Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ thực tiễn bệnh viện hữu nghị...

Tài liệu Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ thực tiễn bệnh viện hữu nghị việt đức

.PDF
81
414
55

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG CHÍNH SÁCH THU HÚT NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TỪ THỰC TIỄN BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC Chuyên ngành: Chính sách công Mã số : 60 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS VĂN TẤT THU HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực.Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Thúy Hằng MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH 6 SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.2. Nội dung chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao 12 1.3 Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về thu hút 31 6 nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay Chương 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THU HÚT 37 NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC 2.1. Thực trạng về nguồn nhân lực tại Bệnh viện HN Việt Đức 37 2.2. Thực trạng thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất 42 lượng cao tại Bệnh viện HN Việt Đức 2.3. Đánh giá chung về chính sách thu hút nguồn nhân lực chất 53 lượng cao (ưu điểm, hạn chế, bất cập, nguyên nhân của các hạn chế bất cập và giải pháp) tại Bệnh viện HN Việt Đức Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN 57 THIỆN CHÍNH SÁCH THU HÚT NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Phương hướng hoàn thiện chính sách thu hút nguồn nhân 57 lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay 3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách thu hút nguồn nhân lực 58 chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay 3.3. Đề cao trách nhiệm của các chủ thể chính sách 68 3.4. Kiến nghị, đề xuất 69 KẾT LUẬN 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO 76 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Ngay từ khi thành lập, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc thu hút và trọng dụng nhân tài. Hồ Chí Minh đã xác định tìm người tài để xây dựng đất nước và Người chính là tấm gương sáng cho việc tìm người tài và trọng dụng nhân tài. Trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, chủ trương, đường lối, hướng đi của mọi quốc gia trong đó có Việt Nam là phát triển kinh tế - xã hội. Để làm được việc đó cần phải huy động mọi nguồn lực cần thiết cả trong nước và nước ngoài bao gồm nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, nguồn lực công nghệ, nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên với các ưu thế về điều kiện địa lý, thể chế chính trị... Và trong tất cả các nguồn lực, nguồn lực con người là nguồn lực cơ bản và chủ yếu cho sự phát triển, có tính chất quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia trong đó có Việt Nam đều đề cao đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao và có hàng loạt chiến lược để cạnh tranh, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Từ nhận thức đầy đủ vai trò quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Không phải ngẫu nhiên Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI xác định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” là một trong ba đột phá chiến lược quyết định sự thành công của chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 - 2020. Triển khai cụ thể hóa chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, Nhà nước đã ban hành chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao thời gian qua trong cả nước nói 1 chung, trong ngành Y tế nói riêng bên cạnh những ưu điểm, kết quả đạt được đáng ghi nhận còn bộc lộ các hạn chế, bất cập. Nguyên nhân của các hạn chế, bất cập đó một mặt do khâu tổ chức thực hiện chính sách chưa tốt, mặt khác do bản thân chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao còn hạn chế, bất cập. Các hạn chế, bất cập đó ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu chính sách cần phải nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện. Với những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ thực tiễn Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua phát triển nhân lực, thu hút nhân lực, nhân lực chất lượng cao nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà quản lý, các nhà khoa học tại các Viện, Trung tâm, Bộ, Ngành trong cả nước nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau tiêu biểu như một số công trình, bài viết như: - Nguyễn Văn Khánh (2010): Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã phân tích khá sâu sắc nguồn lực trí tuệ Việt Nam dưới nhiều góc độ, đánh giá thực trạng, chỉ rõ hạn chế, đề xuất một số giải pháp xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước trong thời kỳ mới. - Chu Văn Cấp (2012): Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần phát triển bền vững Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, (9/839), tr 54 - 58 đã trực tiếp bàn về các vấn đề lý luận, thực tiễn cơ bản của việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần phát triển bền vững, đồng thời đưa ra những kiến nghị và giải pháp. - Nguyễn Duy Tuấn, Dương Thùy Linh (2014): Một số kinh nghiệm về thu hút nguồn nhân lực trong khu vực công. Bài viết đưa ra cái nhìn thực tế về 2 việc thu hút nhân lực trong khu vực công ở Việt Nam và kinh nghiệm của thế giới trong lĩnh vực này. - Văn Tất Thu: Chính sách sử dụng, trọng dụng nhân tài, trí thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân và kháng chiến kiến quốc - Tạp chí Quản lý nhà nước, số tháng 8/2015. - Văn Tất Thu: Quan điểm về nghệ thuật trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng chính quyền cách mạng và kháng chiến kiến quốc Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 5/2010. - Văn Tất Thu: Vấn đề chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 6/2016. - Văn Tất Thu: Giải pháp chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay - Tạp chí quản lý Nhà nước số 746/7/2016. - Trần Văn Ngợi: Thu hút và trọng dụng người có tài năng trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam” - Luận án tiến sỹ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia năm 2015. Tóm lại, các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn này cho thấy một cái nhìn khá đầy đủ và toàn diện cả về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao qua các thời kỳ. Nhiều công trình nghiên cứu khẳng định nguồn nhân lực chất lượng cao có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển của quốc gia, là động lực phát triển kinh tế - xã hội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam để có cơ sở khoa học phân tích, đánh giá chính sách, thực trạng thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao tại Bệnh viện HN Việt Đức trong những năm qua và đề xuất các giải pháp góp 3 phần hoàn thiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu a/ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam. b/ Khảo sát đánh giá chính sách và thực trạng thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ thực tiễn Bệnh viện HN Việt Đức, chỉ rõ ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của các hạn chế, bất cập. c/ Đề xuất, định hướng và các giải pháp hoàn thiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu những vấn đề về lý luận của chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, chủ yếu tập trung nghiên cứu làm rõ việc thực hiện chính sách thu hút nhân lực chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao từ thực tiễn Bệnh viện HN Việt Đức. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Là đội ngũ công chức, viên chức của Bệnh viện HN Việt Đức năm 2015 - 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài vận dụng cách tiếp cận những lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sử dụng các phương pháp nghiên cứu xã hội học, thống kê và vận dụng triệt để phương pháp nghiên cứu của chính sách công. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về chính sách công nói chung, chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng. Các kết luận, 4 kiến nghị, đề xuất rút ra từ việc nghiên cứu đề tài luận văn giúp bổ sung hoàn thiện chính sách thu hút nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn đề xuất các giải pháp cụ thể có thể để quy hoạch, thu hút, tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng và đánh giá sử dụng, trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao của bệnh viện HN Việt Đức trong những năm tới. Luận văn cũng là tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy về chính sách công nói chung, chính sách thu hút, phát triển nguồn nhân lực nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao Chương 2: Thực trạng chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THU HÚT NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Chính sách; Chính sách công 1.1.1.1. Chính sách “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…” Từ điển Bách khoa - tr 475. 1.1.1.2. Chính sách công “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp công cụ thực hiện nhằm giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định”, Tạp chí Lý luận chính trị số 2/2014 1.1.2. Nhân lực; Nguồn nhân lực 1.1.2.1. Nhân lực Nhân lực là sức lực nằm trong mỗi con người và làm cho con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động - con người có sức lao động (Giáo trình kinh tế nguồn nhân lực trường ĐH Kinh tế). 1.1.2.2. Nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là lực lượng lao động đã được đào tạo để tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện ở tri thức, kỹ năng và chất lượng lao động, thể lực và sự trưởng thành về tư tưởng chính trị, đạo 6 đức, lối sống. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đưa ra các khái niệm nguồn nhân lực theo các khía cạnh khác nhau. Theo Liên hiệp quốc “Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng”. Theo Tổ chức lao động quốc tế “Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động”. Theo GS.TS Phạm Minh Hạc “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung) bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Theo tác giả Nguyễn Đăng Thành “Nguồn nhân lực là một khái niệm tổng hợp bao gồm các yếu tố số lượng, chất lượng và cơ cấu phát triển người lao động nói chung cả ở hiện tại cũng như trong tương lai tiềm năng của mỗi tổ chức, mỗi địa phương, mỗi quốc gia, khu vực và thế giới”. Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa phương, một quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã hội của con người thuộc các nhóm đó, nhờ tính thống nhất mà nguồn lực con người biến thành nguồn vốn con người đáp ứng yêu cầu phát triển. Nguồn nhân lực theo cách tiếp cận mới có nội hàm rộng bao gồm các yếu tố cấu thành về số lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tính năng động xã hội, sức sáng tạo, truyền thống lịch sử và văn hóa. Việc quản lý và sử dụng nguồn lực con người khó khăn phức tạp hơn nhiều so với các nguồn lực khác bởi con người là một thực thể sinh vật - xã hội, rất 7 nhạy cảm với các tác động qua lại của mọi mối quan hệ tự nhiên, kinh tế, xã hội diễn ra trong môi trường sống của họ. Khái niệm “Nguồn nhân lực” được hiểu như khái niệm “nguồn lực con người”. Khi được sử dụng như một công cụ điều hành, thực thi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có tham gia lao động hay còn được gọi là nguồn lao động. Bộ phận của nguồn lao động gồm toàn bộ những người từ độ tuổi lao động trở lên có khả năng và nhu cầu lao động được gọi là lực lượng lao động. Như vậy, dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau sẽ có những khái niệm không giống nhau về nguồn nhân lực nhưng những khái niệm này về cơ bản đều thống nhất: nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữ vai trò quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Con người với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ bản và nguồn lực vô tận của sự phát triển không thể chỉ được xem xét đơn thuần ở góc độ số lượng hay chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng, không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với những tiềm năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Vậy, có thể định nghĩa: “Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con người với tổng hòa các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức - tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội”.Với tư cách là tiềm năng lao động của mỗi vùng, miền hay quốc gia thì nguồn nhân lực là tài nguyên cơ bản nhất. 8 1.1.3. Nguồn nhân lực chất lượng cao; Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao 1.1.3.1. Nguồn nhân lực chất lượng cao Theo cách hiểu mang tính định tính, nguồn nhân lực chất lượng cao được xem là một bộ phận của lực lượng lao động, có khả năng đáp ứng những yêu cầu phức tạp của công việc tử đó tạo ra năng suất và hiệu quả cao trong công việc, có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trường và phát triển của cộng đồng cũng như toàn xã hội. Nếu tiếp cận theotính định lượng thì nguồn nhân lực chất lượng cao được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Nguồn nhân lực chất lượng cao là những người lao động đã qua đào tạo, có bằng cấp và trình độ chuyên môn kỹ thuật. Tuy nhiên, khái niệm “lao động qua đào tạo” khá phức tạp vì hiện nay có rất nhiều hình thức đào tạo khác nhau.Học nghề ngắn hạn hay học cao đẳng, đại học đều có thể gom vào khái niệm “lao động qua đào tạo”.Như vậy, nếu coi nguồn nhân lực chất lượng cao là lao động qua đào tạo thì sẽ có một sự phân hóa khá lớn về trình độ nguồn nhân lực này. Cách hiểu định lượng hẹp hơn, coi nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực có trình độ đại học trở lên, nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý và hoạch định chính sách, nguồn nhân lực khoa học công nghệ, đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng, các nhà khoa học… Còn có một cách hiểu hẹp hơn nữa chỉ xem những người có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ là nguồn nhân lực chất lượng cao. Như vậy, có thể thấy chưa có sự thống nhất về khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao và cả hai cách hiểu định tính và định lượng đều có những nhược điểm nhất định.Cách hiểu định tính gây khó khăn cho việc xác định nguồn nhân lực chất lượng cao về mặt thống kê, quản lý và xây dựng chính sách đặc thù riêng đối với họ.Hơn nữa,cách hiểu định lượng sẽ loại những nghệ nhân, những người có khả năng đặc biệt, làm được những việc ít người làm được nhưng lại không qua trường lớp đào tạo. Mặt khác, không phải 9 người lao động nào đã qua đào tạo đều có khả năng đáp ứng được các yêu cầu của công việc tương ứng với trình độ được đào tạo, do vậy rất khó có thể xem những người này là nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực chất lượng cao là một khái niệm để chỉ một con người, một lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định. Tiếp cận khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao phải xuất phát trực tiếp từ thực tiễn đất nước, địa phương, lĩnh vực trong những giai đoạn cụ thể.Theo đó, nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận đặc biệt, là kết tinh những gì tinh túy nhất của nguồn nhân lực.