Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chính sách thuế xăng dầu tại việt nam – lý luận và thực tiễn...

Tài liệu Chính sách thuế xăng dầu tại việt nam – lý luận và thực tiễn

.PDF
57
92
56

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA LUẬT LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT KHÓA 2009 – 2013 LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ – ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM Giảng viên hướng dẫn: ThS. Lê Minh Trung Sinh viên thực hiện: Huỳnh Văn Sáng MSSV: 5095458 Lớp: Luật thương mại 2 – K35 CẦN THƠ, 2013 LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………….. GVHD: ThS. Lê Minh Trung SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................ 1 2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2 3. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 2 4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 2 5. Kết cấu luận văn............................................................................................. 2 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ VÀ CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ ..................................................... 4 1.1. Một số vấn đề chung về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ............ 4 1.1.1. Khái niệm ................................................................................................. 4 1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa ............................................... 4 1.1.1.2. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ................................... 5 1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ................................... 8 1.1.2.1. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ................................ 8 1.1.2.2. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ............................ 9 1.1.2.3. Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ...... 11 1.1.2.4. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ........................... 11 1.1.3. Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại quốc tế ......... 12 1.2. Chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ........ 13 1.2.1. Khái niệm về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ...................................................................................................................... 13 1.2.2. Vai trò của việc chọn luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .............................................................................................................. 13 GVHD: ThS. Lê Minh Trung SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam 1.2.3. Nguồn luật được chọn để áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ...................................................................................................................... 15 1.2.3.1. Điều ước quốc tế ................................................................................ 15 1.2.3.2. Tập quán thương mại quốc tế ............................................................. 17 1.2.3.3.Pháp luật quốc gia .............................................................................. 17 CHƯƠNG 2: CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ................................ 20 2.1. Nguyên tắc chọn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .......................................................................................................................... 20 2.1.1. Trường hợp các bên lựa chọn luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ....................................................................................................... 21 2.1.1.1. Hình thức chọn luật áp dụng .............................................................. 21 2.1.1.2. Phạm vị chọn luật áp dụng ................................................................. 21 2.1.1.3. Thời điểm chọn luật áp dụng và thay đổi luật được lựa chọn ............. 23 2.1.2. Trường hợp các bên không lựa chọn luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ........................................................................................ 24 2.2. Yêu cầu về sự thể hiện của điều khoản chọn luật cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ....................................................................................... 25 2.3. Hạn chế đối với sự tự do lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ....................................................................................... 