Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở việt nam hiện nay ...

Tài liệu Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở việt nam hiện nay

.PDF
31
291
115

Mô tả:

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay
I MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết Ngày 1/1/2009, tại Việt Nam một loại hình bảo hiểm mới đã bắt đầu có hiệu lực nhằm bảo vệ, hỗ trợ những đối tượng lao động thất nghiệp. Đó là bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Sự ra đời của loại bảo hiểm này thực sự là một bước tiến lớn trong con đường phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nói riêng và nỗ lực đảm bảo an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta nói chung. BHTN ở Việt Nam ra đời gắn với giai đoạn đầy khó khăn, tồi tệ của nền kinh tế Việt Nam cũng như kinh tế thế giới; giai đoạn mà chúng ta phải chứng kiến nhiều doanh nghiệp phá sản, hàng nghìn lao động rơi vào cảnh thất nghiệp. Sau hơn bốn năm thực hiện, BHTN đã mang lại những thành công nhất định, cũng như tác động tích cực về mặt kinh tế xã hội. Tuy nhiên, chính sách đó đang còn những bất cập và gặp khó khăn trong quá trình thực hiện. Điều đó cho thấy việc nghiên cứu, hoàn thiện chính sách BHTN ở Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Chính vì vậy đề tài: “Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay” được nghiên cứu với mong muốn góp phần giải quyết yêu cầu thực tế về hoàn thiện chính sách BHTN ở nước ta hiện nay. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu chung Phân tích và làm rõ thêm một số cơ sở lý luận, thực tiễn về thất nghiệp và chính sách BHTN ở Việt Nam. Từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện chính sách BHTN ở Việt Nam trong thời gian tới. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hóa và phân tích làm rõ thêm cơ sở lý luận về thất nghiệp và chính sách BHTN. - Phân tích thực trạng thất nghiệp và tình hình thực thi chính sách BHTN ở Việt Nam. - Ảnh hưởng của chính sách đến lao động, việc làm và các vấn đề xã hội ở Việt Nam 1 - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện chính sách BHTN của Việt Nam hiện nay. 1.3 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính sách BHTN. 1.4 Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập thông tin: thông tin thứ cấp qua tài liệu, sách báo, các báo cáo của Bộ Lao Động Thương Binh Xã Hội. - Phương pháp phân tích: Các thông tin được thu thập, sau đó tổng hợp, phân tích qua các phương pháp: thống kê mô tả, phương pháp so sánh,… II NỘI DUNG 2.1 Các vấn đề liên quan đến thất nghiệp 2.1.1 Khái niệm, nguyên nhân và ảnh hưởng của thất nghiệp 2.1.1.1 Khái niệm thất nghiệp Có rất nhiều quan niệm về thất nghiệp: Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số người trong độ tuổi lao động, muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm với mức lương phổ biến trong thị trường lao động. Còn người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng không có việc làm, không làm kể cả một giờ trong tuần lễ điều tra, đang đi tìm việc làm, có điều kiện là họ làm ngay. Định nghĩa thất nghiệp ở Việt Nam: “Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, có nhu cầu việc làm, đang không có việc làm”. 2.1.1.2 Nguyên nhân thất nghiệp - Chu kỳ sản xuất kinh doanh thay đổi 2 Theo chu kỳ phát triển kinh tế, sau hưng thịnh đến suy thoái, khủng hoảng. Ở thời kỳ hưng thịnh, sản xuất được mở rộng, nguồn nhân lực xã hội được huy động vào sản xuất, nhu cầu về sức lao động tăng nhanh nên thu hút nhiều lao động. Ngược lại, ở thời kỳ suy thoái, sản xuất đình trệ, cầu lao động giảm, không những không tuyển thêm lao động mà còn dư thừa lao động, gây nên tình trạng thất nghiệp. Theo kinh nghiệm của các nhà kinh tế, nếu năng lực sản xuất của xã hội giảm 1% so với khả năng, thất nghiệp sẽ tăng lên 2%. - Sự gia tăng dân số Đây là nguyên nhân ảnh hưởng đến tình trạng thất nghiệp trong dài hạn. Dân số gia tăng hàng năm sẽ bổ sung một lực lượng lao động rất lớn vào nguồn lực lao động của mỗi quốc gia. Dân số càng tăng và tốc độ gia tăng càng nhanh thì lực lượng lao động dư thừa sẽ càng lớn. Thêm vào đó, quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa cũng có tác động tiêu cực đến thị trường lao động làm một bộ phận người lao động bị thất nghiệp. Nguyên nhân này thường xuất hiện phổ biến ở các nước đang phát triển và chậm phát triển, những nước luôn có tỷ lệ gia tăng dân số cao. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam, cũng như ở nhiều nước đang phát triển khác. - Sự thay đổi cơ cấu ngành nghề Ở từng thời kỳ, sự phát triển kinh tế có thể dẫn tới thay đổi cơ cấu kinh tế. Theo đó, cơ cấu của một số ngành nghề thay đổi. Những ngành nghề làm ăn có hiệu quả hoặc cần phải được mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc xuất hiện ngành nghề mới sẽ tạo cơ hội thu hút thêm nhiều lao động. Nhưng lại có những ngành nghề phải thu hẹp sản xuất, phải sa thải người lao động và một bộ phận người lao động bị thất nghiệp. - Sự ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật 3 Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là tự động hóa quá trình sản xuất diễn ra nhanh chóng và ngày càng phổ biến. Các chủ doanh nghiệp, các nhà sản xuất luôn tìm cách mở rộng sản xuất, đổi mới dây chuyền công nghệ, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, quá trình này làm cho số công nhân bị thay thế bởi máy móc ngày càng gia tăng, bổ sung một lượng lớn vào số lao động bị thất nghiệp. - Do các yếu tố ngoài thị trường Sự thay đổi thể chế chính trị hay việc điều chỉnh chính sách vĩ mô của các nước, các giải pháp điều hành kinh tế của Chính phủ cũng có thể làm cho nhu cầu sử dụng lao động có sự thay đổi. Theo đó, làm cho tình trạng thất nghiệp thay đổi. - Nguyên nhân từ người lao động Chính bản thân người lao động cũng tác động không nhỏ tới tình trạng thất nghiệp của mình. Ví dụ, do người lao động không ưa thích công việc đang làm, hay địa điểm làm việc, không bằng lòng với vị trí đang đảm đương hay mức lương hiện có nên họ đi tìm công việc mới đáp ứng yêu cầu đó. - Một số nguyên nhân khác. Một loạt các nguyên nhân khác có thể dẫn đến người lao động bị thất nghiệp như người lao động có kinh nghiệm nhưng bị mất việc vì kỷ luật lao động kém. Những người lao động trẻ tuổi tìm kiếm công việc lần đầu tiên trong đời không thể kiếm ngay được việc làm hoặc người lao động lớn tuổi sau một thời gian rời khỏi thị trường lao động nay muốn quay trở lại lực lượng lao động (như phụ nữ sau khi sinh và chăm sóc con nhỏ). Một nguyên nhân cũng không kém quan trọng đó là người lao động không còn đủ sức khỏe để đảm đương công việc đang làm phải tìm kiếm công việc khác phù hợp hơn. 2.1.1.3 Ảnh hưởng của thất nghiệp 4 Thất nghiệp không những ảnh hưởng trực tiếp tới bản thân người lao động và gia đình họ mà còn tác động mạnh mẽ tới tất cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. - Đối với bản thân người lao động và gia đình: Thất nghiệp có thể gây ra những hậu quả rất trầm trọng. Bởi vì khi bị mất việc làm thường đồng nghĩa với việc mất đi nguồn thu nhập chủ yếu và khi thất nghiệp kéo dài sẽ dẫn đến sự khó khăn, nghèo túng. Hậu quả là họ từng bước bị rơi sâu vào tình trạng dưới mức sống tiêu chuẩn chung của xã hội. Sau đó nếu không có sự trợ giúp nào khác thì phải vay nợ và nếu kéo dài sẽ dẫn đến nợ nần chồng chất. Sự tác động vào thu nhập cho gia đình phụ thuộc vào tiền thất nghiệp của bản thân họ nhận được cũng như thu nhập của những thành viên khác trong gia đình còn việc làm. Nạn thất nghiệp không chỉ là hậu quả về tài chính mà còn là hậu quả về khả năng nghề nghiệp. Khi thất nghiệp kéo dài, hậu quả là họ bị mất đi khả năng nâng cao trình độ nghề nghiệp. Điều đó sẽ đe dọa không chỉ về phía họ, họ sẵn sàng bị thất nghiệp, mà còn ngăn cản việc học nghề hay chuyển vào một nghề khác. - Đối với nền kinh tế: Thất nghiệp chính là sự lãng phí nguồn lực xã hội, là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình đốn, chậm phát triển. Vì khi đó có một bộ phận người lao động trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng vì lý do khách quan không có việc làm thì dĩ nhiên sức sản xuất trong nước và thu nhập quốc dân thấp hơn so với khi mọi người đều có việc làm. Ngoài ra, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp có mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ với nhau, đôi khi tạo thành vòng luẩn quẩn không thoát ra được. Bên cạnh đó, thất nghiệp có thể làm cho xã hội bất ổn. Đến lượt nó làm cho kinh tế bị suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hơn và có khả năng phục hồi chậm. - Đối với chính trị, xã hội: Khi bị thất nghiệp, người lao động luôn ở trong tình trạng hoang mang, lo lắng, căng thẳng và thất vọng. Đặc biệt nếu 5 người lao động là trụ cột, nuôi sống cả gia đình thì áp lực tâm lý càng đè nặng lên người lao động. Từng cá nhân là tế bào của gia đình, mỗi gia đình là tế bào của xã hội. Như vậy thất nghiệp tác động đến cá nhân người lao động có nghĩa là đã tác động đến toàn xã hội. Bởi