Đó là nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng nhu cầu cao của thực tiễn. Họ được đặc trưng bởi trình độ học vấn và chuyên môn cao có khả năng nhận thức tiếp thu nhanh chóng những kiến thức mới, có năng lực sáng tạo, biết vận dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào thực tiễn. Họ có phẩm chất công dân tốt, có đạo đức nghề nghiệp và đem lại năng suất chất lượng hiệu quả lao động cao hơn hẳn so với nguồn lao động phổ thông.Nguồn nhân lực chất lượng cao là một khái niệm mang tính lịch sử. Mỗi giai đoạn khác nhau thì yêu cầu về “chất lượng cao” của bộ phận này đặt ra có sự khác nhau, song dù có sự khác nhau thế nào chăng nữa thì bộ phận này bao giờ cũng “chất lượng cao” hơn, toàn diện hơn bộ phận còn lại của nguồn nhân lực, có vai trò làm nòng cốt và khả năng dẫn dắt sự phát triển của nguồn nhân lực nói chung phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương, lĩnh vực trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Đối với nước ta hiện nay, nguồn nhân lực chất lượng cao được Đảng xác định rõ trong Đại hội XI đó là bộ phận chất lượng cao của nguồn nhân lực, bao gồm những người không chỉ có tài năng, chuyên môn giỏi theo lĩnh vực hoạt động và chuyên môn của mình mà còn có đầy đủ đạo đức của người 10 cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, thật sự “vừa hồng, vừa chuyên” như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo. Đó là những người “giỏi”, “đầu đàn” trên tất cả các mặt, các lĩnh vực hoạt động, nòng cốt trong nguồn nhân lực quốc gia. Từ các phân tích trên có thể định nghĩa: Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm chỉ lực lượng lao động tinh túy, có trình độ, năng lực, kinh nghiệm, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp cao bao gồm những công nhân, nông dân, thợ thủ công lành nghề, các kỹ sư, bác sỹ, thầy giáo, tri thức, thương gia, các nhà hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội xuất sắc, đội ngũ cán bộ, lãnh đạo quản lý cao cấp, đội ngũ cán bộ công chức tham mưu hoạch định chính sách ở tầm chiến lược… Họ là những người lao động có đóng góp to lớn và tích cực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước./ 1.1.3.2. Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao Trước khi hiểu chính sách thu hút nguồn nhân lực thì khái niệm “thu hút nguồn nhân lực” cũng phải được hiểu rõ. “Thu hút có nghĩa là lôi cuối, làm dồn mọi sự chú ý vào”.Thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ là một khâu của quy trình quản lý nguồn nhân lực. Nó phải là tổng thể các cơ chế, chính sách tạo sức hấp dẫn nhằm kêu gọi, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt (cả điểu kiện vật chất và tinh thần) để người có năng lực, trình độ cao và phẩm chất tốt vào làm việc tại một tổ chức. Thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao luôn kết hợp chặt chẽ với việc bồi dưỡng, thăng tiến, đãi ngộ… và như vậy có thể hiểu “Thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là tạo sức hấp dẫn và sự lôi cuốn thông qua tổng thể các cơ chế, chính sách về quản lý, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của một tổ chức, địa phương hoặc quốc gia nhằm tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt cả vật chất và tinh thần để những người có năng lực vượt trội, trình độ cao và phẩm chất đạo đức tốt vào làm việc cho mình” 11 Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là một loại chính sách cụ thể của chính sách công. Dựa trên những vấn đề cơ bản về chính sách công, có thể hiểu khái niệm như sau: “Chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là tổng thể các quan điểm, nguyên tắc và biện pháp của Nhà nước nhằm tổ chức khai thác, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc trong các tổ chức, cơ quan, địa phương nhằm đạt được mục tiêu quản lý của tổ chức, cơ quan, địa phương đó”. Hiểu một cách bao quát, đầy đủ, chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là thái độ, quan điểm, là các quyết sách, quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước về thu hút nguồn nhân lực có chất lượng caovới mục tiêu, giải pháp công cụ cụ thể nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao có cơ cấu, số lượng, chất lượng hợp lý, có đủ trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế. 1.2. Nội dung chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao 1.2.1. Vấn đề chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao Thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành vấn đề quan trọng, cấp bách đặt ra hiện nay và phải cần giải quyết bằng chính sách của Nhà nước được luận giải bởi các lý do sau: Thứ nhất, nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng tinh túy, quan trọng cấu thành nguồn nhân lực Nhà nước, nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Đây là lực lượng lao động có trình độ năng lực, kinh nghiệm, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp cao có đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Họ là những người làm việc cho Nhà nước, có quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý và sử dụng họ, Nhà nước có bổn phận và nghĩa vụ pháp lý đối với họ, cụ thể là Nhà nước phải có chính sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển, sử dụng và trọng dụng họ. 12 Thứ hai, do vai trò quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế - xã hội và mở cửa hội nhập quốc tế. Hiệu lực hiệu quả của hoạt động bộ máy Nhà nước nói chung, của hệ thống chính trị nói riêng xét cho cùng được quyết định bởi nguồn nhân lực có năng lực, phẩm chất, hiệu quả công tác của nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Chính nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng tham mưu cho Đảng và Chính phủ trong hoạch định chiến lược, kế hoạch, chủ trương, chính sách, bước đi, giải pháp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đồng thời chính họ là lực lượng lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nội dung, nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Không một lĩnh vực, một nội dung, nhiệm vụ nào của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế -xã hội và mở cửa hội nhập quốc tế lại không cần đến nguồn lực con người nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Thứ ba, để có được nguồn nhân lực có chất lượng cao, có đủ trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng và phát triển đất nước Nhà nước phải đặc biệt quan tâm đến đầu tư đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đồng thời cần phải có thái độ, quan điểm đúng về thu hút, bồi dưỡng, sử dụng, trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Mỗi giai đoạn cách mạng, mỗi giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước cần phải có nguồn nhân lực cao tương thích đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn đó. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải có thái độ, quan điểm, cách ứng xử đối với việc thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng, sử dụng và trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với mỗi giai đoạn. Thứ tư, thời gian qua chúng ta đã thực hiện được một số giải pháp chính sách nhằm thu hút nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng 13 cao tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Hiện tượng “chảy máu chất xám” vẫn diễn ra chưa được khắc phục.Một trong các nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó là chính sách thu hút và trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đủ mạnh và hợp lý, còn nhiều vấn đề chưa đáp ứng được yêu cầu chính đáng của nguồn nhân lực chất lượng cao. Và như vậy, không có cách nào khác là phải đổi mới, hoàn thiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao và việc nghiên cứu hoàn thiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết đặt ra hiện nay. Thứ năm, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập với thế giới thì nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ đặt ra là vô cùng cần thiết.Tại Ðại hội XI của Ðảng, xuất phát từ yêu cầu thực hiện mục tiêu tổng quát là “đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, Ðảng ta đã xác định ba khâu đột phá chiến lược: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng đồng bộ và phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao được xác định là “yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”. Đây là khâu đột phá quan trọng nhằm tập trung nâng cao sức mạnh nội sinh: tri thức - trí tuệ của dân tộc Việt Nam để thích ứng và đột phá phát triển trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Như vậy, có thể nói phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao là khâu đột phá, có vai trò chi phối việc thực hiện các khâu khác bởi chính nguồn nhân lực chất lượng cao tạo ra và thực thi thể chế, chính sách, xây dựng bộ máy và kết cấu hạ tầng. Thực hiện tốt khâu đột phá phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ làm tăng tiềm lực và sức mạnh quốc gia. Để có nguồn nhân lực chất 14 lượng cao cần phải có chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao đúng và đủ mạnh. Thứ sáu, chúng ta đang sống trong một thời đại khoa học công nghệ phát triển rất nhanh và mạnh.Chính từ sự phát triển đó tạo ra một làn sóng công nghiệp hóa lần thứ ba và hình thành nền kinh tế tri thức. Toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, các liên kết kinh tế xuất hiện ngày càng ảnh hưởng nhiều, thúc đẩy sự phân công lao động ngày càng sâu sắc và hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu, cạnh trạnh kinh tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ quyết liệt và mỗi quốc gia phải dành được ưu thế trong cuộc cạnh tranh đó. Ngoài ra tình trạng khan khiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên không tái tạo được đòi hỏi con người phải tìm kiếm các dạng nguồn tài nguyên khác nhằm đảm bảo phát triển bền vừng. Từ đó có thể thấy vai trò ngày càng lớn của nguồn lực con người đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành lợi thế cạnh trạnh, năng động trong quá trình phát triển và là nhân tố làm chuyển dịch lợi thế so sánh giữa các quốc gia. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần đi đôi với thu hút, trọng dụng, đãi ngộđể giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng và cấp bách đặt ra hiện nay nhất là khi sự cạnh tranh giữa các quốc gia, giữa khu vực công và khu vực tư để có được nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng quyết liệt. Thứ bảy, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao chỉ có thể giải quyết thành công bằng chính sách của Nhà nước bởi đây là nhiệm vụ quan trọng cần thiết của Nhà nước. Nhà nước muốn có nguồn nhân lực chất lượng cao, Nhà nước phải đầu tư đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng, phát triển, thu hút, sử dụng đúng, trọng dụng họ và chỉ có Nhà nước mới có đủ các nguồn lực và điều kiện để thực hiện nhiệm vụ có tính quốc gia này. Từ các lý do nêu trên cho thấy tầm quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước và như vậy, vấn 15 đề thu hút nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao là vấn đề quan trọng cần phải giải quyết ở nước ta hiện nay và giải quyết chỉ có thể thành công bằng chính sách đúng, hợp lý của Nhà nước. 1.2.2. Mục tiêu chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao Mục tiêu chính sách công nói chung, chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng là cái đích chủ thể chính sách - Nhà nước hướng tới nhằm đạt được kết quả xác định. Mục tiêu chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là nhằm xây dựng nguồn nhân lực có cơ cấu số lượng, chất lượng hợp lý, có đủ trình độ năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa hội nhập quốc tế. 1.2.3. Giải pháp, công cụ chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao 1.2.3.1. Giải pháp chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao Để chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đạt được mục tiêu đề ra cần phải có các giải pháp chủ yếu sau: Thứ nhất,giải pháp xây dựng quy hoạch, kế hoạch thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Quy hoạch, kế hoạch thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là nội dung, nhiệm vụ quan trọng trong quản trị nguồn nhân lực nhằm thu hút, tuyển chọn được nguồn nhân lực có chất lượng cao có khả năng tiếp thu và vận dụng sáng tạo các thành tựu khoa học kỹ thuật trong nước và thế giới, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc đáp ứng được các nhiệm vụ của của tổ chức. Quy hoạch thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao phải đảm bảo cơ cấu trình độ, tuổi tác, giới tính, sắc tộc, vùng miền, bảo đảm số lượng hợp lý. Đặc biệt trong quy hoạch cần phải chú ý đến đội ngũ lãnh đạo quản lý, cán bộ công chức, chuyên gia hoạch định chính sách ở tầm chiến lược, cán bộ trẻ, cán bộ nữ, người dân tộc. Và điều quan trọng nhất là quy hoạch phải bảo đảm chất lượng sát với thực tế và nhu cầu mở rộng, tránh quy hoạch treo. Đồng 16 thời phải thường xuyên sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy hoạch thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ quan trọng và lâu dài.Để đảm bảo chất lượng, hiệu quả của quy hoạch, kế hoạch cần phải đầu tư công sức, trí tuệ và các nguồn lực mới đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Thứ hai,giải pháp tuyển chọn, tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao theo quy hoạch, kế hoạch thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao.Cần phải có cơ chế, giải pháp, tuyển chọn, tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao theo quy hoạch, kế hoạch thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Hệ thống cơ chế, giải pháp tuyển chọn, tuyển dụng hợp lý, chặt chẽ và khoa học có vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Đó là việc làm thường xuyên của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, các cấp, các ngành để đảm bảo tính kế thừa và phát triển trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, các cấp, các ngành. Việc tuyển chọn, tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao phải căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch thu hút đã đề ra và phải theo nguyên tắc cạnh tranh, dân chủ, công khai, công bằng và khách quan, theo hình thức thi hoặc xét tuyển, thuyên chuyển đặc cách. Cả thi, xét tuyển, đặc cách đều phải theo một quy trình chặt chẽ và nghiêm túc. Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nhân lực là giải pháp quan trọng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao.Chính sách đầu tư cho giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng được lấy làm cốt lõi để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.Để nguồn nhân lực chất lượng cao thu hút được ngày càng phát triển, phát huy được vai trò của họ thì việc đào tạo, bổi dưỡng, phát triển là một nhiệm vụ quan trọng. Tại Điều 47, 48, 49 Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 quy định về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Quy định này là cần thiết để tạo nguồn và nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ công chức nói chung, 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan