VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN QUỐC LIÊM
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TỪ THỰC TIỄN HỌC VIỆN TƢ PHÁP
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐỖ PHÚ HẢI
HÀ NỘI - 2016
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự
quan tâm, hướng dẫn tận tình của Quý thầy, cô đang công tác, giảng dạy tại Học
viện Khoa học xã hội. Từ đó, giúp tôi có điều kiện tiếp cận và cập nhật, bổ sung
thêm kiến thức về khoa học Chính sách công, phục vụ tốt hơn cho công tác chuyên
môn của bản thân.
Đến nay, tôi đã hoàn thành chương trình học và hoàn chỉnh luận văn tốt
nghiệp, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, Khoa Chính sách công và tập thể
giảng viên đang công tác tại Học viện Khoa học xã hội đã giúp đỡ, tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu trong suốt thời gian qua.
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc
nhất đến PGS. TS. Đỗ Phú Hải, người đã dành thời gian và tâm huyết để truyền đạt
cho tôi kinh nghiệm, phương pháp nghiên cứu, tận tình hướng dẫn tôi với tinh thần
trách nhiệm cao trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc và lãnh đạo HVTP đã quan
tâm tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt
nghiệp.
Dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự chia sẻ và những ý kiến
đóng góp quý báu của các thầy, cô và các bạn học viên để luận văn có giá trị thực
tiễn hơn.
Trân trọng cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn “Chính sách phát triển nguồn nhân lực từ
thực tiễn Học viện Tƣ pháp” này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân,
được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và xuất phát từ thực tiễn công tác,
dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Đỗ Phú Hải.
Các số liệu và những kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, chưa
từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào trước khi trình, bảo vệ và công nhận
bởi Hội đồng đánh giá Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Chính sách công.
Một lần nữa tôi xin khẳng định sự trung thực của lời cam kết trên.
Tác giả
Trần Quốc Liêm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC Ở VIỆT NAM ............................................................................................ 11
1.1. Lý luận về chính sách phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam........................ 11
1.2. Chính sách phát triển nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay ............................. 21
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC TỪ THỰC TIỄN HỌC VIỆN TƢ PHÁP – BỘ TƢ PHÁP..................... 24
2.1. Chính sách phát triển nguồn nhân lực hiện hành tại Học viện Tư pháp – Bộ
Tư pháp ................................................................................................................. 24
2.2. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại Học viện Tư pháp
.............................................................................................................................. 40
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC TẠI HỌC VIỆN TƢ PHÁP .......................................... 67
3.1. Quan điểm, mục tiêu định hướng hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân
lực tại Học viện Tư pháp ....................................................................................... 67
3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại Học viện
Tư pháp ................................................................................................................. 70
3.3. Kiến nghị ....................................................................................................... 74
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 79
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BTP
Bộ Tư pháp
CNH
Công nghiệp hóa
HĐH
Hiện đại hóa
HVTP
Học viện Tư pháp
KH&CN
Khoa học và công nghệ
KHXH
Khoa học xã hội
PGS.TS
Phó giáo sư tiến sĩ
PTNNL
Phát triển nguồn nhân lực
NNL
Nguồn nhân lực
XHCN
XHCN
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Môi trường thể chế chính sách phát triển NNL .................................... 18
Bảng 2.1: Nhân lực của HVTP đến năm 2015 ...................................................... 25
Bảng 2.2: Phân tích chủ thể chính sách PTNNL tại Học viện Tư pháp ............... 36
Bảng 2.3: So sánh số lượng cán bộ, viên chức được đào tạo của HVTP từ năm
2004 đến năm 2015 ............................................................................................... 41
Bảng 2.4: Đánh giá về chính sách đào tạo nhân lực tại Học viện Tư pháp ........... 49
Bảng 2.5: Thống kê tình hình cán bộ lãnh đạo quản lí năm 2016 ......................... 52
Biểu 2.6: Đánh giá chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ, các điều kiện việc làm
đối với cán bộ, giảng viên nghiên cứu khoa học ................................................... 58
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt từ khi tiến hành
công cuộc đổi mới toàn diện trong đó có cả việc cải cách tư pháp, Đảng ta đã sớm
định hướng và chỉ đạo đúng đắn về vị trí, vai trò của cán bộ tư pháp đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước và việc cải cách tư pháp, trong đó khẳng định
nguồn nhân lực tư pháp là nhân tố quyết định cho sự đột phá trong cải cách tư pháp
tạo đà cho phát triển kinh tế xã hội. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020, được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta khẳng định trong
văn kiện: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi
thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững”. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII tiếp tục nhấn mạnh việc PTNNL: "phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hoá đầu đàn; đội ngũ doanh nhân và
lao động lành nghề".