vì, thất nghiệp sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực của xã hội, đẩy người thất nghiệp đến chỗ bất chấp kỷ cương, vi phạm pháp luật, hủy hoại đạo đức để kiếm kế sinh nhai, kiếm tiền trang trải cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày như trộm cắp, cờ bạc, mại dâm, ma túy… Thất nghiệp làm cho tình hình chính trị trở nên bất ổn, rối loạn nếu không được can thiệp kịp thời. Thất nghiệp gây ra các cuộc biểu tình, đình công, là cơ hội cho các thế lực thù địch tiến hành các hoạt động chống phá nhà nước, chống phá Đảng cầm quyền. Thất nghiệp còn làm cho người lao động giảm lòng tin vào chế độ, giảm lòng tin vào khả năng lãnh đạo của chính phủ cầm quyền. 2.1.2 Thực trạng thất nghiệp của Việt Nam Nhìn chung, tỷ lệ thất nghiệp chung của Việt Nam khá thấp và có xu hướng giảm dần (tỷ lệ thất nghiệp chung dao động trong khoảng trên dưới 2,2%, năm 2012 tỷ lệ này là 1,99%). 6 Bảng: Tình hình thất nghiệp ở ViệtNam (2007-2012) Tiêu thức Tổng số người thất nghiệp (1000 người) Tỷ lệ thất nghiệp (%) 2007 2008 2009 2010 2011 2012 1.030,3 1.080,4 1.287,0 1.330,8 1.382,7 1.321.6 2,52 2,19 2,8 2,88 2,27 1,99 Nguồn:Kết quả điều tra lao động, việc làm hàng năm của Tổng cục Thống kê. Thất nghiệp đã trở thành vấn đề cả xã hội quan tâm. Thất nghiệp có thể dẫn đến những ảnh hưởng khó lường về kinh tế và xã hội. Những ảnh hưởng này rất khó định lượng nhưng tác động tiềm ẩn của chúng có thể thấy rõ qua một loạt các hậu quả có thể xảy ra như sự phản ứng của người lao động đối với những thay đổi về cơ cấu của doanh nghiệp với nỗi lo âu rằng một số người có thể mất việc và như vậy họ sẽ không còn nguồn để sinh sống. Tỷ lệ thất nghiệp lớn có thể sẽ gây áp lực về chính trị và bất ổn về xã hội khi một số lớn người lao động bị mất việc làm và do vậy có thể dẫn đến xu hướng lạm dụng các chế độ BHXH để bù đắp mất mát thu nhập khi chưa có chế độ hỗ trợ đối với người bị thất nghiệp. 2.2 Bảo hiểm thất nghiệp và chính sách bảo hiểm thất nghiệp 2.2.1 Bảo hiểm thất nghiệp BHTN là sự hỗ trợ một phần thu nhập cho người lao động bị mất thu nhập do thất nghiệp và hỗ trợ họ sớm quay trở lại thị trường lao động. Bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động trong thời gian mất việc làm thì mục đích chính của BHTN là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được một việc làm mới thích hợp và ổn định. Nguồn tài chính hỗ trợ cho người thất nghiệp được lấy từ quỹ BHTN. Quỹ BHTN là quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự đóng góp của các bên 7 tham gia BHTN, theo nguyên tắc cộng đồng chia sẻ rủi ro, không vì mục đích lợi nhuận. Quỹ này được dùng để trợ cấp cho người lao động bị thất nghiệp, nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho bản thân và gia đình. 2.2.2 Chính sách BHTN 2.2.2.1 Khái niệm chính sách BHTN Chính sách BHTN là sự tác động của Nhà nước tới các đối tượng tham gia BHTN thông qua các biện pháp, công cụ chính sách nhằm mục tiêu an sinh xã hội, ổn định và phát triển kinh tế. Cần phải hiểu rõ 3 vấn đề của chính sách BHTN: Thứ nhất, chính sách BHTN là một chính sách công. Thứ hai, đối tượng của chính sách là những người lao động tham gia đóng BHTN và chủ sử dụng lao động. Chỉ những người lao động tham gia đóng BHTN bị thất nghiệp mới được hưởng lợi từ chính sách BHTN. Chủ sử dụng lao động được coi là đối tượng của chính sách BHTN khi họ phải tuân thủ những quy định của Nhà nước về nghĩa vụ đóng góp tài chính hỗ trợ cho người lao động trong trường hợp bị thất nghiệp. Thứ ba, các biện pháp, công cụ chính sách được Nhà nước sử dụng bao gồm các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của những người tham gia BHTN, chủ sử dụng lao động, quy định về nguồn tài chính, chế độ BHTN,... Chính sách BHTN không chỉ bao hàm chế độ BHTN (những quy định về mức đối tượng, điều kiện được hưởng trợ cấp thất nghiệp, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ tư vấn tìm việc làm, đào tạo nghề và bảo hiểm y tế) mà còn có cả các quy định về đối tượng tham gia, nguồn hình thành quỹ và các tổ chức chịu trách nhiệm triển khai thực hiện chính sách BHTN, … 2.2.2.2 Vai trò, nguyên tắc của chính sách BHTN 8 a, Vai trò của chính sách BHTN - Chính sách BHTN có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người lao động khi họ bị mất việc làm Chính sách BHTN hỗ trợ một phần thu nhập cho người lao động bị thất nghiệp. Chính sách BHTN hỗ trợ họ tìm kiếm việc làm và cơ hội có việc làm thông qua việc tư vấn, giới thiệu việc làm, đào tạo nghề để giúp họ có điều