27 2.3.1. Hợp đồng nội địa .................................................................................... 27 2.3. 2. Luật lựa chọn phải có mối quan hệ thực chất với hợp đồng .................... 29 2.3.3. Thỏa thuận chọn nguyên tắc quốc tế để điều chỉnh hợp đồng .................. 29 2.3.4. Hạn chế quyền chọn luật áp dụng đối với một số hợp đồng nhất định ..... 32 2.3.5. Quy phạm xung đột của Việt Nam xác định hệ thống pháp luật của nước nào sẽ được sử dụng để điều chỉnh quan hệ hợp đồng ....................................... 32 GVHD: ThS. Lê Minh Trung SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam 2.4. Hạn chế sự áp dụng của luật trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được lựa chọn bởi các bên ................................................................ 33 2.4.1. Trong một số trường hợp, các bên chỉ được chọn pháp luật nước ngoài khi pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể .................................................. 33 2.4.2. Chọn pháp luật nước ngoài nhưng việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.................................................................................................................. 34 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN Ở VIỆT NAM ...................................................................................................... 36 3.1. Thực trạng chọn luật áp dụng và những hạn chế trong việc chọn luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam .......... 36 3.1.1. Thực trạng chọn luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở Việt Nam. ...................................................................................................... 36 3.1.2 Những hạn chế trong việc chọn luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở Việt Nam............................................................................ 38 3.2. Những đề xuất hoàn thiện việc chọn luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán quốc tế ở Việt Nam .......................................................................... 41 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 48 GVHD: ThS. Lê Minh Trung SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO), điều này đặt Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội cũng như không ít thách thức. Cơ hội ở đây là Việt Nam có được những điều kiện thuận lợi để xuất cũng như nhập những hàng hóa từ các nước khác từ đó giúp kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta không ngừng được tăng cao, đây là nguồn lợi vô cùng lớn, không những vậy nó còn quảng bá được hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Việc trao đổi mua bán giữa các nước đòi hỏi phải ký kết những hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (viết tắt là HĐMBHHQT) nên việc hiểu và nắm rõ luật áp dụng cho HĐMBHHQT là điều cần thiết vì một khi tranh chấp xảy ra thì luật nào được áp dụng sẽ dẫn đến những quyền và nghĩa vụ tương ứng cho các bên ký kết hợp đồng, điều này là vô cùng quan trọng vì lợi ích của các bên sẽ gắn liền với quyền và nghĩa vụ đó. Trước xu thế phát triển mạnh mẽ của các quan hệ thương mại quốc tế trên phạm vi toàn cầu, pháp luật về hợp đồng thương mại quốc tế là một trong những vấn đề quan trọng được các quốc gia quan tâm, đây được coi là công cụ pháp lý phổ biến để thực hiện các giao dịch trong các quan hệ thương mại quốc tế. Do tính chất đặc thù của hợp đồng quốc tế là loại hợp đồng có liên quan đến hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, nên trong quá trình giao kết và thực hiện đã gây ra không ít những vấn đề pháp lý phức tạp. Đặc biệt, khi phát sinh các tranh chấp về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại quốc tế, các bên trong tranh chấp thường lúng túng, không biết việc giải quyết các tranh chấp đó sẽ ra sao?, hậu quả pháp lý như thế nào do không hiểu biết về hệ thống pháp luật sẽ được đem ra áp dụng để giải quyết tranh chấp?. Nhận thấy tầm quan trọng cũng như sự quan tâm của nhiều người về vấn đề nêu trên, người viết đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam”. GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 1 SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là tiếp cận nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định hiện hành của pháp luật về chọn luật áp dụng cho HĐMBHHQT giữa các bên cũng như thực tiễn thi hành các quy định này, đồng thời có sự so sánh giữa các quy định của luật và thực tiễn thực hiện. Bên cạnh đó người viết cũng so sánh giữa quy định của Việt Nam với các nước về vấn đề được đặt ra. Từ đó sẽ tìm ra những thiếu sót, bất cập trong các quy định của luật về vấn đề liên quan, sau cùng là đề xuất phương hướng hoàn thiện để nhằm góp phần thu hẹp dần sự khác biệt giữa pháp luật quốc gia với pháp luật các nước. 3. Phạm vi nghiên cứu Vì là HĐMBHHQT nên việc xem xét nó thật sự là một vấn đề rất quan trọng và đầy phức tạp. Do đề tài chỉ dừng lại ở “Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong HĐMBHHQT – đề xuất cho Việt Nam” cho nên người viết chỉ tập trung nghiên cứu vây quanh phần kỹ thuật trong chọn luật áp dụng và một số nội dung cơ bản của chọn luật áp dụng. 4. Phương pháp nghiên cứu Vấn đề về chọn luật áp dụng trong HĐMBHHQT rất rộng nên về mặt thực tiễn người viết khó có thể sưu tầm, trải nghiệm thực tế, do đó người viết chỉ lựa chọn sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách vở, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp phân tích luật viết theo Công ước Viên 1980, Công ước Rome 1980, Quy tắc Rome I 2008 và quy định của luật Việt Nam, bên cạnh là một số văn bản, trang web bổ sung cho quá trình nghiên cứu. 5. Kết cấu luận văn Với mục đích và phạm vi nghiên cứu ở trên, đề tài ngoài mục lục, lời mở đầu, tài liệu tham khảo, về kết cấu luận văn được chia thành ba chương: Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ VÀ CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ . Trong chương này người viết sẽ đề cập đến những vấn đề GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 2 SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam chung của HĐMBHHQT, khái niệm, vai trò của chọn luật áp dụng cũng như nguồn luật điều chỉnh trong HĐMBHHQT. Chương 2. CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN. Chương 2 đi chi tiết vào các nguyên tắc chọn luật áp dụng trong HĐMBHHQT, hạn chế trong việc chọn luật trong HĐMBHHQT. Chương 3. THỰC TRẠNG CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN Ở VIỆT NAM. Chương cuối là những thực trạng, hạn chế và đề xuất những hướng hoàn thiện về việc chọn luật áp dụng trong HĐMBHHQT ở Việt Nam. Mặc dù đã cố gắng hết sức trong quá trình nghiên cứu luận văn nhưng do đây là vấn đề còn khá mới mẽ, thời gian nghiên cứu và nguồn tài liệu tham khảo còn hạn chế. Quan trọng hơn hết, do kiến thức của người viết còn hạn hẹp, lại chưa có điều kiện tiếp cận nhiều với thực tiễn do đó có những ý tưởng trong luận văn phần lớn mang tính lý thuyết và có thể không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì vậy, người viết hy vọng sẽ nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và bạn đọc để bài viết này được hoàn thiện tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn! GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 3 SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ VÀ CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ 1.1. Một số vấn đề chung về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa Luật thương mại năm 2005 có một chương quy định về mua bán hàng hóa (Chương II) nhưng không xác định cụ thể, trực tiếp về khái niệm và phạm vi nội hàm của hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo khoản 2 và khoản 8 Điều 3 Luật thương mại 2005: “Hàng hóa bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai”. “Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận”. Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hóa. Trước tiên, hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của một hợp đồng, là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán hàng hóa1. Mặc dù Luật thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa, nhưng trên cơ sở Điều 428 Bộ luật dân sự 2005 quy định về hợp đồng mua bán tài sản và khoản 8 Điều 3 Luật thương mại 2005, chúng ta có thể vận dụng để rút ra khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa như sau: Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên, 1 Theo Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005 GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 4 SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền cho bên bán. Như vậy, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản trong pháp luật dân sự (hiểu theo nghĩa rộng). 1.1.1.2. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Hoạt động thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể khác nhau vượt quá biên giới lãnh thổ của một quốc gia, hoạt động thương mại quốc tế chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu. Công cụ pháp lý được sử dụng cho hoạt động này chính là hợp đồng. Hiện nay có rất nhiều tên gọi khác nhau cho loại hợp đồng này: Hợp đồng mua bán trong tư pháp, hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa, hợp đồng mua bán quốc tế, hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài,…Tuy có nhiều cách gọi khác nhau nhưng tất cả đều có chung một cách nhìn đó là hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất quốc tế. Mặc dù có chung cách nhìn nhận về hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất quốc tế, nhưng cách hiểu của các nước lại khác nhau. Theo tinh thần Điều 1 của Công ước Lahaye 1964 về mua bán quốc tế động sản hữu hình thì một hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là HĐMBHHQT khi các bên chủ thể có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng hóa trong hợp đồng được dịch chuyển qua biên giới và hợp đồng được xác lập ở các nước khác nhau. Theo khoản 1 Điều 1 của Công ước Viên 1980 về HĐMBHHQT, yếu tố nước ngoài của hợp đồng là yếu tố chủ thể của hợp đồng. Chủ thể của hợp đồng là các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau. Cả hai công ước đều không đề cập đến yếu tố quốc tịch mà có chung quan điểm thống nhất tiêu chuẩn xác định yếu tố nước ngoài của HĐMBHHQT là các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau. Tiêu chuẩn này có lợi cho các bên khi tham gia ký kết hợp đồng có thể xác định được trụ sở thương mại một cách dễ dàng. GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 5 SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam Theo pháp luật của Cộng hòa nhân dân Trung hoa về hoạt động kinh tế đối ngoại thì “hợp đồng ngoại thương là tất cả các hoạt động mà trong đó có một bên là công dân nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài và nội dung của chúng là những hoạt động kinh doanh gắn liền với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa”. Theo quan điểm trên, yếu tố quốc tế trong HĐMBHHQT được thể hiện khi chủ thể tham gia HĐMBHHQT phải có quốc tịch khác nhau và hàng hóa là đối tượng phải được dịch chuyển qua biên giới. Theo cách nhìn nhận của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì dấu hiệu quốc tế là bên mua và bên bán phải có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau. Quốc tịch của các bên không phải là yếu tố để phân biệt cho dù người mua và người bán có quốc tịch khác nhau nhưng việc mua bán được thực hiện trên cùng một lãnh thổ quốc gia cũng không được xem là HĐMBHHQT. Ở Pháp, người ta căn cứ vào hai tiêu chuẩn để xác định tính quốc tế của hợp đồng. Đó là tiêu chuẩn pháp lý và tiêu chuẩn kinh tế. Theo tiêu chuẩn pháp lý, HĐMBHHQT nó bị chi phối bởi tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch, nơi cư trú, nơi thực hiện nghĩa vụ …; còn theo tiêu chuẩn kinh tế thì HĐMBHHQT là hợp đồng tao ra sự di chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước. Luật thương mại năm 2005 của Việt Nam cũng không quy định về khái niệm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hoặc yếu tố quốc tế, nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hóa mà chỉ có định nghĩa về mua bán hàng hoá quốc tế tại Điều 27 Luật thương mại 2005 như sau: “1. Mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu. 2. Mua bán hàng hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”. Từ đó có thể suy luận rằng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam là văn bản thỏa thuận của các cá nhân, tổ chức trong việc xuất khẩu, nhập GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 6 SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu hàng hóa. Hai hay nhiều bên tham gia giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế - một loại giao dịch dân sự2 hoặc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - một loại hợp đồng dân sự3 theo pháp luật Việt Nam có thể là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài có nơi cư trú hoặc trụ sở ở Việt Nam hoặc nước ngoài. Nghĩa là, theo quy định của Luật thương mại 2005, hoạt động mua bán hàng hóa được coi là mua bán hàng hóa quốc tế không phụ thuộc vào nơi cư trú, trụ sở hay quốc tịch của các bên là Việt Nam hay nước ngoài. Luật thương mại 2005 lấy tiêu chí vận chuyển hàng hóa qua biên giới để xác định một quan hệ mua bán hàng hóa là mua bán hàng hóa quốc tế. Mặt khác, Điều 758 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Như vậy, khái niệm “mua bán