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, công cuộc cải cách tư pháp đã
được các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, đạt
được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm đối với công tác tư pháp có nhiều
thay đổi theo hướng tích cực; chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một
bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn
định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị “Xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện
đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. [4, tr.1]
1
Theo Quyết định 2083/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 08/11/2013,
chất lượng và số lượng đào tạo cán bộ tư pháp cụ thể như sau:
"Giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2015
- Nâng cao chất lượng đào tạo Thẩm phán, Kiểm sát viên, thực hiện thí điểm
đào tạo chung nguồn bổ nhiệm chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư. Mở
rộng quy mô đào tạo Luật sư, Chấp hành viên, Công chứng viên và các chức danh
tư pháp khác thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp. Đến năm 2015, tổng quy
mô đào tạo các chức danh tư pháp khoảng 12.600 người (trung bình 4.200
người/năm).
- Tập trung bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và cập nhật
kiến thức mới cho các chức danh tư pháp và cán bộ, công chức thuộc thẩm quyền
quản lý của Bộ Tư pháp, phấn đấu đến năm 2015 đạt quy mô bồi dưỡng khoảng
36.000 lượt người. Từng bước mở rộng hoạt động bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ
làm công tác pháp luật tại các doanh nghiệp với quy mô khoảng 10.000 lượt
người/năm, tập huấn kiến thức pháp luật cho các cơ quan, tổ chức ngoài ngành tư
pháp với quy mô khoảng 3.300 lượt người/năm.
- Xây dựng được đội ngũ giảng viên cơ hữu và đội ngũ giảng viên thỉnh
giảng của HVTP có trình độ chuyên môn, năng lực giảng dạy và năng lực nghiên
cứu khoa học. Đến năm 2015, đội ngũ giảng viên cơ hữu đạt số lượng 65 người,
trong đó giảng viên đã từng là chức danh tư pháp chiếm khoảng 40%; kiện toàn tổ
chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi
dưỡng, nghiên cứu khoa học trong tình hình mới.
- Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại đáp ứng
yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, quản lý, ứng dụng thực
tế và các hoạt động khác.
Giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020
Trên cơ sở kết quả thực hiện các mục tiêu của giai đoạn từ năm 2013 đến
năm 2015, HVTP tiếp tục thực hiện các mục tiêu sau:
2
- Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chuẩn hóa đội ngũ cán bộ
tư pháp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và nhu cầu xã hội; phát
triển mạnh mẽ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, trọng tâm là các chương trình
chuyên sâu theo chuyên ngành và vị trí nghề nghiệp; mở rộng quy mô, phạm vi,
tăng nhanh về số lượng và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; đa dạng hóa các
hình thức đào tạo, bồi dưỡng và hình thức liên kết đào tạo, bồi dưỡng, đáp ứng yêu
cầu xã hội.
- Đào tạo chung nguồn bổ nhiệm chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật
sư trên cơ sở kết quả thí điểm trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2015, tạo sự đột
phá trong việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ Chiến lược cải
cách tư pháp. Tạo chuyển biến mạnh về chất lượng đào tạo Luật sư, Chấp hành
viên, Công chứng viên, Đấu giá viên, Trọng tài viên, Trợ giúp viên pháp lý, Thẩm
tra viên thi hành án dân sự, Thư ký Thi hành án dân sự và các chức danh tư pháp
khác thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp. Đến năm 2020, phấn đấu đạt quy
mô đào tạo các chức danh tư pháp trong 05 năm khoảng 39.750 người (trung bình
7.950 người/năm).