kiện sớm quay trở lại thị trường lao động. Ngoài ra, người lao động bị thất nghiệp còn được hưởng nhiều quyền lợi khác từ chính sách BHTN như được đóng bảo hiểm y tế trong thời gian bị thất nghiệp. - Chính sách BHTN của Chính phủ hỗ trợ người sử dụng lao động trong việc giải quyết vấn đề thất nghiệp của người lao động Chính sách BHTN của Chính phủ hỗ trợ tài chính cho người lao động bị thất nghiệp, điều đó gián tiếp hỗ trợ cho người sử dụng lao động, giảm áp lực cho họ trong vấn đề hỗ trợ người lao động bị thất nghiệp. Mặt khác, chính sách cung cấp thông tin, tư vấn đào tạo cho người lao động bị thất nghiệp tìm việc làm, giúp cho người sử dụng lao động, những người có nhu cầu lao động và những người thất nghiệp, đang có nhu cầu tìm việc làm, có nhiều cơ hội gặp nhau hơn. - Chính sách BHTN góp phần vào sự ổn định, phát triển kinh tế xã hội của đất nước Thất nghiệp sẽ dẫn đến tình trạng mất thu nhập đột ngột và khi thất nghiệp kéo dài sẽ dẫn đến sự khó khăn, nghèo túng, người thất nghiệp sống dưới mức tiêu chuẩn chung của xã hội. Điều đó có thể phát sinh các tệ nạn xã hội, gây bất ổn cho xã hội. Chính sách BHTN ra đời nhằm góp phần giảm thiểu tình trang thất nghiệp, giúp người thất nghiệp và gia đình họ có cuộc sống ổn 9 định trong thời gian bị thất nghiệp, góp phần ổn định cho xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. b, Một số nguyên tắc cơ bản của chính sách BHTN Chính sách BHTN của các nước được xây dựng và thực thi dựa trên những nguyên tắc sau: Thứ nhất, chính sách BHTN dựa trên nguyên tắc cộng đồng chia sẻ rủi ro. BHTN dựa trên sự tương trợ giữa các cá nhân trong xã hội, theo đó số đông bù số ít. Việc tham gia vào BHTN phải là bắt buộc đối với người lao động và người sử dụng lao động. Những chủ thể này đều có trách nhiệm tham gia BHTN và đây được coi là một nội dung trong hợp đồng lao động. Nhà nước chỉ thực hiện chức năng quản lý và hỗ trợ khi cần thiết. Thứ hai, chế độ BHTN được xây dựng trên cơ sở quan hệ hữu cơ giữa đóng góp và thụ hưởng. Trong cơ chế thị trường, đối với các hoạt động kinh doanh, Nhà nước chỉ thực hiện chức năng quản lý nên khi xây dựng chính sách BHTN cần có tỷ lệ tương xứng giữa đóng góp với thụ hưởng của người lao động, hạn chế tới mức thấp nhất sự bù đắp của Nhà nước đối với quỹ BHTN. Tỷ lệ hưởng và thời gian hưởng trợ cấp BHTN hàng tháng được quy định trên nguyên tắc đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và được cân đối với mức đóng góp BHTN trước đó của người lao động. Thứ ba, Quỹ BHTN được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai và hạch toán độc lập. Do quỹ BHTN được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia là: người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước nên hoạt động của quỹ phải dựa trên nguyên tắc quản lý thống nhất, dân chủ, công khai và hạch toán độc lập. Do vậy, quỹ BHTN là một quỹ tài chính độc lập, tự thu, tự chi. Sau khi thành 10 lập, quỹ này độc lập với ngân sách Nhà nước để chủ động giải quyết vấn đề thất nghiệp. Quỹ này không được sử dụng để giải quyết các vấn đề xã hội khác. Thứ tư, Nhà nước thống nhất quản lý chính sách BHTN. Nhà nước thống nhất quản lý BHTN thể hiện trước hết ở việc Nhà nước trực tiếp ban hành pháp luật về BHTN, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện chế độ này. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ mà Nhà nước xây dựng chương trìnhquốc gia về BHTN, các qui định pháp luật về như thu hẹp hay mở rộng đối tượng, điều kiện hưởng và mức hưởng… Với tư cách là người đại diện và thực hiện các chính sách xã hội, Nhà nước còn có trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHTN, áp dụng các biện pháp để bảo tồn giá trị quỹ và làm cho quỹ tăng trưởng. Ngoài ra, Nhà nước thống nhất tổ chức, quản lý sự nghiệp BHTN cho toàn xã hội nhưng không bao cấp, không lấy ngân sách để chi trả mà chỉ hỗ trợ một phần. Thứ năm, chính sách BHTN đảm bảo nguyên tắc lành mạnh hóa thị trường lao động. Để giải quyết thất nghiệp đòi hỏi phải có một chính sách tổng thể, được thiết kế để kích thích nền kinh tế. Xu hướng chung của các nước hiện nay là, ngoài trợ cấp cho người lao động, khi thất nghiệp, có điều kiện sinh sống, người ta còn thực hiện thêm biện pháp đào tạo lại người lao động để họ có điều kiện dễ tìm việc làm mới. Vì vậy, BHTN được liên kết chặt chẽ với các biện pháp thị trường lao động tích cực như tạo ra chỗ làm việc mới, bảo vệ chỗ làm việc, nâng cao năng lực cho người lao động, tìm việc làm cho người thất nghiệp. Các biện pháp này luôn gắn liền với chính sách và chương trình việc làm quốc gia. BHTNthường được thống nhất với chương trình việc làm quốc gia. Đây như một biện pháp, chính sách hỗ trợ lao động nhằm đẩy lùi thất nghiệp, nhanh chóng đưa người thất nghiệp trở lại làm việc. 2.2.2.3 Nội dung của chính sách BHTN a, Mục tiêu của chính sách BHTN 11 - An sinh xã hội: Thất nghiệp là vấn đề nan giải đối với bất kỳ nước nào. Thất nghiệp gia tăng làm cho các tệ nạn xã hội phát triển, người lao động lâm vào tình cảnh túng quẫn và trở nên nghèo đói. Để giải quyết vần đề thất nghiệp và đảm bảo an sinh xã hội thì cần phải có nhiều chính sách, trong đó có chính sách BHTN. Chính sách BHTN không chỉ đảm bảo cho người lao động mất việc làm, có một khoản thu nhập, giúp họ và gia đình họ ổn định cuộc sống trong một thời gian nhất định mà mục tiêu chính của chính sách BHTN là giúp người lao động sớm quay trở lại thị trường lao động tìm việc làm và trong quá trình tìm việc làm người lao động còn được chăm sóc y tế miễn phí. - Ổn định và phát triển kinh tế: Thất nghiệp gia tăng làm cho tình hình chính trị - xã hội bất ổn, lãng phí nguồn lực xã hội và là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình đốn, chậm phát triển. Chính sách BHTN giúp người thất nghiệp sớm quay trở lại làm việc, theo đó, nguồn lực lao động của đất nước không bị lãng phí. Việc có nhiều người thất nghiệp tìm được việc làm không chỉ giúp họ tăng thu nhập, ổn định cuộc sống mà còn thúc đẩy kinh tế phát triển. b, Nội dung của chính sách BHTN Ngày 29 tháng 6 năm 2006, Quốc Hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội, trong đó chính sách BHTN sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Để tổ chức triển khai thực hiện chính sách BHTN, ngày 12/12/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 127/2008/NĐ-CP, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về BHTN, được tổ chức triển khai trên phạm vi toàn quốc từ ngày 01/01/2009. Trong đó, đã quy định rõ quyền và trách nhiệm của các bên tham gia BHTN. (1) Đối tượng áp dụng BHTN: 12 Người lao động tham gia BHTN là công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng với người sử dụng lao động Người sử dụng lao động tham gia BHTN là người sử dụng lao động có sử dụng từ 10 lao động trở lên. (2) Chế độ BHTN * Điều kiện hưởng BHTN Người thất nghiệp được hưởng BHTN khi có đủ các điều kiện sau đây: 1. Đã đóng BHTN đủ mười hai tháng trở lên trong thời gian hai mươi bốn tháng trước khi thất nghiệp; 2. Đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội; 3. Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp theo quy định. * Trợ cấp thất nghiệp 1. Trợ cấp thất nghiệp là khoản tiền hằng tháng được trả cho người lao động tham gia BHTN khi bị thất nghiệp có đủ điều kiện hưởng BHTN theo quy định hoặc người đượcủy quyền theo quy định. 2. Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của sáu tháng liền kề trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. 3. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng phụ thuộc vào thời gian làm việc có đóng BHTN của người lao động cụ thể như sau: Bảng1: Chế độ BHTN ở Việt Nam hiện nay TT Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp 1 3 tháng Từ đủ12 tháng đến dưới36 tháng 2 6 tháng Từ đủ 36 tháng đến dưới 72 tháng 13 Thời gianđóngBHTN 3 9 tháng Từ đủ 72 tháng đến dưới 144 tháng 4 12 tháng Từ đủ144 tháng * Hỗ trợ học nghề 1. Việc tổ chức thực hiện hỗ trợ học nghề cho người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp do cơ quan lao động thực hiện thông qua các cơ sở dạy nghề. 2. Mức hỗ trợ học nghề cho người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệpbằng mức chi phí học nghề ngắn hạn theo quy định của pháp luật về dạy nghề. 3. Thời gian được hỗ trợ học nghề không quá 6 tháng tính từ ngày người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng. * Hỗ trợ tìm việc làm 1. Việc tổ chức thực hiện hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí cho người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp do cơ quan lao động thực hiện thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm. 2. Thời gian được hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm tính từ ngày người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng và không quá tổng thời gian mà người lao động đó được hưởng trợ cấp. * Chế độ bảo hiểm y tế 1. Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp được hưởng chế độ bảo hiểm y tế. 2. Tổ chức BHXH đóng bảo hiểm y tế cho người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp. (3) Quỹ BHTN 14 * Nguồn hình thành: 1. Người lao động đóng bằng 1% tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN. 2. Người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công đóng BHTN của những người lao động thuộc đối tượng tham gia BHTN. 3. Hằng tháng, Nhà nước hỗ trợ từ ngân sách bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công đóngBHTN của những người lao động tham gia BHTN và mỗi năm chuyển một lần. 4. Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư quỹ. 5. Các nguồn thu hợp pháp khác. * Quản lý và sử dụng quỹ: 1. BHXH Việt Nam thực hiện việc thu, chi, quản lý Quỹ BHTN và được mở tài khoản tiền gửi Quỹ BHTN tại hệ thống Kho bạc Nhà nước và hệ thống Ngân hàng thương mại của Nhà nước. Số dư trên tài khoản tiền gửi được hưởng lãi suất tiền gửi theo quy định của Kho bạc Nhà nước và các Ngân hàng thương mại nhà nước. 2. Hằng năm, tổ chức BHXH có trách nhiệm thực hiện việc quyết toán thu, chi QuỹBHTN; chi quản lý theo quy định. 3. Chi trả trợ cấp thất nghiệp hằng tháng cho người lao động được hưởng chế độ BHTN. 4. Chi hỗ trợ học nghề cho người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng. 5. Chi hỗ trợ tìm việc làm cho người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng. 6. Chi đóng bảo hiểm y tế cho người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng. 15 7. Chi phí quản lý BHTN. 8. Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định. 2.2.2.4 Tình hình thực thi chính sách a, Tổ chức triển khai Quản lý Nhà nước về BHTN: - Chính phủ; - Bộ lao độngThương binh và xã hội; - Bộ Tài chính… - UBND các cấp Tổ chức thực hiện chính sách BHTN: Bộ LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH Và XÃ HỘI Cục Việc làm Bảo hiểm thất nghiệp Sở Lao Động các Tỉnh, Thành phố Phòng BHTN thuộc Trung tâm giới thiệu việc làm; Phòng Việc làm; Phòng dạy nghề Thanh tra chuyên ngành về BHTN: Thanh tra Lao động- Thương binh và Xã hội Phòng Lao Động Quận, Huyện (Được Hợp đồng uỷ thác) HĐQLBHXHVN BHXH VIỆT NAM BHXH Các tỉnh, thành phố - Phòng Tiếp nhận quản lý hồ sơ; - Phòng thu; - Phòng Kế hoạch Tài chính; - Phòng chếđộ, chính sách. - Phòng cấp sổ thẻ BHXH cấp quận, huyện Mô hình tổ chức thực hiện BHTN hiện nay b, Kết quả thực hiện chính sách BHTN từ 2009 đến 2012 Ngày 29 tháng 06 năm 2006 Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội, trong đó chính sách BHTN là chính sách mới và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. BHTN là chính sách nhằm hỗ trợ người thất nghiệp để thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất thu nhập do thất nghiệp và quan trọng 16 hơn là hỗ trợ người thất nghiệp được học nghề, được hỗ trợ tìm việc làm để người lao động sớm có việc làm, thu nhập và ổn định cuộc sống. Sau hơn 4 năm triển khai thực hiện được người lao động và người sử dụng lao động tích cực tham gia, được dư luận xã hội đánh giá cao và được các chuyên gia trong nước và quốc tế đánh giá là một trong những chính sách sớm đi vào cuộc sống. Nhìn lại hơn 4 năm thực hiện chính sách BHTN đã đạt được kết quả sau: (1) Việc ban hành các văn bản hướng dẫn về BHTN: Các văn bản được ban hành đầy đủ, kịp thời và đồng bộ đáp ứng việc triển khai thực hiện. Chính phủ đã ban hành Nghị địnhsố 127/2008/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về BHTN; Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 04/2009/TT-BLĐTBXH ngày 22 tháng 01 năm 2009 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP nêu trên; trên cơ sở thực tế khi triển khai thực hiện, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã kịpthời ban hành Thông tư số 34/2009/TT-BLĐTBXH ngày 16 tháng 10 năm 2009 sửa đổi, bổ sung một số điểm Thông tư số 04/2009/TT-BLĐTBXH nêu trên, trong đó quy định nội dung rất quan trọng là chuyển nhiệm vụ thực hiện BHTN từ Phòng Lao động-Thương binh và Xã hội cấp huyện sang Trung tâm Giới thiệu việc làm thuộc Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương. Ngày 25 tháng 10 năm 2010, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 32/2010/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về BHTN (thay thế Thông tư số 04/2010/TT-BLĐTBXH ngày 25 tháng 10 năm 2010 và Thông tư số 34/2009/TT-BLĐTBXH ngày 16 tháng 10 năm 2009 nêu trên) nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho người lao động và khắc phục, giải quyết được các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện BHTN. Ngày 21/11/2012, Chính phủ ban hành Nghị định số 100/2012/NĐ- CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ- CP ngày 12/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về BHTN và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/01/2013 với những quy định về đối tượng tham gia BHTN, hỗ trợ học nghề, trình tự và thủ tục thực hiện BHTN (trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc nếu người lao động chưa có việc làm mà có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp thì người lao động thực hiện đăng ký thất nghiệp với cơ quan lao động); người lao động khi nộp hồ sơ hưởng BHTN phải xuất trình Sổ bảo hiểm xã hội hoặc bản xác nhận của cơ quan Bảo hiểm xã hội về việc đóng BHTN; trong thời hạn 5 ngày (tính theo ngày làm việc), kể từ ngày nhận được quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp của cơ quan lao động, cơ quan Bảo hiểm xã hội thực hiện chi trả tiền trợ cấp thất nghiệp hằng tháng hoặc trợ cấp một lần cho người lao động. Trường hợp,cơ 17 quan Bảo hiểm xã hội không thực hiện việc chi trả theo đúng thời hạn quy định hoặc từ chối yêu cầu chi trả các chế độ BHTN không đúng quy định của pháp luật thì cơ quan Bảo hiểm xã hội phải có văn bản thông báo cho cơ quan lao động và người lao động biết và nêu rõ lý do; quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động về BHTN thông báo với cơ quan lao động khi có biến động lao động làm việc tại đơn vị theo hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Ngày 01 tháng 3 năm 2013, Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 04/2013/TT- BLĐTBXH sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 32/2010/TT-BLĐTBXH ngày 25 tháng 10 năm 2010 của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12 tháng12 năm2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm Xã hội về BHTN và có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 4 năm 2013 (2) Tổ chức triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời: - Để triển khai thực hiện tốt chính sách BHTN, Bộ trưởng Bộ Lao độngThương binh và Xã hội đã ban hành các văn bản hướng dẫn chỉ đạo về việc triển khai thực hiện chính sách BHTN nhằm tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về chính sách BHTN; bảo đảm về biên chế, cơ sở vật chất cho Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương, Trung tâm Giới thiệu việc làm; thành lập Phòng BHTN thuộc Trung tâm Giới thiệu việc làm, thành lập các văn phòng đại diện của Trung tâm Giới thiệu việc làm tại một số quận, huyện để thực hiện nhiệm vụ và về vấn đề tài chính.... - Tổ chức Hội nghị tập huấn triển khai thực hiện chính sách BHTN cho 63 Sở Lao động-Thương binh và Xã hội, Trung tâm Giới thiệu việc làm và một số cơ quan có liên quan cả nước; tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác BHTN - Tổ chức thông tin, tuyên truyền các chế độ, chính sách về BHTN tại các khu công nghiệp, tại các địa phương và trên các phương tiện thông tin đại chúng (tổ chức họp báo, trả lời trực tiếp trên đài phát thanh, truyền hình, chuyên đề trên báo viết); xuất bản tờ rơi và đĩa DVD tuyên truyền về BHTN; xây dựng cuốn Sổ hướng dẫn nghiệp vụ và sách hỏi đáp về BHTN. Đồng thời, triển khai các hoạt động trong khuôn khổ các dự án Quốc tế ; khắc phục những khó khăn vướng mắc còn tồn đọng; xây dựng phần mềm quản lý BHTN; thực hiện chương trình phối hợp giữa Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và Bảo hiểm xã hội Việt Nam...Các hoạt động triển khai nêu trên được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương và có sự phối hợi chặt chẽ giữa các ngành. Các Trung tâm Giới thiệu việc làm đã khẩn trương thành lập Phòng BHTN và thành lập các văn phòng đại diện, chi nhánh và các điểm tiếp nhận đăng ký thất nghiệp và giải quyết các thủ tục hưởng BHTN tại một số quận, huyện hoặc cụm quận, huyện để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người thất nghiệp đến đăng 18 ký thất nghiệp; tuyển dụng và đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ thực hiện nhiệm vụ về BHTN; trang bị cơ sở vật chất để đảm bảo phục vụ cho nhiệm vụ mới được giao về BHTN; thực hiện tốt việc tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hưởng BHTN. Việc giải quyết hưởng BHTN được thực hiện theo quy trình chuẩn từ khâu tiếp nhận hồ sơ, đăng ký thất nghiệp, xem xét và ban hành quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, tư vấn, giới thiệu việc làm, hỗ trợ học nghề cho người thất nghiệp. Trong quá trình thực hiện được thực hiện theo phương châm 3 đúng “đúng đối tượng, đúng chế độ, đúng thời hạn” đã đảm bảo thực hiện quyền lợi một cách tốt nhất cho người thất nghiệp. (3) Số lượng người tham gia BHTN tăng nhanh Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, năm 2009 có 5,9 triệu người tham gia BHTN, tổng số thu là 3.510,7 tỷ đồng; năm 2010 số người tham gia BHTN trên 7,2 triệu người tăng 20,2% so với năm 2009, tổng số thu khoảng 5.400,3 tỷ đồng; năm 2011, cả nước có 7,9 triệu người tham gia BHTN, tăng 10,1% so với năm 2010, chiếm 78,7% so với đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc với số thu là 5.730,3 tỷ đồng. Năm 2012 có trên 8 triệu người tham gia BHTN và cân đối quỹ đã kết dư từ năm2009 đến tháng 5/2012 kết dư là 16.537 tỷ. Theo dự tính với các quy định về mức đóng, mức hưởng hiện hành quỹ BHTN đảm bảo an toàn. (4) Tổ chức thực hiện kịp thời, đúng pháp luật giải quyết hưởng BHTN Các Trung tâm Giới thiệu việc làm đã tổ chức tiếp nhận đầy đủ, kịp thời, đúng quy định đăng ký thất nghiệp đối với 981.741 người (tính đến tháng 11/2012), trong đó năm 2010 là 189.611 người, năm 2011 là 335.901 người (tăng 77,15% so với năm 2010) và tính 11 tháng năm 2012 là 456.299 người (tăng 35,82% so với cả năm 2011). Việc số người đăng ký thất nghiệp năm 2012 tăng là do số người tham gia BHTN trong các năm gần đây ngày càng tăng, số người đã tham gia BHTN đủ điều kiện hưởng BHTN tăng nhanh do đã đủ tháng đóng BHTN, do khó khăn kinh tế buộc nhiều doanh nghiệp phải giảm lao động, một số doanh nghiệp phải di dời do thực hiện quy hoạch đô thị hoặc di dời do ô nhiễm môi trường, ... Đã quyết định để hưởng trợ cấp thất nghiệp đối với 838.874 người, trong đó nữ chiếm 50,35% ; số người được tư vấn, giới thiệu việc làm là 648.370 người, chiếm77,29% số người được hưởng trợ cấp thất nghiệp; số người được hỗ trợ học nghề tăng nhanh, năm 2010 mới có 270 người thất nghiệp có nhu cầu và đề nghị được hỗ trợ, đến năm 2011 lên 1.037 người được hỗ trợ học nghề và 11 tháng năm 2012 đã có4.213 người được hỗ trợ học nghề, bằng 406% cả năm 2011. 19 Một số địa phương có số lượng người đăng ký thất nghiệp và đề nghị hưởng BHTN lớn là thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai và thành phố Hà Nội. Hiện mỗi ngày, Phòng Bảo hiểm thất nghiệp của Trung tâm giới thiệu việc làm Hà Nội tiếp nhận 3.000 - 4.000 người đến đăng ký bảo hiểm thất nghiệp và hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Cùng với số đăng ký tăng, số người được hưởng bảo hiểm thất nghiệp cũng tăng từ 14.723 năm 2011 lên 18.105 người 11 tháng năm 2012 với số tiền hơn 198 tỷ đồng. Theo thống kê, trong 3 năm (2009-2012) thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp, trên địa bàn TP. Hà Nội đã có gần 43.000 người đến đăng ký tham gia bảo hiểm thất nghiệp và hơn 36.000 người được hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Số tiền Trung tâm Giới thiệu việc làm Hà Nội đã chi trả hưởng bảo hiểm thất nghiệp là hơn 295 tỷ đồng. Đặc biệt, không chỉ lao động phổ thông mà những người có chuyên môn, thu nhập cao cũng tìm đến bảo hiểm thất nghiệp nhiều hơn. Cụ thể trong 11 tháng đầu năm 2012, số lao động phổ thông đến đăng ký chiếm 53%, lao động có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 35%. Trong các loại hình DN thì đối tượng đăng ký nhận bảo hiểm thất nghiệp thuộc loại hình DN TNHH chiếm đến 60%, công ty cổ phần chiếm 33% và các loại hình DN khác chiếm 7%. Thống kê của Trung tâm Giới thiệu việc làm TP. HCM cho thấy, 11 tháng đầu năm 2012, tại TP. HCM có khoảng 130.000 người đăng ký bảo hiểm thất nghiệp, tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm 2011, trung bình mỗi tháng trên địa bàn thành phố có khoảng 11.000 người thất nghiệp. Quá trình tổ chức, triển khai thực hiện đã khẳng định đây là chính sách đúng đắn có tác động trực tiếp, thiết thực tới người lao động, người sử dụng lao động, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, được người sử dụng lao động, người lao động đón nhận một cách tích cực, được dư luận xã hội đánh giá là một trong những chính sách sớm đi vào cuộc sống. c, Hạn chế - Về chính sách + Việc xác định đối tượng cụ thể tham gia BHTN cũng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt các đối tượng tham gia BHTN trong các đơn vị sự nghiệp nhà nước. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm 2010 quy định những người là công chức, trong đó có quy định những người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu, một số vị trí công việc của các đơn vị sự nghiệp nhà nước (tùy từng đơn vị sự nghiệp nhà nước trực thuộc cấp 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng