dẫn nhập tiền vào lưu thông là:
+ Chính sách tín dụng
+ Chính sách ngoại hối
+ Chính sách đối với ngân sách nhà nước
3.1. Chính sách tín dụng
Thực chất chính sách tín dụng là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế,
thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngan hàng, dựa trên các quỹ cho vay đựoc tạo lập từ các
nguồn tiền gửi của xã hội và một hệ thống lãi suất mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với sự
vận động của cơ chế thị trường.
3.2. Chính sách ngoại hối.
Nhằm đảm bảo việc sử dụng hiệu quả ccá tài sản có giá trị thanh toán đối ngoại
phục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đảy tăng trưởng kinh tế bền vững và gia tăng việc
làm trong xã hội, bảo đảm chủ quyền tiền tệ của đất nứoc.
3.3. Chính sách đối với ngân sách nhà nước
Nhằm đảm bảo phương tiện thanh toán cho chính phủ trong trường hơph nmhân
sách nhà nước bị thiếu hụt.
Phương thức cung ứng tối ưu là NHTW cho ngân sách nhà nước vay theo kỳ hạn
nhất định. Đần và tiến tới loại bỏ hoàn toàn phát hành tiền tệ để bù đắp thiếu hụt ngân
sách.
3.3.1. Trường hợp ngân sách thâm hụt
Chênh lệch giữa thu và chi ngân sách sẽ có tác động khác nhau ddeens nền kinh tế
tuỳ cách tài trợ số chênh lêch ấy có bốn cách đẻ tài trợ thâm hụt ngân sách
Một là vay dân cư
Hai là vay hệ thống tín dụng và thị trường tài chính trong nước
Ba là vay NHTW
Bốn là vay nước ngoài
Vay của NHTW và vay của nước ngoài (bằng ngoại tệ) sẽ làm tăng mạnh khối tiền
tệ, gây áp lực tiềm tàng về sau. Vay của dân cư và của cac NHTM trong nước nguy cơ
làm tăng khối lượng tiền tệ nhẹ hơn. áp lực lạm phát tại các nước đang phát triển mạnh
hơn các nước có thu nhạp cao là do các nước này chủ yếu sử dụng biện pháp vay NHTW
bằng cách phát hành tiền trực tiếp và vay nợ nước ngoài .
3.3.2. Trường hợp ngân sách cân bằng
Khi chính phủ thu thuế tức là đã lấy ra khỉ lưu thông một lưọng tiền và chi trở lại
số tiền ấy vào bộ máy kinh tế. khối tiền tệ không thay đổi vì nó được tăng giảm một
ngạch số như nhau. Tuy nhiên, nó có thể thay đổi kết cấu giữa tiêu dùng và tiết kiệm,
chẳng hạn nếu tầng lớp chịu thuế không giảm tiêu thụ mà giảm tiết kiệm. Trong khi đó,
chính phủ phải dùng số thuế thu được một phần trợ cấp cho những người có thu nhập
thấp thì số tiêu thụ chung lại gia tăng, số đầu tư giảm và kết quả là có thể làm tăng vật
giá. Nếu nhà nước dùng số chi ngân sách để đầu tư thì đầu tư nhà nước tăng lên, đầu tư
chung không đổi. Lưu ý hai trường hợp :
Thứ nhất : Nếu chính sách tiền tệ chống lạm phát, ngân sách thăng bằng vẫn có thể
tác dụng ngược với chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái.
Thứ hai: Trường hợp chính sách tiền tệ nằm chống suy thoái ngân sách thăng bằng
vẫn có thể chuyển dịch thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách
làm tăng mức tiêu thụ.
3.3.3. Trường hợp ngân sách thặng dư:
Đây là trường hợp rất quý và nó là ước mơ chung của mọi quốc gia vì nó rút bới
tiền tệ dư thừa, tác đọng có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ.
4. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ
Xét cho cùng, NHTW có thể thục thinhai loại chính sách tiền tệ phù hợp với tình hình
thực hiện cuỉa nền kinh tế đó là:
- Chính sách nới lỏng tiền tệ
- Chính sách thắt chặt tiền tệ
Chính sách nới lỏng tiền tệ là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế nhằm
khuyến khích đầu tư phát triiển kinh tế tạo công ăn việc làm.
Chính sách thắt chặt tiền tệ là việc giảm cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế, nhằm
hạn chế đầu tư, nganư chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế kiềm chế lạm phát.
Để thực hiện hai chính sách tiền tệ này, NHTW có thể sử dụng hàng loạt các công
cụ tiền tệ nằm trong tay của mình, đố là các công cụ trực tiếp, các công cụ gián tiếp.
4.1.Các công cụ trực tiếp
Gọi là các công cụ trực tiếp vì thông qua chúng, NHTW có thể tác đọng trực tiếp
đến cung cầu tiền tệ, mà không cần phải thông qua công cụ khác.
4.1.1. ấn định khung lãi suất tiền gửi và chon vay
NHTW có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và buộc các ngân hành kinh doanh
phải thi hành.
Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút đựơc tiền gửi làm tăng nguồn vốn cho vay.
Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rông kinh doanh tín dụng.
Song biện pháp này sẽ làm cho NHTM mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh.
Mặt khác nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng, nhưng lại thiếu vốn đầu tư,
hoặc khuyến khích dân cư vào dự trữ vàng, ngoại tệ, bất động sản, trong khi ngân hàng bị
hụt hẫng về tiền mặt, cũng như nguồn vốn cho vay.
NHTW có thể quy định khung lãi suất cho vay buộc ngân hàng khinh doanh chấp
hành.
Khi muốn tăng khối lượng cho vay, NHTW giảm mức lãi suất để kích thích các
nhà đầu tư vay vốn. Khi vần hạn chế đầu tư. NHTW ấn định với lãi suất cao.
Biện pháp này có ưu điểm là giúp ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho
vay, loại những dự án kém hiệu quả.
Việc ấn định các cung lãi suất tiền gửi và cho vay nhìn chung ngày càng được áp
dụng ởi các nước theo cơ chế thị trường, lãi xuất rất nhậy cảm với đầu tư, nó phải vận
động theo quy luật cung cầu vốn trên thị trường.
4.1.2. ấn định mức tín dụng
Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể. Thực chất biện pháp này cho
phép NHTW ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một
thời gian nhất định và sau đó tìm con đường để đưa nó vào nền kinh tế.
Song trong nền kinh tế thị trường, cung cầu tín dụng biến động không ngừng, biện
pháp này chỉ được áp dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu.
4.1.3. Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và cho đầu tư
Trong điều kiện ngân sách bị thiếu hụt, NHTW phải phát hành tiền để bù đắp sự
thiếu hụt đó. Rõ ràng biện pháp này làm gia tăng luợng tiền trong lưu thông, trong khi
lượng hàng hoá không tăng hoặc tăng không kịp. Hởu quả là gia tăng lạm phát. Nó được
nhanh chóng loại trừ trong điều kiện kinh tế thị trường bình thường.
Phát hành trực tiếp cho đầu tư có thể qua ngân sách nhà nước hoặc qua con đường
tín dụng ngân hàng (biện pháp này gọi là biện pháp cho sản xuất hay gọi ;à biện phát lạm
phát lành mạnh) biện phápnày cần thiết trong điều kện nền kinh tế suy thoái, dư thừa tiềm
năng kinh tế. Nó sẽ mang lại hiệu quả tích cực, khơi dậy các tiềm năng về tài nguyên và
con người.
4.1.4. Phát hành trái phiếu Nhà nước để giảm lượng tiền trong lưu thông
Trong điều kiện không thể áp dụng các biện pháp khác chính phủ có thể phát hành
một loạt trái phiếu nhất định để thu hút khối lượng tiền trong lưu thông. Việc phân bổ trái
phiếu mang tính bắt buộc
4.2. Các công cụ gián tiếp
Là những công cụ mà tác dụng của nó được coi là kinh tế thị trường
4.2.1. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các NHTM đưc và dự trữ theo luật định. Phần
dự trữ này được gửi vào tài khoản chuyên dùng của NHTM và đẻ lại quỹ của mình với
mục đích góp phần bảo đảm khả năng thanh toán của NHTM và làm phương tiện kiểm
soát khối lưọng tín dụng của ngân hàng này.
Khi tăng tỷ lệ dự trữ sẽ góp phần giảm khả năg cho vay và đầu tư của NHTM, từ
đó giảm lượng tiền trong lưu thông, góp phần làm giảm cầu iền
để cân bằng với sự
giảm cung xã hội. trong trường hợp giảm tỷ lệ giự trữ bắt buộc, khả năng mở rông cho
vay của NHTM sẽ tăng lên, dẫn đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp phần tăng
cung xã hội để cân đối tăng cầu về tiền.
4.2.2. Lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn
Tái cấp vốn là cách để NHTM đua tiền ra lưu thông đồng thời khống chế và số
lượng và khối lượng tín dụng của ngan hàng trung gian. Qua việc cấp tín dụng, NHTW đã
tạo cơ sở đầu tiên thúc đảy toàn bộ hệ thống các ngân hàng trung gian tạo ra tiền, cũng
như khai thông được thanh toán cho họ.
Khi một ngân hàng trung gian, bằng nguồn vốn đi vay hoặc huy động được, cấp ra
một khoản tín dụng và lập tức biến thành tiền gửi tại nhân hàng đó hoặc tại ngân hàng
liên đới. Họ nhanh chóng có nhu cầu tiền trung ương để :
Đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng
Thanh toán bằng tiền mặt hay chuyểnm khoản cho các ngân hàng khác.
Mua ngoại tệ trên thị trường hối đoái hoặc của NHTƯ
Các ngân hàng trung gian tìm đến NHTW xin cấp vốn bằng cách xin tái chiết khấu
trước đó.
Tái cấp vốn là đầu mối phát sinh tiền trung ương, tăng khối lượng tiền tệ nên
NHTW giải quyết rất thận trọng trên cơ sở :
Chỉ tiêu tín dụng trong nền kinh tế nằm trong khối lượng tiền tệ cung ứng thêm
hàng kỳ kế hoạch.
Hạn mức tín dụng đã phân phố cho từng NHTM theo mức dư nợ tín dụng thực tế
hoặc theo vốn tự có cuả NHTM đó nhưng chưa dùng tới.
Tỷ lệ tiền mặt và tiền ghi sổ đã hình thành trong nền kinh tế. Tuy nhiên trong số
tiền trung ương được tái cấp vốn. NHTM sử dụng bao nhiêu tiền mặt cũng được.
Điều kiện để NHTW tái cấp vốn là :
Còn hạn mức tín dụng (tái cấp vốn) dành cho NHTM đó :
Các khoản tín dụng đem tái chiết khấu có lành mạnh và đảm bảo hối nợ hay
không.
Tuỳ theo yêu cầu khuyến khích hay mở rộng tín dụng tái cấp vốn bình thường hay
mang ý nghĩa phạt mà lãi xuất tái chiết khấu có thể bằng, thấp hơn hoặc cao hơn mức lãi
suất khoản tín dụng mà mà NHTM đã cho khách hàng mình vay.
Qua công cụ tái cấp vốn, NHTM là ngưòi cho vay sau cùng, kiểm tra chất lượng
hoạt động tín dụng của NHTM, tiền ra lưu thông đã được khống chế để kiềm chế lạm
phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. tái cấp vốn được coi là hình thức phát hành tiền
lành mạnh vì nó dựa trên thương phiếu tượng trưng cho những món nợ về thương mại và
đằng sau nó có vật tư hàng hoá.
Nghiệp vụ và biện pháp tác động qua cho vay tái chiết khấu của NHTW rất phong
phú.
Bằng cách kiểm soát tín dụng chọn lọc. NHTM tác động vào cơ cấu tín dụng của
các ngân hàng trung gian (Hạn chế tín dụng vào các ngành Nhà nước không muốn phát
triển, ưu đãi những nghành và những vùng cần ưu tiên).
Tỷ lệ giá trị chiết khấu hoặc tái chiết khấu trên thương phiếu có thể thấp hay cao
tuỳ theo ý muốn mở rộng hay thu hẹp khối tiền tệ (50- 100%) làm như vậy NHTW gián
tiếp thúc đảy các doanh nghiệp giải phóng tồn kho, không giữ lại chỗ giá lên.
Kiểm soát tín dụng tiêu thụ. Trong nghiệp vụ bán hàng tiêu dùng đắt tiền hay mua
nhà trả góp. NHTW thường can thiệp bằng cách quy định mức trả tiền ngày cao hay thấp,
nớ rộng hay rút ngắn thời hạn thiếu chịu, nhằm khuyến khích hay hạn chế nghiệp vụ này.
4.2.3. Nghiệm vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn do
ngân hàng nhà nước thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thuẹc hiện chính sách tiền tệ
quốc gia.
ở nhiều nước kinh tế phát triển, nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò quan trọng
làm thay đổi cơ số tiền tệ, chi phối những thay đổi trong cung ứng tiền tệ. Khi NHTW
quyết định mau một loại giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ sẽ làm tăng cung ứng tiền tệ.
Ngược lại,khi NHTW bán một lưọng chứng khoán trên thị trường tiền tệ sẽ làm giảm bớt
cung ứng tiền tệ. bằng việc mua bán các loại giấy tờ có giá, nhờ chủ động quy định mức
gia phù hợp, NHTW đã tác động đến nguồn vốn các NHTM và do đó tác động đến khả
năng tín dụng của NHTM đối với nền kinh tế. Công cụ thị trưòng mở có ưu đỉểm là nó
trực tiếp tác động ngay đến dự trữ của các ngân hàng kinh doanh và buộc các ngân hàng
này phải gia tăng tín dụng hoặc giảm bớt tín dụng đối với nền kinh tế. NHTW các nước
thường tiến hành phần lớn các nghiệp vụ thị trường mở theo yêu cầu điều chỉnh cung cầu
tiền tệ, đặc biệt khi không thể thực hiện được với công cụ tái chiết khấu.
Muốn sử dụng tốt công cụ trên phải có sự phát triển cao của cơ chế thanh toán
không dùng tiền mặt. Ttrong diều kiện đó tiền trong lưu thông hầu hết là một tài khoản
ngân hàng. Vì vậy, công cụ này rất bphù hợp đối với nước có nền kinh tế phát triển, có thị
trường tài chính hoàn chỉnh. Còn ở Việt Nam hiện nay, thị trường mở chưa thực sự trở
thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền tệ.
Phần II:
Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
I. Một số thành tựu đạt được, tồn tại và nguyên nhân.
1. Những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua.
Bước sang những năm đầu của thế kỷ 21 chúng ta đã thực hiện song kế hoạch 5
năm lần thứ 6 là những năm có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của
chiến lược ổn địng và phát triển kinh tế xã hội 1991- 2000 do đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ 7 và thứ 8 đã đề ra.
Thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kế hoạch năm 2000 sẽ tạo tiền đề cho việc triển
khai thực hiện kée hoạch 5 năm 2001- 2005 và chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10
năm 2001- 2010.
Để thực hiện những kế hoạch đó chúng ta cần có một cách nhìn nhận, phân tích,
đánh giá những bài học thực thi chính sách tiền tệ của nước ta trong thời gian qua. Cho
đến nay, chính sách tiền tệ ở nước ta chưa đạt đến độ hoàn thiện và tương xứng với
những đòi hỏi mà nền kinh tế đặt ra. Nhưng một cách khách quan và công bằng có đủ cơ
sở để thừa nhận sự đóng góp của chính sách tiền tệ và thành tựu to lớn của những năm
đầu của công cuộc đổi mới mà đất nước ta trải qua đầy khó khăn.
Đánh giá một cách nghiêm túc toàn bộ tiến trình thực thi chính sách tiền tệ ở Việt
Nam, trên hai phương diện đạt được và chưa đạt được, chính là cách tốt nhất để có được
một chính sách tiền tệ đủ sức vượt qua những thách thức và trở ngại mà nền kinh tế đóng
vai trò quan trọng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nứơc.
1.1. Một số thành tựu đã đạt được trong thời gian qua:
1. a. Đã tiếp cận, vận dụng những quy luật và nguyên tắc kinh tế thị trường và xác
lập, tổ chức vận hành chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ đã trở thành công cụ không thể
thiếu trong điều hành kinh tế vĩ mô, vai trò như tác dụng của nó đến nền kinh tế càng rõ
nét và mạnh mẽ. Nếu như trước đây chính sách tiền tệ chỉ là tên gọi chứ chưa có, thì nay
chính sách tiền tệ đã được xác định rõ nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ trong mỗi một giai
đoạn, trong từng năm tiến hành cải cách đất nước. Tuy nền kinh tế nước ta chưa thực sự
là nền kinh tế thị trường, nhưng chúng ta đã tìm ra một chính sách tiền tệ phù hợp thích
ứng với điều kiện đất nước. điều đó thể hiện ở những chỉ tiểu vĩ mô khả quan mà Việt
Nam đã đạt được trong suốt thời gian qua. Các nguyên lý cơ bản dần được quán triệt,
đồng thời có những sáng tạo thích nghi với điều kiện thực tế cụ thể.
1. b. Đã xây dựng được một moi trường pháp lý: Nhận thức rõ được vai trò tiền tệ
và động lực của môi trường pháp lý trong sự nghiệp đổi mới chính sách tiền tệ’ hệ thống
tiện tệ- tín dụng- ngân hàng, trải qua nhiều thử nghiệm tìm tòi và nắm bắt tín hiệu thực tế,
chúng ta đã bước đầu xác lập được những nhân tố cơ bản của môi trường pháp lí. Từ việc
ra đời hai pháp lệnh ngân hàng với tư cách là văn bản luật đầ tiên nhằm điều chỉnh các
quan hệ quản lí, kinh doanh tiền tệ,tín dụng, ngân hàng đến nay đã có các luật NHNN và
luật các tổ chức tín dụng đã được quốc hội thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ 1/10/1998.
Những năm gần đây, việc đưa 2 luật này vào áp dụng trong thực tế đã được chú trọng hết
sức nhằm tạo ra một hành lang pháp lí mới thông thoáng và hiệu quả.
1. c. Hoạt động tiền tệ ngân hàng có nhiều thành tựu đáng khích lệ.
Mặc dù việc hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và ngăn chặn sự lan truyền của
khủng hoảng kinh tế tài chính châu á đối với nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là tích
cực. Thực tế các nước chịu sự tấn công mạnh nhất của cuộc khủng hoảng như Indonêxia,
Hàn quốc... đậm nét trong khi đó các nước nằm ngoài tầm của cuộc khủng hoảng như
Việt Nam. Đối phó với sức ép đó và thực hiện việc lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng
trong bối cảnh hội nhập hàng loạt các giải pháp tiền tệ tín dụng đã được ban hành.
Hệ thống ngân hàng hai cấp ngày nay đang đi vào nề nếp, NHTW đã thực sự trở
thành người cho vay cuối cùng, hệ thống ngân hàng thương mại rộng khắp và hoạt động
dưới sự chỉ đạo của NHTW Việc tự chủ kinh doanh và việc xoá sự bao cấp của nhà nước
khiến cho các ngân hàng càng ngày cangf phải tích cực giảm thiểu chi phí hoạt động,
nhằm kinh doanh có hiệu quả nhất. Các ngân hàng đã nâng cấp nhiều về trang 5thiết bị,
đã đưa dược công nghệ tiên tiến vào quản lí ngân hàng, trang bị hàng loạt các máy vi tính
từ NHTW đến các chi nhánh NHNN địa phương bằng hệ thống thanh toán qua mạng vi
tính đã thu hút được kết quả khả quan. Đây có thể coi là mmột bước chuyển về chất lượng
trong điều hành hoạt động tiền tệ, ngân hàng. Một vài con số đáng được ghi nhận:
Cho đến hết tháng 6/1999, huy động vốn của hệ thống ngân hàng tăng 9,3% so với
đầu kì. Ngân hàng ngoại thương đạt 34% đối với đồng nội tệ và 10,6% đối với đồng
ngoại tệ. Tổng dư nợ nền kinh tế tăng 6% trong đó tín dụng trung và dài hạn chiếm trên
40% tổng dư nợ và đạt 45,8% trên địa bàn Hà Nội. phải khẳng định rằng những kết quả
đó là rất đáng khích lệ, bởi vì, các lợi thế có được như sự ổn định tương đối của nền kinh
tế- chính trị- xã hội, chi phí vốn thấp và tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Do phương
hướng điều hành một chính sách tiền tệ lỏng đã được dặt ra ngay từ đầu năm.
2. Những kết quả đạt được do sự xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ đúng
hướng phù hợp với diễn biến của nền kinh tế
2.1. Về chính sách lãi suất và các công cụ bổ trợ
Do vốn vay chiếm tới 80- 90% tổng số vốn sản suất nên việc giảm lãi suất đã được
đặt ra nhằm giảm chi phí hoạt động của nênf sản xuất. Tuy nhiên, do hệ thống nhân hàng
cũng ở tình trạng rất khó khăn nên lúc đầu việc hạ lãi suất chỉ áp dụng đối với các ngân
hàng mậu dịch quốc doanh (Chỉ thị 1/1999/CT- NHNN 29/1/1999 quy định trần lãi suất
tín dụng của các ngân hàng mậu dịch quốc doanh pá dụng đối với khách hàng khu vực
thành thị sẽ giảm từ 1,2 xuống 1,1%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn, từ 1,25 xuống 1,15/
tháng đối với tín dụng trung và dài hạn). NHNN đã tiến hành giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc(Quyết đinh số 52/1999/QĐ- NHNN ngày 10/2/1999) Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đựoc coi là bứoc đệm cho việc hạ lãi suất đồng loạt vào 31/5/1999.
Trong suốt thời gian qua, lãi suất đã thực sự là một công cụ điều hành chính sách
tiền tệ đắc lực. Đặc điểm sử dụng lãi suất NHNN mang tính trực tiếp theo yêu cầu tăng
cường vốn đầu tư phát triển kinh tế và thực hiện một số chính sách xã hội. Cho đến nay,
ta đã thực thi và hoàn thiện dần cơ chế lãi suất riêng và đang đang trên con đường tiến tới
tự hoá lãi suất. Từ đầu tiên các tổ chức tín dụng được tự do ấn định lãi suất kinh doanh tứ
tụ do hoá lãi suất trong phạm cho phép do NHNN công bố vào 1/1/1996 với chênh lệch
lãi suất cho vay. Luật NHNN có hiệu lọc tù 1/10/1998 tại điều 18 quy định :” NHNN
công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn “ và tại điều 19 ghi rõ “Lãi suất cơ bản là
lãi suất do NHNN công bố để các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh “. Những
thanh công trên đây là kết quả của một quáy trình từ điều chỉnh lãi suất một cách tình thế
sang một cách chiến lược có tính lâu dài cho cơ chế lãi suất.
Việc vận dụng những công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên điều đó là
hoàn toàon phù hợp với điều kiện nền kinh tế nước ta đi lên từ một xuất phát điểm tương
đối thấp. Việc xây dựng nền móng và tiến dần lên sử dụng các công cụ gián tiếp cũng
đựoc chú trọng và đạt nhiều thành tích đáng kể. Công cụ lãi suất đã nói trên cũng đã tiếp
cận dần với lãi suất thị trường. Tỷ giá hối đoái cũng linh hoạt và phản ánh đựoc cung cầu
vốn trên thị trường. Công cụ dự trữ bắt buộc đã được áp dụng chặt chẽ hơn và có quyết
định xử phạt rõ ràng. Lãi suất tái chiết khấu cũng đã được nghiên cứu áp dụng sao cho nó
trở thành công cụ chính thay cho lãi suất tín dụng hiện nay. Công cụ nthị trường mở đã
bắt đùa triển khai và thử nghiệm, đồng thời chúng ta cũng tạo ra được một số công cụ để
sử dụng nghiệp vụ thị trường mở.
2.2.Về tỷ giá
Bước vào thời kỳ đổi mới, trong những năm đầu,nhà nước vẫn duy trì chính sách 2
tỷ - Tỷ giá do nhà nước quy định và tỷ giá thị trường tự do. Tỷ giá nhà nước thường thấp
hơn so với thị trường tự do. Với sự duy trì hai tỷ giá cùng với sự khan hiếm ngoại tệ
mạnh, nạn đầu cơ ngoại tệ nâng tỷ giá đã gia tăng. Nhà nước vưa không điều hành được
tỷ giá vừa không dự trữ được ngoại tệ. Việc ấn định tỷ giá gần với tỷ giá thị trường có ý
nghĩa quan trọng và còn mang tính chiến lược về kinh tế.
Do đồng tiền của các các nước châu á có xu hưóng ổn định ở mức giá trị thấp hơn
so với các ngoại tệ mạnh, nên sức cạnh tranh yếu kém của hàng hoá Việt Nam một phần
cũng xuất phát từ chế độ tỷ giá VND. Cùng với các bài học rút ra từ việc điều hành tỷ giá
của các nước khủng hoảng,sự ra đời của luật ngân hàng,vấn đề quản lý ngoại hối đựoc
thực hiện nghiêm minh và đặc biệt là sự cã thiện trong việc kiềm chế lạm phát thời gian
qua. Thị trường hoá chế độ tỷ giá đã được đặt ra. Quyết định 64/QĐ- NHNN ngày
25/2/1999 qui định:”NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân hàng ngày trên cơ sở tỷ
giá thực tế bình quân hình thành ở thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch
gần nhất”.
Trên thị trường, tỷ giá có tâưng chút ít vào 2 ngày sau khi quyết định 64 được công
bố, tới khoảng 14.150VND/USD ngày 26/2/1999. Nhưng sau dố tỷ giá đã giảm xuống và
ổn định ở mức 13. 950VND/USD. Như vậy, cơ sở pháp lý cho việc điều tiết tỷ giá của
NHNN trên cơ sở thị trường đã được xác lập, góp phần tạo thế ổn định cho sản xuất trong
nước và khuyến khích xuất khẩu. Sự ổn định của tỷ giá sau khi điều chỉnh cơ chế điều
hành tỷ giá phần nào phản ánh sự thành công của hoạt quản lý tiền tệ- ngân hàng.
2.3. Thị trường tín dụng
Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng ngân hàng đã được cải thiên theo
hướng thị trường, nhưng thực tế sự nôn nóng trong việc vực dậy nền kinh tế đã mở rộng
hoạt tín dụng bao cấp đối với hầu hết các khu vực kinh tế.
Với qui chế 324, cơ chế cải thiện từng bước. Tính hiệu quả đã được đề cao trong
các quyết định tín dụng ; thời hạn tín dụng được điều chỉnh theo chu kì sản xuất, kinh
doanh, đối tượng vay tín dụng được mở rộng... Song hoạt động tín dụng thực tế vẫn bế
tắc. Cho đến 31/3/1999, tăng trưởng tín dụng và lãi suất thực tế mà ngân hàng cơ sở cho
vay đã giảm mạnh. Trước thưcj trạng đó, cùng với việc đẩy mạnh thực hiện CNHHĐH_nông nghiệp - nông thôn cấp tín dụng không cần thế chấp đã được mở rộng theo
quyết định 67/QĐ- TTg ngày 31/3/1999 và quyết định 148/QĐ- TTg ngày 7/7/1999 đã cụ
thể hoá vấn đề này với nội dung cụ thể là các hộ nông dân dược vay không cần thế chấp
tới 10 triệu VND. Kết quả khảo sát cho thấy trong 3 tháng 4,5,6 dư nợ cho vay phục vụ
phát triẻn nông nghiệp- nông thôn đã tăng mạnh tăng 7%, NHCT tăng 8% và NHNT tăng
25%.
2.4.Về thị trường tài chính thứ cấp
Quyết định số 140/QĐ- NHNN 14 ngày 19/4/1999 (có hiệu lực sau 15 ngày) về
việc mua bán nợ giửa các tài chính tín dụng cũng là một tư tươngr hoàn toàn mới tri\ong
việc điều hành hoạt động tiền tệ và ngân hàng. Thực chất của qui chế này là tạo môi
trường pháp lý cho việc hình thành thị trường thứ cấp các tài sản của hệ thống tài chính
tín dụng. Mặc dù thời gian hoạt động chưa nhiều để có thể đánh giá được hoạt động mua,
bán nợ giữa các tài chính tín dụng, nhưng có thể khẳng định được sự tồn tại cũng như
những tác động tích cực của cơ chế này.
Thứ nhất, đối với thị trường tài chính sự ra đồi của các thị trường thứ cấp là một
tất yếu và sẽ có tác dụng tích cực đối với thị trường sơ cấp.
Thứ hai, trong điều kiện việc tạo các nguồn vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế
tương đối hạn chế, ma fnhu cầu vốn trung và dài hạn rất lớn, thì việc hình thànhg thị
trường thứ cấp là các tái sản có của hệ thống tài chính tín dụng sẽ xó tác dụng tích cực
trong việc chuyển đổi thời hạn giữa các nguồn vốn ngắn hạn sang các khoản tín dụng
trung- dài hạn.
Bên cạnh đó,việc thiết lập môi trường pháp lý cho thị trường thứ cấp các tài sản có
của hệ thống các trung gian tài chính còn có tác dụng tích cực đối với việc tối đa hoá hiệu
suất sử dụng vốn, qua đó góp phần giảm lãi suất tín dụng và tạo điều kiện cho NHNN
thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng hiệu quả hơn.
2.5. Kiềm chế lạm phát ổn định tương đối sức mua của đồng tiền Việt Nam
Cho đến nay, không ai có thể phủ nhạn được những thành quả trong việc kiềm chế
lạm phát của chính phủ Việt Nam trong thời gian vừa qua mà trong đó chính sách tiền tệ
có một vị rí vô cùng quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát đó.
Trong những năm cuối thập kỷ 80,lạm phát ở Việt Nam ở mức rất cao, còn nền
kinh tế tăng tương đối chậm. Nhưng từ đầu thập niên 90 cho đến nay với việc đổi mới
mạnh mẽ hoạt động nngân hàng và thực hiện thành công chính sách tiền tệ nên lam phát
đã đựoc giảm thấp và kiềm chế. Năm 1994 lạm phát 14.4%, 1995 12,7%, 1996 lạm phát
4,5% 1997 là 3,6%.. Trong khi đó nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định :Năm 1994 là
8,8%, 1995 là 9,5%, 1997 là 9% tháng 6/1998 là 6,64%.
Điều đó cho thấy nứoc ta với điểm xuất phát năm sau cao hơn năm trước, nhịp độ
tăng trưởng chẳng những không lùi mà vẫn tiếp tục tăng khá cao, đồng thời tỷ lệ lạm phát
đựoc kéo xuống. Điều đó khẳng định rằng chính sách tiền tệ của chúng ta là phù hợp và
có hiệu quả.
Ngược lại, với xu nhướng giảm lạm phát là sự gia tăng nhanh chóng của khôíu
lưọng huy đọng tiết kiệm và khôí lượng cho vay so năm 1995 với năm 1991 số dư tiền
gửi tiết kiệm tăng khoảng 3 lần, khối lượng cho vay tăng hơn 4 lần tổng dư nợ đầu tư cho
nền kinh tế tăng hơn 50%. Một dấu hiệu đáng khích lệ không kém là cơ cấu tiền vay, tiền
gửi ngân hàng dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng nguồn dài hạn. Còn có thể kể ra
những đóng góp khác của chính sách tiền tệ trong việctạo lập môi trưòng kinh doanh bình
đẳng, thúc đảy tăng trưởng xuất khẩu, xoá đói giảm nghèo...
Tuy vậy, cần làm rõ cốt lõi của tấ cả các thành tưuđạt được. Diểm mấu chốt năm
trong sự phù hờp của hướng tiếp cận đén chính sách tiền tệ với logic của tiến trình đổi
mới.
Có 3 đặc trung chính thể hiện sự phù hợp đó :
Một là, chính sách tiền tệ quán triệt di theo đưòng lối chuyển sang kinh tế thị
trường mởi cửa.
Hai là, nỗ lực để chính sách tiền tệ thực sự trở thành công cụ điều hành kinh tế vĩ
mô hưu hiệu trong tay nhà nứoc.
Ba là, Sự đồng hướng và phùi hợp của chính sách tiền tệ với tất cả các chiónh sách
kinh tế vĩ mô khác được áp dụng trong quá trình đổi mới.
ở những mức độ khác nhau, cả ba đặc trung này đều chứa đựng trong từng giải
pháp tiền tệ đẫ nói trên. Tổ hợp chống lại đó là lời giải thích đầy đủ hơn cả về thành công
của chính sách tiền tệ của toàn bộ quá trình chuyển đổi nền kinh tế nhìn từ gốc đọ chính
sách tiền tệ. Với cách tiếp cận đó, chính sách tiền tệ đã góp phần to lớn vào việc thực hiện
hai mục tiêu khôi phục ổn định và thúc đảy tăng trưởng kinh tế.
II. Tồn tại và nguyên nhân
Trong quá trình thực nthi chính sách tiền tệ thời gian qua, chúng ta đã đạt được
nhữn thành tựu đáng kể, nhưng mặc dù vậy cũng không tránh khỏi những bộc lộ yếu kém.
Có thể tóm tắt những mặt tồn tại, hạn chế chính sách tiền tệ ở nước ta trong thời gain qua
như sau :
Việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam mới ở thời điểm “sơ
khai”, “xuất phát “. Thông thường NHNN dựa vào những tín hiệu của nền kinh tế để xá
định lượng tiền cung ứng trình chính phủ phê duyệt, bổ sung, điều chỉnh. Vẫn mang nặng
“đối phó “ trứoc mắt mà còn chưa có được tính chiến lựoc lâu dài nên dễ bị động hiệu quả
và độ tin cậy thấp.
Việc thực thi các công cụ chính sách còn nhiều mặt hạn chế :
- Xem thêm -