- Mở rộng quy mô bồi dưỡng một số chức danh tư pháp và cán bộ, công chức
thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp, đến năm 2020 đạt số lượng khoảng
120.000 lượt người. Đẩy mạnh hoạt động bồi dưỡng chuyên sâu trong lĩnh vực tư
pháp và pháp luật theo mục tiêu phục vụ hội nhập quốc tế; bồi dưỡng kiến thức cho
đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với quy mô
khoảng 50.000 lượt người; góp phần thực hiện Chiến lược phát triển nguồn nhân
lực ngành tư pháp và nguồn nhân lực Việt Nam đến năm 2020.
- Phát triển đội ngũ giảng viên cơ hữu đủ về số lượng và mạnh về chất lượng.
Đến năm 2020, HVTP có 105 giảng viên, trong đó tỷ lệ giảng viên đã từng là chức
danh tư pháp khoảng 50%.
- Xây dựng HVTPthành trung tâm nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ
đào tạo các chức danh tư pháp gắn với nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện thể chế
3
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước
pháp quyền và hội nhập quốc tế.
- Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại phục vụ công tác
giảng dạy, nghiên cứu khoa học ứng dụng, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng của Học viện". [8, tr.1-3]
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã hoạch định, ban
hành nhiều chính sách nhằm phát huy trí tuệ và khuyến khích đóng góp của nhân
lực tư pháp đối với sự nghiệp cải cách tư pháp của đất nước. Bởi vậy, nguồn nhân
lực tư pháp nước ta đã từng bước được nâng cao cả về số lượng và chất lượng, được
đào tạo một cách bài bản, ngày càng đóng góp thiết thực cho sự nghiệp cải cách tư
pháp nói riêng và sự phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của đất nước nói chung,
đảm bảo an ninh, quốc phòng, cải thiện an sinh xã hội và chất lượng cuộc sống;
pháp luật được hoàn thiện và phát triển.
Cũng như các tổ chức đào tạo và bồi dưỡng khác, HVTPgặp không ít khó
khăn và thách thức trong việc thực hiện chính sách PTNNL nhằm đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp, thực hiện mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước có nền tư pháp
tiến bộ. Thực tế tại HVTPhiện nay đang trong giai đoạn chuyển giao giữa hai thế hệ
lãnh đạo, giảng viên, những nhà nghiên cứu giỏi, đầu ngành, có uy tín đang dần
chuyển giao công tác cho thế hệ những cán bộ lãnh đạo, giảng viên, nhà nghiên cứu
trẻ. Tuy nhiên lực lượng kế cận này vẫn chưa đủ năng lực để tiếp nhận hết công tác
mà thế hệ đi trước chuyển lại bởi những hạn chế về năng lực. Một số cán bộ lãnh
đạo, giảng viên, cán bộ nghiên cứu có trình độ nhưng do các yếu tố khách quan và
chủ quan khác nên đôi lúc còn chưa thật sự chuyên tâm đối với công việc nghiên
cứu. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, phân tích các
yếu tố tác động đến chính sách PTNNL tại HVTP– Bộ Tư pháp là rất cần thiết. Qua
đó, đề xuất các giải pháp đổi mới, hoàn thiện chính sách nhằm tạo động lực cho đội
ngũ cán bộ tư pháp được cống hiến, hoạt động có hiệu quả, tạo bước đột phá trong
công cuộc cải cách tư pháp.
4
Chính vì những lý do như trên, học viên đã lựa chọn nghiên cứu “Chính
sách phát triển nguồn nhân lực từ thực tiễn Học viện Tư pháp” để làm đề tài luận
văn cao học chuyên ngành chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề PTNNL nói chung và chính sách PTNNL tư pháp nói riêng đã được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Có nhiều nghiên
cứu nước ngoài về nguồn nhân lực. Số lượng các nghiên cứu này ở Việt Nam cũng
khá nhiều. Có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu như sau:
Công trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-05 giai đoạn 2001 - 2005
“Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” do Giáo sư, viện sĩ Phạm Minh Hạc làm chủ biên.
PGS.TS. Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS. Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên
2001) với cuốn sách “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Từ bình diện khoa học quản lý, Tác giả Phạm Thành Nghị và Vũ Hoàng
Ngân (2004) trong cuốn sách “Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam: Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn ” lại tập trung phân tích những cơ sở khoa học của quản lý
nguồn nhân lực ở Việt Nam. Những vấn đề gay cấn, chính sách, giải pháp quản lý,
PTNNL ở Việt Nam, đồng thời chỉ ra những kinh nghiệm quản lý, PTNNL của các
nước Đông Á, Đông Nam Á và một số nước phát triển khác rất hữu ích cho các nhà
quản trị nhân sự khác ở Việt Nam.
Ở phạm vi nguồn nhân lực cho sự phát triển bền vững vùng, tác giả Nguyễn
Hồng Quang (2013) qua cuốn sách “ Nguồn nhân lực với phát triền bền vững vùng
Bắc Bộ giai đoạn 2011 - 2020’ đã tập trung phân tích vai trò và tác động của nguồn
nhân lực đối với phát triển bền vững vùng Bắc Bộ giai đoạn 2011 - 2020.
Đặc biệt, trong bài viết "„Chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học và
công nghệ ở Việt Nam hiện nay”. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1, tr21-29,
Hà Nội, 2014, Tiến sĩ Đỗ Phú Hải, Học Viện KHXH đã đề cập đến thực trạng chính
5
sách phát triển nguồn nhân lực KH&CN giai đoạn hiện nay, đồng thời tập trung
phân tích nội dung chính sách (từ cấu trúc chính sách đến mục tiêu, giải pháp chính
sách và công cụ chính sách) thể chế và các bên tham gia chính sách nguồn nhân lực
KH&CN ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Trong các nghiên cứu, tác phẩm, bài viết khoa học trên đây đã đề cập đến
thực trạng phát triển, quản lý nguồn nhân lực Việt Nam trong thời gian vừa qua.
Nhìn chung các quan điểm về PTNNL khá thống nhất theo định hướng của Đảng,
Nhà nước. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào về chính sách PTNNL
tư pháp tại HVTP– Bộ Tư pháp - là đơn vị đào tạo duy nhất hiện nay và cũng là đơn
vị bồi dưỡng lớn nhất nước ta về lĩnh vực tư pháp. Bởi vậy, học viên mạnh dạn xem
đây như là cố gắng khoa học nghiên cứu về “Chính sách phát triển nguồn nhân lực
từ thực tiễn Học viện Tư pháp”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách PTNNL nói
chung và khảo sát, đánh giá chính sách PTNNL tại HVTP– Bộ Tư pháp, luận văn
đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện chính sách PTNNL tại HVTP– Bộ Tư
pháp và ở Việt Nam; đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ tư
pháp hùng hậu cả về số lượng và chất lượng, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ
cao, các lãnh đạo kế cận có triển vọng, có khả năng giải quyết các nhiệm vụ cải
cách tư pháp trọng tâm và tham gia có hiệu quả vào xây dựng pháp luật, hợp tác và
hội nhập quốc tế đến năm 2020 của HVTP– Bộ Tư pháp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và phân tích lý luận, lý thuyết cơ bản về chính sách PTNNL ở
Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện chính sách PTNNL tại HVTP – Bộ
Tư pháp: mục tiêu, giải pháp và công cụ, vai trò của các chủ thể tham gia thực hiện
6
chính sách; các yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện chính sách PTNNL tại
HVTP – Bộ Tư pháp.
- Đề xuất khuyến nghị các giải pháp hoàn thiện chính sách PTNNL tư pháp ở
Việt Nam trong thời gian tới.
Luận văn có nhiệm vụ trả lời 3 câu hỏi nghiên cứu sau:
Câu hỏi nghiên cứu 1: Những vấn đề lý luận về chính sách PTNNL ở Việt
Nam hiện nay là gì?
Câu hỏi nghiên cứu 2: Thực trạng thực hiện chính sách PTNNL tại HVTPBTP– Bộ Tư pháp hiện nay như thế nào? Những kết quả đạt được đã đáp ứng được
mục tiêu chính sách đã đề ra hay chưa?
Câu hỏi nghiên cứu 3: Giải pháp nào đổi mới, hoàn thiện chính sách
PTNNL ở Việt Nam?
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính sách PTNNL và thực hiện chính
sách này tại đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Tư pháp.
Khách thể nghiên cứu của đề tài là đội ngũ cán bộ, viên chức (gồm cả cán bộ
nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu) của HVTP – Bộ Tư pháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: HVTP– Bộ Tư pháp.
- Phạm vi về thời gian: từ năm 2004 đến năm 2015.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận nghiên cứu chính sách qua tiếp cận đa
ngành, liên ngành khoa học xã hội và phương pháp nghiên cứu chính sách công.
Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch
định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các
chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được soi sáng qua thực tiễn của
7
chính sách công giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành chính sách
PTNNL.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng.
- Phương pháp định tính: Phỏng vấn sâu: 10 cán bộ, viên chức đang công tác
tại HVTP– BTP gồm có: cán bộ giảng viên có kinh nghiệm lâu năm; cán bộ giảng
viên trẻ; cán bộ quản lý và cán bộ phục vụ trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng tư
pháp.
- Phương pháp định lượng: Phỏng vấn bằng bảng hỏi: Thực hiện khảo sát
hơn 100 bảng hỏi cán bộ, học viên tại HVTP– BTP: gồm cả nam, nữ, cán bộ giảng
viên, phục vụ giảng dạy đào tạo, cán bộ được đào tạo tại HVTP theo các chức danh.
- Phương pháp xử lý số liệu:
+ Sử dụng một số phương pháp thống kê đơn giản
+Sử dụng chương trình SPSS để xử lý bảng hỏi
Ngoài các phương pháp trên luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu
liên ngành, đa ngành với khoa học chính sách công như: quản trị học, kinh tế học,
xã hội học.
- Phương pháp tổng hợp, thu thập số liệu:
+Số liệu thứ cấp: Các số liệu về nguồn nhân lực tư pháp của Bộ Tư pháp,
TANDTC, VKSNDTC, cơ sở dữ liệu của HVTP– BTP.
+ Các văn bản: Nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước quy định về
vấn đề phát triển nguồn nhân lực tư pháp ở Việt Nam.
+ Số liệu sơ cấp: tự thu thập qua điều tra thực tế tại HVTP– BTP.
5.3. Khung phân tích
8
Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội
của Việt Nam
Giáo dục,
đào tạo,
bồi dưỡng
nâng cao
trình độ
Chức năng
nhiệm vụ của
Học viện Tư
pháp
Chính sách
phát triển nguồn
nhân lực Học viện
Tƣ pháp
Đặc điểm
nguồn nhân lực
của Học viện
Tư pháp
Chế độ
đãi ngộ,
khen
thưởng,
khuyễn
khích
nâng cao
trình độ
Đề xuất
hoàn thiện
các giải
pháp
nhằm
PTNNL
tại
HVTPvà ở
Việt Nam
Tuyển
dụng, bố
trí, luân
chuyển
cán bộ
Chính sách phát triển NNL của Việt Nam
6. Ý nghĩa của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài vận dụng, bổ sung lý thuyết khoa học chính sách công để làm rõ vấn
đề về khoa học và thực tiễn của một chính sách cụ thể: chính sách PTNNL.
9
Đề tài cung cấp những nghiên cứu, tư liệu, khảo sát thực tế tại HVTP–BTP
qua đó góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận của khoa học chính sách
công.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua thực tiễn nghiên cứu chính sách PTNNL tại HVTP–BTP chỉ ra được
những khó khăn, hạn chế trong việc hoạch định và thực thi chính sách, đồng thời
kết quả nghiên cứu giúp cho Lãnh đạo HVTP–BTP, các bộ phận liên quan, các nhà
hoạch định chính sách có cơ sở khoa học và thực tiễn để vận dụng, điều chỉnh chính
sách và tổ chức thực hiện chính sách PTNNL tại HVTP–BTP một cách hiệu quả
hơn.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương, không kể phần mở đầu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo, cụ thể:
Chương 1: Lý luận về chính sách phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng chính sách phát triển nguồn nhân lực từ thực tiễn Học
viện Tư pháp – Bộ Tư pháp.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại
Học viện Tư pháp
10
Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM
1.1. Lý luận về chính sách phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về chính sách phát triển nguồn nhân lực
NNL theo nghĩa rộng được hiểu như nguồn lực con người của một quốc gia,
một vùng lãnh thổ, là một bộ phận của nguông lực có khả năng huy động, tổ chức
quản lý để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội như nguồn lực vật chất,
nguồn lực tài chính.
Nhà nước dùng chính sách để điều hành hoạt động kinh tế - xã hội thì chính
sách được coi là công cụ nền tảng định hướng cho các công cụ khác. Chính sách
công có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển xã hội và quản lý phát triển
xã hội. Chính sách được dùng để định hướng phát triển, là động lực thúc đẩy các
quá trình phát triển trong xã hội; đồng thời phát huy các mặt tích cực, hạn chế các
mặt tiêu cực trong xã hội, nâng cao chất lượng phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội. Ngoài ra, chính sách công còn có vai trò tạo lập sự cân đối hài hòa, bền
vững trong phát triển.
PGS.TS Đỗ Phú Hải - Học viện KHXH đã đưa ra định nghĩa một cách chung
nhất về chính sách công như sau: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định
chính trị có liên quan của nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải
pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn để của xã hội theo mục tiêu đã xác
định của đảng chính trị cầm quyền'' [39, tr.6].
Chính sách công là thể hiện cụ thể của những chủ trương, quan điểm, định
hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; có những
chủ trương, định hướng phát triển chung và những chủ trương định hướng cho từng
ngành và lĩnh vực cụ thể. Chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước. Cơ quan
trong bộ máy nhà nước là chủ thể ban hành chính sách công, thông qua “tập hợp các
quyết định chính trị có liên quan của nhà nước". Các quyết định về chính sách công
là những quyết định chính trị, bao hàm ý chí chính trị và thực tiễn cuộc sống nhằm
11
đáp ứng nhu cầu của người dân. Các quyết định chính trị ở đây được hiểu là các văn
bản quy phạm pháp luật. Văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban
hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật. Ở Việt Nam, hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật gồm 2 loại: văn bản luật (Hiến pháp, Luật, Bộ Luật) và văn bản dưới Luật
(Nghị quyết, Nghị định, Thông tư, Quyết định, Thông tư liên tịch...).
Chính sách công tập trung giải quyết vấn đề xã hội đang đặt ra trong đời
sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định, không chỉ đề ra mục tiêu
và các giải pháp với công cụ hành động thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số
vấn đề có mối quan hệ biện chứng đang đặt ra trong đời sống xã hội, mà còn giải
quyết mỗi quan hệ giữa các bên tham gia chính sách.
- Chính sách PTNNL là chính sách công, là một tập hợp các quyết định có
liên quan của nhà nước về PTNNL nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể, giải pháp và
công cụ chính sách để giải quyết vấn đề về PTNNL theo mục tiêu tổng thể của Đảng
và Nhà nước đã xác định.
Chính sách PTNNL, gồm có các bộ phận hợp thành quan trọng là: những
đường hướng, hành động hay còn gọi là những quan điểm, định hướng, mục tiêu và
biện pháp thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu đảm bảo nguồn lực khoa học cả về số
lượng và chất lượng, thực hiện định hướng phát triển đã xác định. Đây là hạt nhân
xuyên suốt toàn bộ quy trình chính sách từ khởi động, phân tích, soạn thảo ban
hành, thực thi và đánh giá chính sách.
Trên cơ sở tổng hợp những khái niệm nêu trên, có thể hiểu: Nguồn nhân lực
tư pháp là toàn bộ tiềm năng lao động có thể tham gia làm việc trong lĩnh vực tư
pháp mà trực tiếp nhất là những người tham gia vào các hoạt động tư pháp nhằm
đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Phát triển nhân lực tư pháp là tổng thể các hoạt động nhằm xây dựng lực
lượng lao động tư pháp đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN thông qua các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
12
1.1.2. Vấn đề của chính sách phát triển nguồn nhân lực
Vấn đề của chính sách luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội. Đất nước ta
đang bước vào thời kỳ phát triển mới, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, phấn
đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trên quan điểm: “Mở rộng dân
chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và
mục tiêu của sự phát triển”, điều này đã và đang đặt ra những yêu cầu mới của việc
khai thác và phát huy tiềm năng của NNL. Trong đó, điều đáng quan tâm nhất là
thực trạng chính sách phát triển NNL ở nước ta hiện nay vẫn còn có nhiều bất cập,
chính sách có lúc chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Điều đó thể
hiện ở các khía cạnh sau đây:
- Nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng tỷ lệ NNL vẫn còn ít, chưa được quy
hoạch, nâng cấp đào tạo đến nơi, đến chốn. Trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào
tạo trên tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có bằng
cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở lên
được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm khoảng 40%. Cơ cấu đào
tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại học và trên Đại học là 1,
trung học chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là 0,92; trong khi trên thế
giới, tỷ lệ này là 1-4-10 [Nguồn:theo đánh giá và số liệu của Ngân hàng Thế
giới (WB) năm 2010]. Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công
nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn so với
nhiều nước khác.
- Việc phát triển NNL vẫn còn những bất cập khi quy mô đào tạo, cơ cấu
trình độ và cơ cấu ngành nghề chưa cân đối và phù hợp với nhu cầu nhân lực của thị
trường lao động trong và ngoài nước. NNL còn chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng
của các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xạ hội, nhất
là các lĩnh vực về khoa học, công nghệ và các ngành đòi hỏi NNL.
13
- Ngoài ra, vấn đề trong phát triển NNL hiện nay là thiếu thông tin, dự báo
về nhu cầu sử dụng NNL và sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp và các địa
phương trong công tác đào tạo, phát triển NNL. Sự phát triển kinh tế - xã hội ngày
càng cao, trong khi NNL vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Đóng góp
của đội ngũ NNL chưa tương xứng với tiềm năng, trí tuệ sẵn có.
- Mạng lưới các cơ sở đào tạo phát triển NNL tuy đã được quy hoạch nhưng
việc thực hiện quy hoạch còn chậm, chưa đồng bộ. trong đào tạo, thiếu sự liện
thông, liên kết giữa các bậc trình độ của NNL. Mô hình đào tạo và các chuẩn mực
đào tạo NNL ở các cấp, bậc học chưa được xác định rõ ràng và hợp lý.
* Từ những vấn đề nêu trên nguyên nhân của vấn đề chính sách phát triển
NNL là do:
- Xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ về vai trò quyết định của NNL đối với
sự phát triển của xã hội nước ta. Đất nước sẽ không phát triển được, hoặc dẫm chân
tại chỗ, bị tụt hậu và thua thiệt trong cạnh tranh với thế giới, đặc biệt trong điều kiện
toàn cầu hóa và hội nhập như hiện nay, khi chúng ta thua kém về tri thức, khoa học
công nghệ, trình độ quản lý...
- Từ nguyên nhân về nhận thức dẫn đến chúng ta chưa có chủ trương, chính
sách cụ thể và quyết liệt đầu tư thỏa đáng cho đào tạo và phát triển NNL. Nguồn lực
tài chính từ ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực còn hạn chế; chưa huy động
được nhiều các nguồn lực trong xã hội (nhất là các doanh nghiệp) để phát triển nhân
lực. Trên thực tế, nhìn chung sự đầu tư đó chưa đúng mức, còn manh mún, dàn trải,
thiếu trọng tâm, trọng điểm, hiệu suất và hiệu quả chưa cao, còn nhiều lãng phí,
lãng phí sức người, sức của, lãng phí nguồn nhân lực...
- Sự quản lý nhà nước về phát triển NNL còn những bất cập so với yêu cầu.
Chủ trương, đường lối phát triển NNL chưa được thể chế hoá bằng các văn bản quy
phạm pháp luật, cơ chế, chính sách và các kế hoạch phát triển một cách kịp thời và
đồng bộ; việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách chưa kịp
thời, chưa nghiêm túc. Nhiều mục tiêu phát triển NNL chưa tính toán đầy đủ các
điều kiện thực hiện. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội đặc
14
- Xem thêm -