hàng hóa quốc tế” với tư cách là hoạt động thương mại hoặc quan hệ thương mại theo khoản 1 Điều 27 Luật thương mại 2005 có phạm vi hẹp hơn so với “mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài” xuất phát từ khái niệm “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” theo Điều 758 Bộ luật dân sự 2005. Căn cứ “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” tại Điều 758 Bộ luật dân sự 2005, chúng ta có thể xác định các dấu hiệu của một quan hệ mua bán hàng hóa là “có yếu tố nước ngoài” như sau: - Ít nhất một trong các bên tham gia mua bán hàng hóa là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; 2 Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 121 Bộ luật Dân sự 2005). 3 Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 388 Bộ luật dân sự 2005). GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 7 SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam - Các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ mua bán hàng hóa theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài. - Hàng hóa - đối tượng mua bán ở nước ngoài. Trong khi đó, “mua bán hàng hóa quốc tế” theo Luật thương mại 2005 chỉ căn cứ vào tiêu chí duy nhất là hàng hóa được vận chuyển qua biên giới. Về nguyên tắc, Bộ luật dân sự với tư cách là đạo luật “gốc” sẽ có hiệu lực áp dụng đối với các hoạt động thương mại chưa được điều chỉnh bởi Luật Thương mại. Theo khoản 3 Điều 4 Luật thương mại 2005: “Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự”. 1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế Hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước và HĐMBHHQT có một số điểm tương đồng như: bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán còn bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và chuyển quyền sở hữu (Điều 428 Bộ luật dân sự 2005; khoản 8 Điều 3 Luật thương mại 2005). Trong khoa học pháp lý có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, song theo người viết HĐMBHHQT khác với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước ở tính quốc tế của nó (tính quốc tế của hợp đồng đã được phân tích ở phần khái niệm). Chính tính quốc tế của hợp đồng đã làm cho HĐMBHHQT có những đặc điểm quan trọng. 1.1.2.1. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Trên thực tế thì pháp luật thương mại quốc tế không có sự điều chỉnh đặc biệt nào đối với chủ thể của HĐMBHHQT. Điều này được giải thích bởi chủ thể của hoạt động này (pháp nhân hay cá nhân – thương nhân) có được quyền ký kết hợp đồng hay không thì phải phù hợp với pháp luật quốc gia áp dụng đối với các chủ thể đó. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, HĐMBHHQT được coi là hợp pháp khi chủ thể của GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 8 SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam hợp đồng hợp pháp, tức là có năng lực pháp luật và người ký kết có năng lực hành vi và thẩm quyền ký kết hợp đồng4. Đối với chủ thể bên nước ngoài, tư cách pháp lý của họ được xác định theo pháp luật của nước mà chủ thể đó mang quốc tịch (khoản 1 Điều 761, khoản 1 Điều 762, khoản 1 Điều 763 Bộ luật dân sự 2005), còn trong trường hợp chủ thể nước ngoài xác lập, thực hiện HĐMBHHQT tại Việt Nam (khoản 2 Điều 762, khoản 2 Điều 765 Bộ luật dân sự 2005) thì xác định theo pháp luật Việt Nam. Đối với chủ thể phía Việt Nam, tư cách pháp lý của họ được xác định dựa theo Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Khi tham gia vào các HĐMBHHQT, chủ thể của hợp đồng thường là các thương nhân. Đối tượng cũng được xem là một trong những đặc điểm quan trọng của HĐMBHHQT. 1.1.2.2. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Đối tượng của HĐMBHHQT là các hàng hóa được phép mua bán. Thông thường, pháp luật các nước trên thế giới đều xác định những đối tượng nào được coi là hàng hóa. Hàng hóa theo quan điểm của Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ là tất cả các vật, bao gồm cả những hàng hóa đặc biệt mà có thể chuyển dịch vào thời điểm xác định đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, các chứng khoán đầu tư và các vật đang trong quá trình kiện tụng. Hàng hóa cũng bao gồm con chưa sinh ra của động vật, mùa màng đang phát triển và những vật khác hình thành trong tương lai5. Công ước Viên 1980 không đưa ra một khái niệm trực tiếp về hàng hóa. Nhưng tại Điều 2 Công ước có quy định: Công ước sẽ không áp dụng trong các trường hợp mua bán đấu giá, hàng hóa dùng cho cá nhân, mua chứng khoán, tàu thủy, máy bay,… Vậy ta có thể nói rằng, việc mua bán hàng hóa ngoài những hàng hóa mà Điều 2 Công ước Viên 1980 quy định thì đó chính là đối tượng của HĐMBHHQT. Giáo trình luật hợp đồng thương mại quốc tế - Khoa kinh tế - Trường Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Nxb.Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2005, tr.11. 5 Nguyễn Vũ Hoàng: Về các tiêu chí xác định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11 (187)/2003, tr.25. 4 GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 9 SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam Ở Việt Nam, khái niệm hàng hóa được quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật thương mại 2005. Theo đó, hàng hóa là tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất. Như vậy, pháp luật các nước nói chung có những quan điểm khác nhau về hàng hóa. Sự khác nhau này dẫn đến hệ quả là cùng một thực thể nhưng theo pháp luật nước này thì được phép mua bán, còn theo pháp luật nước khác thì có thể bị cấm mua bán. Đối với các HĐMBHHQT thông thường hàng hóa được mua bán sẽ được dịch chuyển qua lại biên giới hải quan một hoặc nhiều quốc gia khác nhau, dễ thấy nhất là các hợp đồng xuất nhập khẩu. Cho nên, những hàng hóa này không những chỉ đơn thuần là được phép mua bán mà phải còn được phép xuất khẩu theo quy định của pháp luật các quốc gia hữu quan. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hàng hóa không cần hoặc không thể dịch chuyển qua lại biên giới. Điều đó được khẳng định qua ví dụ, một hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết giữa một bên công dân Việt Nam định cư tại Việt Nam và một bên công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, và hàng hóa mà các bên hướng đến đang tồn tại ở Việt Nam. Khi đó, dù hàng hóa có được chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hay không, thì hợp đồng đó vẫn được xem là HĐMBHHQT do đã thỏa mãn điều kiện chủ thể của hợp đồng là các bên của hợp đồng cư trú tại các quốc gia khác nhau. Hơn nữa, nếu hàng hóa đó là vật gắn liền với đất thì rõ ràng hàng hóa đó cũng không thể vận chuyển được. Như vậy, có thể khẳng định rằng, hàng hóa là đối tượng của HĐMBHHQT có thể hoặc không thể được di chuyển qua lại biên giới. Hàng hóa có hợp pháp hay không cũng rất quan trọng, nếu hàng hóa đó là hàng hóa bị pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế cấm thì xem như là đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được. GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 10 SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam 1.1.2.3. Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế Đối với các hợp đồng mua bán trong nước, đồng tiền thanh toán thường là nội tệ. Trong HĐMBHHQT, các bên có thể thỏa thuận chọn đồng tiền thanh toán là đồng tiền của nước người mua, nước người bán hoặc của một nước thứ ba nào đó. Do đó, đồng tiền thanh toán trong HĐMBHHQT thường là ngoại tệ đối với ít nhất một bên hoặc cả hai bên của hợp đồng. Ví dụ, một doanh nghiệp Việt Nam bán một lô hàng thủy sản đông lạnh cho một doanh nghiệp Mỹ. Các bên chọn đồng tiền thanh toán là đồng đô la Mỹ. Đồng đô la Mỹ là ngoại tệ đối với doanh nghiệp Việt Nam. Trong trường hợp nếu hai bên của hợp đồng thỏa thuận là thanh toán bằng đồng EURO thì lúc này đồng EURO là ngoại tệ đối với cả hai bên Việt Nam và Mỹ. Nếu các bên có thỏa thuận động tiền thanh toán là của nước thứ ba thì nên sử dụng đồng USD hoặc đồng EURO để thanh toán vì tương đối ổn định và thường được sử dụng rộng rải hơn các loại tiền tệ khác. 1.1.2.4. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Một hợp đồng có hiệu lực khi nó được các bên ký kết theo hình thức do luật định. Pháp luật của nhiều nước cho phép các bên được tự do trong việc lựa chọn hình thức của hợp đồng ngoại trừ một số trường hợp nhất định pháp luật bắt buộc phải tuân theo một hình thức nhất định. Theo quy định của khoản 4 Điều 81 Luật thương mại Việt Nam năm 1997, thì HĐMBHHQT phải được ký kết bằng văn bản. Luật thương mại năm 2005 cũng quy định hợp đồng phải được ký kết bằng văn bản hoặc những hình thức khác tương đương (khoản 2 Điều 27). Tuy nhiên có thể nói rằng hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và HĐMBHHQT nói riêng, trong mọi trường hợp nên được ký kết bằng văn bản. Theo Điều 11 Công ước Viên 1980 quy định rằng, HĐMBHHQT không nhất thiết phải được ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức hợp đồng. Sự tồn tại của hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách, trong đó có cả lời khai của người làm chứng. Với quy định tại Điều 11 như vậy GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 11 SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam ta thấy thuận lợi cho các bên giao kết hợp đồng. Nhưng nó chỉ thật sự thuận lợi đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển, đối với những quốc gia có tốc độ kinh tế chậm phát triển, thì khả năng quản lý chưa cao, nên việc quy định quá thoáng như vậy đôi khi sẽ gây tác dụng ngược lại. Chẳng hạn, các quốc gia này cho rằng quốc gia mình chỉ có khả năng quản lý, thực hiện các hợp đồng bằng văn bản, như vậy sẽ hạn chế sự tham gia của các quốc gia vào Công ước. Và nó sẽ đi ngược lại với mong muốn của Ủy ban thương mại quốc tế và những nhà soạn thảo là tạo ra một luật chung thống nhất áp dụng cho tất cả HĐMBHHQT với sự tham gia của càng nhiều quốc gia thì hiệu quả càng cao. Công ước Viên 1980 không dừng lại ở đây mà lại quy định thêm ở Điều 96 của Công ước, nếu luật một quốc gia thành viên nào quy định hợp đồng phải được ký kết dưới hình thức văn bản mới có giá trị thì yêu cầu phải được thể hiện dưới hình thức văn bản phải được tôn trọng (kể cả trong trường hợp chỉ cần một trong các bên có trụ sở thương mại tại quốc gia có luật quy định hợp đồng phải được thể hiện ngoài hình thức văn bản). Có quá nhiều sự khác biệt trong quan điểm của các nước về đối tượng, về chủ thể và hình thức của HĐMBHHQT. Vì vậy, vấn đề chọn luật điều chỉnh hợp đồng cần phải được đặt ra. 1.1.3. Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại quốc tế Ngày nay, hoạt động xuất nhập khẩu đã trở thành một lĩnh vực mũi nhọn trong hoạt động kinh tế đối ngoại của mọi quốc gia. Trao đổi hàng hóa quốc tế trở thành một hoạt động sống còn của tất cả các nước bởi vì không một quốc gia nào trên thế giới tồn tại độc lập mà không có mối quan hệ với các quốc gia bên ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Tất cả các hoạt động mua bán hàng hóa với bên ngoài đều phải thông qua hợp đồng. Vì thế HĐMBHHQT đã trở thành hình thức luật gián tiếp quản lý hoạt động thương mại quốc tế. Thông qua việc ký kết và thực hiện HĐMBHHQT, các chủ trương, đường lối, chính sách ngoại thương của Nhà nước được thực hiện. Do đó, HĐMBHHQT trở thành công cụ góp phần quan trọng vào việc cũng cố, mở rộng và phát triển quan hệ GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 12 SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam kinh tế giữa các quốc gia với nhau. Mặt khác, nó là chiếc cầu nối trong quan hệ cung cầu giữa bản thân một quốc gia với quan hệ cung cầu ở quốc gia khác, thông qua đó góp phần đẩy mạnh và phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên cũng như tiềm năng về lao động ở mỗi nước. Về mặt pháp lý, có thể nói HĐMBHHQT là công cụ pháp lý duy nhất và có hiệu quả để các bên bảo vệ lợi ích của mình trong điều kiện nguồn luật điều chỉnh HĐMBHHQT phức tạp và đa dạng, nếu không thông qua hợp đồng để quy định chi tiết, chặt chẽ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Mặt khác, giá trị được tạo ra từ HĐMBHHQT là rất lớn, nên chỉ cần một sơ suất nhỏ đôi khi dẫn đến những thiệt hại không lường6. 1.2. Chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 1.2.1. Khái niệm về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Chọn luật áp dụng trong HĐMBHHQT là sự lựa chọn luật để áp dụng bởi các bên tham gia hợp đồng có thể là: Điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia, tập quán quốc tế,.... Sự lựa chọn này là hoàn toàn do các bên quyết định trên cơ sở thỏa thuận nhưng trong một phạm vi nhất định. Việc chọn luật áp dụng đảm bảo cho các bên biết mà thực hiện đúng và để khi có tranh chấp xảy ra có căn cứ để bảo vệ quyền và lợi ích của họ. 1.2.2. Vai trò của việc chọn luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Về nguyên tắc, các vấn đề lý luận chung của hợp đồng quốc tế phù hợp với lý luận về hợp đồng trong pháp luật quốc gia. Trong hệ thống pháp luật của nhiều nước, nguyên tắc tự do ý chí, tự do thỏa thuận là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong pháp luật về hợp đồng. Pháp luật nhiều nước cũng thừa nhận hợp đồng là “Luật giữa các bên” do vậy lời lẽ và các từ ngữ trong hợp đồng luôn tiềm ẩn sức mạnh ràng buộc trách nhiệm của các bên và nhằm “bảo vệ mong muốn giữa các bên”. Tuy nhiên, nguyên tắc tự do ý chí trong hợp đồng cũng có giới hạn của nó, và pháp luật về hợp Diệp Ngọc Dũng, Cao Nhất Linh: Tập bài giảng Tư pháp quốc tế, Khoa Luật trường Đại học Cần Thơ, 2002, tr.95. 6 GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 13 SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam đồng của mỗi quốc gia sẽ vạch ra giới hạn đó. Do vậy, khi giao kết các hợp đồng quốc tế, các bên cũng cần biết giới hạn sự tự do thỏa thuận của mình như thế nào và cần căn cứ vào cơ sở pháp lý nào để xác định. Trên thực tế mặc dù các bên có quyền tự do giao kết hợp đồng cũng luôn nằm trong khuôn khổ cho phép của pháp luật. Không có hợp đồng nào nằm ngoài một một hệ thống pháp luật nhất định cả, nói cách khác “hợp đồng luôn chịu sự điều chỉnh của một hệ thống pháp nhất định”, và không tồn tại khái niệm “hợp đồng không luật”7. Vì lý do đó, trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng các bên cần quan tâm hợp đồng giữa họ sẽ được chi phối, hoặc được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật nước nào?. Mặt khác, không có hợp đồng nào là hoàn hảo cả, vì sự thỏa thuận của các bên không phải lúc nào cũng lường trước mọi tình huống có thể phát sinh trong tương lai, do vậy nếu hợp đồng không quy định một vấn đề nào đó thì khi tranh chấp phát sinh, để giải quyết cần căn cứ vào hệ thống luật áp dụng cho hợp đồng đó. Như vậy, mối quan hệ giữa pháp luật và hợp đồng là gì? Sự cần thiết của việc chọn luật áp dụng đối với hợp đồng vì thế được đặt ra với các bên ngay từ khi đàm phán thương lượng xây dựng hợp đồng và với các cơ quan tài phán khi có tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực hợp đồng quốc tế. Việc lựa chọn luật áp dụng đối với các hợp đồng quốc tế có ý nghĩa quan trọng vì những lý do sau: Thứ nhất, đối với các bên tham gia giao kết hợp đồng: luật áp dụng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm các quyền lợi chính đáng của họ, vì họ thường lựa chọn hệ thống pháp luật gần gũi nhất với họ và họ hiểu rõ nhất về sự lựa chọn đó, còn đối với các cơ quan tài phán thì luật áp dụng đối với hợp đồng còn là cơ sở pháp lý để xem xét giá trị pháp lý của hợp đồng và giải quyết tranh chấp, vì nếu chỉ căn cứ vào hợp đồng thì trong nhiều trường hợp, hợp đồng không quy định hết mọi vấn đề có thể phát sinh trong quá trình thực hiện. Xem Bùi Thị Thu: Một số vấn đề về chọn luật áp dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế theo công ước Rome 19/6/1980 về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11 (211), 2005, tr.71. 7 GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 14 SVTH: Huỳnh Văn Sáng LVTN: Lý luận và thực tiễn về chọn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - đề xuất cho Việt Nam Thứ hai, việc chọn luật áp dụng đối với hợp đồng còn nhằm đảm bảo sự ổn định, tính thống nhất cho việc thực hiện các hợp đồng quốc tế, tránh sự thiếu hiểu biết lẫn nhau, gây bất đồng tranh chấp. Đặc biệt, có thể coi luật áp dụng cho hợp đồng là một hành lang pháp lý an toàn, đảm bảo khả năng dự liệu trước mọi tình huống có thể phát sinh trong tương lai, tránh rủi ro, thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra. Như vậy, việc chọn luật áp dụng đối với các hợp đồng quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng vì chỉ căn cứ vào luật áp dụng của hợp đồng đó mới xác định được liệu hợp đồng có giá trị pháp lý hay không. 1.2.3. Nguồn luật được chọn để áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế HĐMBHHQT là một hình thức pháp lý của quan hệ thương mại quốc tế. Vì vậy, việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh loại hợp đồng này tương đối phức tạp. HĐMBHHQT có thể chịu sự điều chỉnh của các nguồn luật khác nhau như các điều ước về mua bán hàng hóa quốc tế, các tập quán quốc tế về thương mại, pháp luật của các quốc gia… tùy từng trường hợp cụ thể. 1.2.3.1. Điều ước quốc tế Điều ước quốc tế là một hình thức chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế. Đó là cam kết của các quốc gia đối với nhau trong các lĩnh vực nhất định. Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế định nghĩa: “Điều ước quốc tế là tất cả các văn bản được ký kết giữa các quốc gia và do Luật quốc tế điều chỉnh”. Khoản 1 Điều 2 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005 của Việt Nam đã định nghĩa: “ Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc chủ thể khác của pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác”. Như vậy, có thể định nghĩa điều ước quốc tế về thương mại là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa hai hoặc nhiều quốc gia ký kết phù hợp với những nguyên tắc cơ GVHD: ThS. Lê Minh Trung Trang 15 SVTH: Huỳnh Văn Sáng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan