BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
TRÌ THỊ THANH PHÚC
CHIỀU SÂU TÀI CHÍNH NHẰM NÂNG CAO
THU HÚT FDI CHO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
MÃ SỐ: 60.31.12
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN THỊ LIÊN HOA
TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2011
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU -------------------------------------------------------------------------------- 1
I. Sự cần thiết của đề tài ----------------------------------------------------------------- 1
II. Mục tiêu, đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu --------------------- 2
Chương 1: Lý luận tổng quan của đề tài --------------------------------------------------- 5
1.1 Chiều sâu tài chính ----------------------------------------------------------------- 5
1.1.1 Các khái niệm về chiều sâu tài chính ---------------------------------- 5
1.1.2 Các nhân tố quyết định chiều sâu tài chính ---------------------------- 5
1.1.3 Phương pháp xác định ---------------------------------------------------- 15
1.2 Mối quan hệ giữa chiều sâu tài chính và đầu tư trực tiếp nước ngoài ------ 17
1.3 Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong việc phát triển chiều sâu tài
chính -------------------------------------------------------------------------------------- 20
Kết luận chương 1 ---------------------------------------------------------------------- 26
Chương 2: Nghiên cứu chiều sâu tài chính trong mối quan hệ thu hút FDI ---------- 27
2.1 Thực trạng FDI vào Việt Nam trong thời gian qua --------------------------- 27
2.1.1 Tình hình thu hút FDI vào Việt Nam từ 1988 đến 2010 ------------- 27
2.1.2 Đóng góp FDI vào nền kinh tế ------------------------------------------ 36
2.1.3 Hậu quả của việc thu hút FDI -------------------------------------------- 39
2.2 Nghiên cứu và phân tích chiều sâu tài chính của Việt Nam trong thời gian qua
--------------------------------------------------------------------------------------------------- 41
2.2.1 Hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng -------------------------- 41
2.2.2 Chiều sâu tài chính của Việt Nam từ năm 2000 đến 2010 ----------- 55
2.2.3 Đánh giá thực trạng thị trường dịch vụ ngân hàng -------------------- 59
2.3 Phân tích mối quan hệ giữa chiều sâu tài chính với FDI --------------------- 63
Kết luận chương 2 ---------------------------------------------------------------------- 78
Chương 3: Các giải pháp chiều sâu tài chính nhằm nâng cao thu hút FDI cho Việt Nam
--------------------------------------------------------------------------------------------------- 79
3.1 Gia tăng hiệu quả tín dụng cho phát triển kinh tế ----------------------------- 79
3.2 Gia tăng hiệu lực của chính sách tiền tệ để nâng cao chiều sâu tài chính và tỷ
trọng tín dụng qua hệ thống ngân hàng trong nước -------------------------------------- 81
3.3 Xây dựng hệ thống giám sát tài chính chặt chẽ -------------------------------- 83
3.4 Gia tăng hiệu quả hoạt động dịch vụ tài chính ngân hàng -------------------- 84
3.5 Củng cố và hoàn thiện thị trường tài chính ------------------------------------- 89
3.6 Các giải pháp khác thu hút FDI -------------------------------------------------- 91
Kết luận chương 3 ---------------------------------------------------------------------- 94
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Chiều sâu tài chính nhằm nâng cao thu hút FDI cho
Việt Nam” là đề tài nghiên cứu của tôi được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS.
Nguyễn Thị Liên Hoa. Luận văn là kết quả nghiên cứu độc lập, không sao chép từ bất
kỳ cuốn luận văn nào. Các số liệu trong luận văn là trung thực từ các nguồn hợp pháp
và đáng tin cậy.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB
: Ngân hàng phát triển Châu Á
ASEAN
: Hiệp hội các nước Đông Nam Châu Á
CAR
: Hệ số an toàn vốn tối thiểu
CSTT
: Chính sách tiền tệ
ĐTNN
: Đầu tư nước ngoài
DVNH
: Dịch vụ ngân hàng
DVTC
: Dịch vụ tài chính
EU
: Liên Minh Châu Âu
FCI
: Hiệp hội bao thanh toán quốc tế
FDI
: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
: Tổng sản phẩm quốc dân
LSCB
: Lãi suất cơ bản
NH
: Ngân hàng
NHNN
: Ngân hàng nhà nước
NHTM
: Ngân hàng thương mại
NHTMCP
: Ngân hàng thương mại cổ phần
ODA
: Hỗ trợ phát triển chính thức
R&D
: Nghiên cứu và phát triển
ROA
: Lợi nhuận/tổng tài sản
ROE
: Lợi nhuận/vốn chủ sở hữu
TCTD
: Tổ chức tín dụng
TMCP
: Thương mại cổ phần
TMNN
: Thương mại nhà nước
TTCK
: Thị trường chứng khoán
TTTC
: Thị trường tài chính
WTO
: Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1988 - 2010
phân theo địa phương
Bảng 2.2: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1988 - 2010
phân theo đối tác đầu tư chủ yếu
Bảng 2.3: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1988 - 2010
phân theo ngành kinh tế
Bảng 2.4: Vốn chủ sở hữu và tổng tài sản của một số ngân hàng lớn nhất Việt Nam
năm 2010
Bảng 2.5 : Hệ số CAR (Capital Adequacy Ratio) của một số NHTM Việt Nam
Bảng 2.6: Thị phần cho vay và thị phần huy động từ năm 2008-2010
Bảng 2.7: So sánh ROA & ROE của một số NHTM
Bảng 2.8: Quy mô huy động vốn của hệ thống NHTM từ 2001-2010
Bảng 2.9: Quy mô dư nợ của hệ thống NHTM từ 2001 – 2010
Bảng 2.10: Tình hình phát triển chi nhánh, phòng giao dịch của một số
ngân hàng tại Việt Nam
Bảng 2.11: Chiều sâu tài chính của Việt Nam từ 2000-2010
Bảng 2.12: Một số chỉ tiêu tăng trưởng của hệ thống NHTM từ 2000-2010
Bảng 2.13: Tình hình thu hút FDI từ năm 2000 đến 2010
Bảng 2.14: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá thực tế và tình hình cung tiền
(M2) từ năm 2000 đến năm 2010
Bảng 2.15: Tỷ lệ tăng trưởng cung tiền M2 của các quốc gia qua các năm
Bảng 2.16 : Chiều sâu tài chính và FDI từ năm 2000 đến 2010
Bảng 2.17: Chiều sâu tài chính của các quốc gia Asia từ năm 2005 đến 2010
Bảng 2.18: So sánh tỷ lệ tín dụng/GDP của một số quốc gia
1
LỜI MỞ ĐẦU
I.
Sự cần thiết của đề tài:
Sự phát triển kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới là không đồng đều, bên cạnh đó
mỗi nước lại có một thế mạnh riêng mang tính đặc trưng của mỗi quốc gia kể cả các
quốc gia đang phát triển và các quốc gia phát triển. Trong đó thế mạnh của các quốc
gia phát triển đã và đang được khai thác. Ngày nay ở hầu hết các quốc gia đang phát
triển trong đó có Việt Nam với sự nổ lực của chính phủ và nhân dân nền kinh tế đã
có những chuyển biến đáng kể. Bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay là các quốc
gia vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thể hiện rất
rõ thực trạng này . Các nước đang phát triển đã và đang nhận thức được tầm quan
trọng của xu hướng hợp tác và cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới và đang rất nỗ
lực trong việc khai thác, tận dụng xu hướng này nhằm mục tiêu phát triển ổn định
và tăng trưởng nền kinh tế đất nước . Trong nền kinh tế thế giới hiện nay với những
lợi thế so sánh ở từng quốc gia, xuất hiện hiện tượng chuyên môn hóa nhằm thực
hiện công việc một cách có hiệu quả nhất. Nhưng một quốc gia thì không thể chỉ
phát triển một số lĩnh vực mà họ chuyên môn hóa, mà nền kinh tế đòi hỏi phải có sự
phát triển đa dạng, phong phú. Từ đó xuất hiện sự hợp tác kinh tế giữa các nước vừa
nhằm mục đích sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đang ngày một khan hiếm, vừa
đồng thời phát triển đất nước một cách toàn diện.
Vốn nước ngoài là một nhân tố cực kỳ quan trọng và cần thiết cho quá trình Công
nghiệp hóa- hiện đại hóa ở bất kỳ một nước hay một nền kinh tế đang phát triển
nào. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà xu hướng mở cửa hội nhập quốc tế
đã trở thành phổ biến. Hơn nữa nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu trình độ
kinh tế thấp kém, năng suất lao động giảm lại chịu hậu quả của chiến tranh. Do đó
vấn đề về vốn hiện nay đang là vấn đề nan giải và khó giải quyết nhất. Thêm vào đó
năm 2009 nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Khủng
hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới
vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn,
2
thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội khác của
nước ta. Một nền kinh tế muốn phát triển, tăng trưởng nhanh và bền vững trước hết
phải đảm bảo nhu cầu về vốn đầu tư. Đồng thời muốn có vốn đầu tư lớn và dài hạn
đòi hỏi phải gia tăng tiết kiệm trong nước cũng như tăng cường thu hút vốn đầu tư
nước ngoài. Tăng trưởng kinh tế cao sẽ tạo điều kiện để tăng tỷ lệ tiết kiệm và từ đó
tăng khả năng cung ứng vốn để đầu tư. Ở các quốc gia khác nhau, trình độ phát
triển, lợi thế đều khác nhau. Các nước đang phát triển có nhu cầu cần vốn đầu tư
cho tăng trưởng và phát triển là vô cùng cần thiết. Do vậy việc thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài là kênh huy động vốn rất quan trọng cho tăng trưởng và phát triển.
Bên cạnh đó chúng ta cũng cần có một thị trường tài chính hoàn thiện, hiện nay các
dự án FDI đang giữ một vị thế quan trọng và tham gia hầu hết các quan hệ kinh tế,
các dự án FDI thường là những dự án hiệu quả, việc các ngân hàng trong nước tài
trợ cho các dự án FDI sẽ thu được lợi nhuận và góp phần kiểm soát, giữ quyền chủ
động cho nền kinh tế nước nhà. Chiều sâu tài chính cụ thể là việc gia tăng tỷ lệ cung
tiền cho nền kinh tế thông qua hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong việc cung
cấp các dịch vụ tài chính là điều kiện cần thiết để thu hút FDI. Đó cũng là lý do mà
tôi chọn đề tài:
“ Chiều sâu tài chính nhằm nâng cao thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
cho Việt Nam”
II.
Mục tiêu, đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
1. Mục tiêu nghiên cứu:
-
Đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu các
nhân tố tác động đến chiều sâu tài chính để từ đó muốn thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài phải gia tăng chiều sâu tài chính.
-
Đề xuất các giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu : đối tượng là chiều sâu tài chính nhằm
nâng cao thu hút FDI, phạm vi nghiên cứu là trên lãnh thổ nước VN.
3
3. Phương pháp nghiên cứu : Phương pháp được sử dụng là phương pháp duy
vật biện chứng, phương pháp thống kê. Áp dụng thống kê số liệu theo từng lĩnh
vực, địa phương và trình tự thời gian. Phương pháp phân tích và so sánh : dưạ trên
số liệu thống kê sẽ tiến hành phân tích, đánh giá tình hình thu hút FDI và chiều sâu
tài chính trong thời gian qua.
4. Các đóng góp mới của luận văn:
Đề tài: “Chiều sâu tài chính nhằm nâng cao thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài cho Việt Nam” là đề tài mới so với các đề tài thu hút FDI trước đây. Dựa trên
thực trạng thu hút dòng vốn FDI trên thế giới vào Việt Nam và xu hướng vận động
của dòng vốn này trong thời gian qua. Qua nghiên cứu và phân tích, luận văn đã nêu
ra một cách có hệ thống các nội dung chiều sâu tài chính và tình hình thu hút FDI
tại Việt Nam như sau:
- Về phần lý luận luận văn đã nêu ra được các khái niệm chiều sâu tài chính, các
nhân tố và phương pháp xác định chiều sâu tài chính, mối quan hệ giữa chiều sâu
tài chính và FDI. Đồng thời luận văn cũng nêu ra được kinh nghiệm chiều sâu tài
chính của các quốc gia để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Về phần nghiên cứu chiều sâu tài chính trong mối quan hệ với thu hút FDI tại Việt
Nam luận văn đã chỉ ra được thực trạng dòng vốn FDI và chiều sâu tài chính tại
Việt Nam. Mối quan hệ giữa chiều sâu tài chính và thu hút FDI để thấy được sự tác
động của 2 yếu tố này. Bên cạnh đó là hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng
qua việc triển khai các sản phẩm dịch vụ đã góp phần tăng trưởng quy mô tín dụng
và nguồn vốn huy động tại ngân hàng. Dựa trên chiều sâu tài chính của Việt Nam
luận văn cũng so sánh với các quốc gia trong khu vực Asian để nhận thấy chiều sâu
tài chính của Việt Nam vẫn còn thấp so với các quốc gia khác. Trên cơ sở nghiên
cứu, luận văn đã nêu ra được những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế, để
từ đó đưa ra các giải pháp chiều sâu tài chính nhằm nâng cao thu hút FDI cho Việt
Nam.
4
5. Kết cấu của luận văn :gồm 3 chương
-
Chương 1: Lý luận tổng quan của đề tài
-
Chương 2: Nghiên cứu chiều sâu tài chính trong mối quan hệ FDI
-
Chương 3: Các giải pháp chiều sâu tài chính nhằm nâng cao thu hút FDI
5
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN TỔNG QUAN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Chiều sâu tài chính
1.1.1 Các khái niệm về chiều sâu tài chính
Chiều sâu tài chính là sự gia tăng tỷ lệ giá trị các tài sản tài chính như: tiền
gửi, tiền vay, phiếu nợ ngắn hạn, trái phiếu, cổ phiếu, bảo hiểm …so với tổng sản
phẩm nội địa. "Rakesh Mohan (2006), Economic Growth, Financial Deepening
and Financial inclusion”.
Chiều sâu tài chính là biến số giúp dự đoán tăng trưởng kinh tế, một thị
trường cạnh tranh và một tỷ lệ lãi suất linh hoạt được mô tả như chiều sâu tài chính.
“ John E.Udo Ndebbio Department of economics Unversity of Calaba, Calaba
Nigeria (2004), Financial Deepening, Economic Growth and development‘.
Chiều sâu tài chính là một thuật ngữ được sử dụng thường xuyên bởi các
chuyên gia phát triển kinh tế. Nó đề cập đến việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho
nền kinh tế. http://en.wikipedia.org/wiki/Financial_deepening
Chiều sâu tài chính cho biết mức độ phát triển của tài chính, nó phản ánh
mức độ tiền tệ hóa nền kinh tế. “ PGS.TS. Vũ Thị Minh Hằng (2010), Thị trường
dịch vụ tài chính Việt Nam trên đường hội nhập – Nhà Xuất Bản Lao Động ”
1.1.2 Các nhân tố quyết định chiều sâu tài chính
1.1.2.1 Các định chế tài chính trung gian :
Các định chế tài chính trung gian được ví như những chiếc cầu nối giữa
nguồn cung và cầu vốn trong nền kinh tế. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các
định chế tài chính trung gian đã kết nối được các nguồn vốn tiết kiệm trong xã hội
từ các hộ gia đình, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp … ở khắp nơi trong và
ngoài nước để truyền dẫn đến địa chỉ cần sử dụng vốn từ chính phủ, doanh nghiệp
cho đến các tổ chức kinh tế, với các yêu cầu về sử dụng vốn ngắn hạn, trung và dài
6
hạn. Sự truyền dẫn này được thực hiện một cách nhanh chóng và hiệu quả trên thị
trường tài chính. Trên thị trường tài chính, các tổ chức tài chính như ngân hàng,
công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư và các quỹ hưu trí thường được gọi với một tên
gọi đặc biệt : các định chế tài chính trung gian. Vai trò của chúng là huy động được
các nguồn vốn bằng cách phát hành quyền truy đòi ra công chúng, sau đó chúng
quay vòng và sử dụng số tiền này để mua chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu
hoặc những công cụ tài chính không được mua bán như các khoản tín dụng tiêu
dùng và tín dụng thương mại.
Các định chế tài chính trung gian cũng giống như các loại hình công ty khác
đều được thúc đẩy bởi động cơ lợi nhuận. Trong quá trình chuyển thành lợi nhuận,
họ tình cờ đạt được một mục tiêu kinh tế quan trọng, đó là giúp di chuyển nguồn
vốn từ người cho vay đến người đi vay.
Có thể phân loại các tổ chức trung gian tài chính theo 2 nhóm lớn: Các ngân
hàng trung gian – thông thường đó là các ngân hàng thương mại, và định chế tài
chính phi ngân hàng.
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan.
- Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng,
cung ứng dịch vụ thanh toán.
- Ngân hàng thương mại phát hành phiếu nợ khi đi vay và phát hành phiếu
tín dụng khi cho vay, ngân hàng thu nhận vốn bằng cách bán những tài sản nợ rồi
dùng vốn này để mua những tài sản có (cho vay, đầu tư vào các giấy tờ có giá…)
mang lại thu nhập. Bất cứ giao dịch tài chính nào cũng tạo ra sản phẩm tài chính mà
đối với người sở hữu thì nó là một tích sản và đối với người phát hành thì nó là một
tiêu sản. Sản phẩm tài chính (hay tài sản tài chính) phản ánh hoặc là trái quyền,
hoặc dưới dạng một nguồn thu nhập, hoặc dưới dạng tiền vốn (hiện vật hay tài sản).
7
- Ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát
triển thị trường tài chính, cả đối với thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Trên thị
trường tài chính các ngân hàng tham gia hoạt động với tư cách là người phát hành
và bán cổ phiếu của mình (ngân hàng cổ phần), hoặc mua cổ phiếu, trái phiếu của
các doanh nghiệp, của các ngân hàng khác và của Nhà nước, tức là với tư cách của
một nhà đầu tư bình thường trên thị trường. Đồng thời và quan trọng hơn các ngân
hàng tham gia thị trường với chức năng môi giới ăn hoa hồng hoặc chức năng kinh
doanh các chứng khoán.
Hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò chi phối trên thị trường tài chính. Thị
trường cổ phiếu đã được chú ý phát triển trong thời gian gần đây, tuy nhiên, ở một
số nước, qui mô thị trường cổ phiếu vẫn rất hạn chế. Mức độ vốn hoá trên thị trường
cổ phiếu ở Indonesia 2008 là 19,3%; Phillipin là 31%, Thái lan là 37,7%, con số này
ở Việt Nam năm 2008 là 10,6% GDP, năm 2009 là 38%. Thêm vào đó là tính thiếu
ổn định cả về qui mô và về chỉ số giá của các thị trường này, trong khi thị trường
trái phiếu doanh nghiệp cũng chưa phát triển. Những bất cập này đã hạn chế việc đa
dang hoá hoạt động của hệ thống ngân hàng, các định chế tài chính. Cùng với
những bất ổn vĩ mô, các định chế tài chính – ngân hàng các nước này thường phải
đối mặt với các rủi ro về quản lý kỳ hạn, rủi ro lãi suất và tỷ giá hối đoái, trong khi
sử dụng các công cụ phòng chống rủi ro còn rất sơ khai.
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện
một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng
không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín
dụng phi ngân hàng có nhiều loại hình khác nhau nhưng đều hoạt động theo một
nguyên tắc chung đó là: dựa vào nguồn vốn vay mượn để cung ứng tín dụng và các
dịch vụ khác cho khách hàng. Còn để vay vốn khách hàng, định chế tài chính phải
cam kết cung ứng những dịch vụ khác nhau mà khách hàng yêu cầu. Các định chế
tín dụng phi ngân hàng phổ biến ở các nước bao gồm: Công ty tài chính, công ty
bảo hiểm, công ty đầu tư, công ty cho thuê tài chính.
8
Công ty tài chính: Là công ty cung cấp tín dụng cho các doanh
nghiệp và người tiêu thụ với nhiều mục đích khác nhau như hỗ trợ sản xuất và tiêu
dùng.
Công ty tài chính có thể huy động vốn dưới các hình thức tiền gửi tiết kiệm
có kỳ hạn, phát hành trái phiếu, phát hành cổ phiếu (nếu là công ty tài chính cổ
phần).
Công ty tài chính tài trợ cho các doanh nghiệp bằng việc cấp tín dụng trung
và dài hạn để mua máy móc thiết bị, tài trợ các khoản phải thu của doanh nghiệp
mua nợ của họ với hình thức bao thanh toán.
Các tập đoàn kinh doanh, khi đã đủ lớn mạnh thường đẻ ra cho chính mình
một công ty tài chính. Các công ty tài chính này ngoài nhiệm vụ huy động tài chính
cho công ty mẹ, chức năng còn lại của nó là kinh doanh tiền tệ. Hệ thống này nằm
ngoài hệ thống ngân hàng, nhưng cũng cung cấp tín dụng cho sản xuất, ngoài ra
còn cung cấp tín dụng tiêu thụ. Đây là một loại hình chế tài chính trung gian thực
hiện các khoản cho vay đối với các doanh nghiệp và người tiêu dùng và phải đảm
bảo bằng tài sản hữu hình.
Về tín dụng sản xuất, nhiều công ty tài chính chuyên cung cấp tín dụng cho
những nhà công nghiệp mua máy móc, trang thiết bị và dùng những tài sản đó như
một vật cầm thế. Số tiền vay được hoàn trả lại theo định kỳ đã được định trước. Ưu
thế của công ty tài chính là dựa vào sự hiểu biết chuyên môn về ngành công nghiệp
được vay hoặc dựa vào sự tiếp xúc cá nhân người vay. Một vài công ty tài chính ở
các nước còn liên kết với những đại lý bán lẻ và cung ứng vốn cho họ để họ bán
hàng trả chậm cho các xí nghiệp nhỏ và vừa huy động vốn để mua bán thiết bị máy
móc do chính công ty mẹ sản xuất. Đây là chính sách kinh doanh hai đầu thường
thấy ở các công ty hoặc tập đoàn sản xuất lớn.
Công ty tài chính ngày nay còn đối đầu với sự gia tăng cạnh tranh từ các
ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay, cùng
các tổ chức cho vay khác. Do áp lực về giá cả và cạnh tranh, các loại hình công ty
9
tài chính đã phải đa dạng hóa hoạt động nhằm thâm nhập cùng một lúc vào cả hai
thị trường cho vay đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng. Cũng có khuynh
hướng là liên kết, hợp nhất giữa các công ty tài chính nhằm giảm thiểu số lượng các
công ty độc lập và tránh phụ thuộc thêm vào công ty mẹ. Khuynh hướng chính là
hướng đến những tổ chức tài chính lớn hơn, đa dạng hơn với nhiều dịch vụ tín dụng
từ khoản cho vay nhỏ bé đối với từng người tiêu dùng đến những nghiệp vụ cho vay
và cho thuê cực kỳ lớn đối với các doanh nghiệp tầm cỡ.
Không những loại hình cho vay của công ty tài chính đã thay đổi mà những
nguồn vốn để cho vay cũng đã chuyển hướng. Công ty tài chính có nhiều nguồn
vốn, quan trọng nhất là phát hành trái phiếu và cổ phiếu, vốn của công ty mẹ cấp
cho công ty, các khoản vay ngân hàng và các kỳ phiếu ngắn hạn khác.
Công ty bảo hiểm
Công ty bảo hiểm ra đời bắt nguồn từ nhu cầu hạn chế rủi ro trong sản xuất,
kinh doanh và đời sống. Chức năng chủ yếu của nó là phòng ngừa sự mất ổn định
trong đời sống kinh tế xã hội, khắc phục những rủi ro hoặc đền bồi cho những tai
nạn bất ngờ. Nguyên tắc hoạt động của công ty bảo hiểm là huy động sự đóng góp
của nhiều người để bồi thường cho một số người khác gặp tai nạn hay rủi ro. Nhưng
với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động của các công ty bảo hiểm
được biết tới như là một định chế tài chính trung gian, thực hiện chức năng thu hút
vốn tiết kiệm của cá nhân và tổ chức thành các nguồn vốn lớn, sử dụng nó để đầu tư
tài chính sinh lời và phục vụ cho sự chu chuyển vốn trong xã hội.
Ngày nay công ty bảo hiểm là hình thức điển hình của dạng công ty tài chính
ở hầu khắp các nước công nghiệp trên thế giới. Hoạt động bảo hiểm rất rộng, nó đi
vào từng lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Ở những nước phát triển, hầu như
mọi tài sản và hoạt động đều được bảo hiểm.
Ngoài mục đích nhân đạo, các tổ chức bảo hiểm còn đảm nhiệm chức năng
môi giới tài chính rất quan trọng. Các công ty bảo hiểm thực hiện kinh doanh trung
gian tài chính chuyển một dạng từ tài sản này thành một dạng khác cho công chúng.
10
Các công ty bảo hiểm sử dụng các phí bảo hiểm thu được nhờ bán các hợp đồng bảo
hiểm để đầu tư vào các tài sản có (ví dụ như trái phiếu, cổ phiếu, các món cho vay
thế chấp, hoặc các món vay khác) rồi từ những tài sản có này được dùng thanh toán
cho những khiếu nại đòi bồi thường theo các hợp đồng đã bán. Do tập trung được
một nguồn vốn lớn từ tất cả các pháp nhân và thể nhân trong xã hội, ngoài để lại
một số vốn cần thiết để chi trả bảo hiểm thường xuyên, các công ty bảo hiểm tích
cực tham gia vào hoạt động mua bán chứng khoán, gửi vào tài khoản tiền gửi ngân
hàng.
Công ty bảo hiểm chia làm hai nhóm gồm Công ty bảo hiểm nhân thọ và
Công ty bảo hiểm phi nhân thọ
Hiện nay, số lượng các dịch vụ BH tham gia trên thị trường Việt Nam ước
khoảng 800 dịch vụ cung ứng, trong đó có khoảng 600 sản phẩm dịch vụ phi nhân
thọ và gần 200 sản phẩm dịch vụ nhân thọ đã được triển khai đáp ứng được phần
lớn nhu cầu đa dạng của toàn xã hội. Giai đoạn từ năm 2000-2007 thị trường dịch
vụ BH có tốc độ tăng trưởng nhanh, trong đó đáng kể là thị trường BH nhân thọ.
Một số DVBH vẫn có tốc độ tăng trưởng khá cao như: BH xe cơ giới (20%), BH
con người (31%), BH tài sản (48%), BH hàng hóa (23%). Doanh thu phí thị trường
BH nhân thọ đạt 10.339 tỷ VND tăng 7,3% so với 2007 mức thấp nhất từ năm 2000
và tốc độ tăng trưởng cũng giảm mạnh từ 13,7% ở quý 1/2008 xuống 7,3% ở quý
4/2008
Năm 2009 cùng với nền kinh tế vượt qua tình hình suy thoái do ảnh hưởng của
khủng hoảng tài chính toàn cầu, thị trường BH Việt Nam đã đạt được những kết quả
khả quan. Với tổng doanh thu toàn thị trường là 24.646 tỷ VND tăng 16% so với
năm 2008. Trong đó doanh thu phí BH nhân thọ là 11.146 tỷ và BH phi nhân thọ là
13.500 tỷ.
Công ty đầu tư
Khi quỹ đầu tư được thành lập dưới dạng một công ty là một pháp nhân đầy
đủ, những người góp vốn vào quỹ trở thành các cổ đông và có quyền bầu ra Hội
đồng quản trị quỹ. Đây là tổ chức cao nhất của quỹ đầu tư, đứng ra thuê công ty
11
quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản tài sản quỹ và giám sát việc tuân thủ hoạt động
của 2 tổ chức này. Công ty quản lý quỹ có trách nhiệm cử người điều hành và sử
dụng vốn của quỹ để đầu tư vào các chứng khoán hoặc các tài sản sinh lợi khác.
Quỹ đầu tư là một doanh nghiệp đặc biệt, nó không dùng vốn của mình để
mua máy móc thiết bị, các yếu tố sản xuất khác để tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh, mà nó dùng vốn để đầu tư dài hạn, thông qua góp vốn liên doanh, mua
cổ phần hoặc các loại chứng khoán khác với mục đích thu lợi nhuận. Như vậy, hoạt
động kinh doanh của quỹ đầu tư là kinh doanh đầu vốn bao gồm đầu tư trực tiếp và
đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là việc các quỹ đầu tư dùng vốn của mình để thâm nhập trực
tiếp vào các công ty, vào các dự án bằng cách góp vốn cổ phần, mua cổ phiếu phát
hành lần đầu với tư cách là cổ đông sáng lập như các sáng lập viên khác.
Đầu tư gián tiếp là việc các quỹ đầu tư dùng vốn của mình tham gia vào thị
trường chứng khoán với tư cách là một nhà kinh doanh chứng khoán, hoặc mua đi
bán lại các chứng khoán để hưởng chênh lệch giá hay nhận cổ tức của các công ty
phát hành chứng khoán. Tuy nhiên, quỹ đầu tư không phải là thành viên của thị
trường chứng khoán tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) do đó việc mua bán
chứng khoán của quỹ đầu tư ở thị trường chứng khoán phải thông qua các công ty
chứng khoán.
Công ty cho thuê tài chính
Là một định chế tài chính chuyên cung cấp tín dụng trung và dài hạn cho các
doanh nghiệp thông qua việc cho doanh nghiệp thuê các máy móc, trang thiết bị, bất
động sản, với thời gian dài hạn và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sở hữu luôn
các tài sản đó khi kết thúc hợp đồng cho thuê.
Với số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm >80% tổng số doanh nghiệp
trong nền kinh tế Việt Nam, Do vậy cho thuê tài chính là một dịch vụ cần được phát
triển nhằm tạo thêm một kênh tín dụng cho doanh nghiệp. Tuy nhiên do môi trường
pháp lý còn nhiều bất cập nên dịch vụ này không phát triển mạnh với doanh số dư
nợ không quá 2% trong dư nợ của hệ thống tín dụng.
12
Xét về cơ cấu tài sản cho thuê, lĩnh vực tập trung chủ yếu vẫn là giao thông
vận tải và xây dựng (trên 60%), nông nghiệp mới chỉ chiếm 5%.
1.1.2.2 Thị trường vốn: là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính,
hoạt động của nó nhằm huy động những nguốn vốn trong xã hội, tập trung thành những
nguồn vốn lớn tài trợ dài hạn cho các doanh nghiệp và chính phủ nhằm mục đích phát
triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư . Thị trường vốn bao gồm
ba thị trường bộ phận : thị trường tín dụng trung và dài hạn còn gọi là thị trường thế
chấp, thị trường cho thuê tài chính và thị trường chứng khoán. Trong đó thị trường
chứng khoán là bộ phận quan trọng nhất của thị trường tài chính trong việc tập trung và
huy động những khoản vốn khổng lồ tài trợ cho các mục đích đầu tư phát triển kinh tế,
xã hội của chính phủ, phát triển sản xuất tại các doanh nghiệp.
Thị trường thế chấp:
Cung cấp tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp thường đòi hỏi phải có
tài sản thế chấp. Hoạt động trên thị trường này là các ngân hàng thương mại và các
tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
Thị trường cho thuê tài chính:
Cho thuê tài chính là một loại hình tài trợ vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp
đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ.
Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho
thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở
hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy
móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên
thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản
thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê và được 2 bên thỏa thuận. Khi
kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp
tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng
13
số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất phải
tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
Cho thuê tài chính là phương thức cho thuê tài sản dài hạn mà trong thời gian
đó người cho thuê chuyển giao tài sản cho người đi thuê sử dụng. Bên thuê có trách
nhiệm định kỳ thanh toán tiền thuê theo hợp đồng. Khi hợp đồng thuê hết hạn, bên
đi thuê được quyền mua tài sản hoặc thuê tiếp hoặc cũng có thể trả lại cho bên cho
thuê.
Cho thuê tài chính tài trợ vốn dưới hình thức tài sản nên cho thuê tài chính
không phải là phương pháp thay thế tín dụng trung và dài hạn mà chỉ là hình thức
tín dụng trung dài hạn đặc biệt, tham gia tài trợ vốn làm chuyên nghiệp hóa các
nghiệp vụ tín dụng hơn. Cho thuê tài chính mang đầy đủ bản chất của tín dụng trung
dài hạn như tính hoàn trả, tính thời hạn, lãi suất.
Thị trường chứng khoán: để huy động được các nguồn vốn dài hạn
bên cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp. Chính phủ
và một số các công ty còn thực hiện huy động thông qua việc phát hành các chứng
khoán. Chứng khoán là các công cụ thể hiện quyền sở hữu trong một công ty (cổ
phiếu) quyền chủ nợ đối với một công ty, một chính phủ hay chính quyền địa
phương và các công cụ khác phái sinh trên cơ sở những công cụ đã có. Khi các
chứng khoán được phát hành thì tất yếu sẽ nảy sinh nhu cầu về mua bán trao đổi các
chứng khoán đó. Chính vì vậy thị trường chứng khoán đã ra đời với tư cách là một
bộ phận của thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi chứng khoán
các loại.
Thị trường chứng khoán có những tác động tích cực như :
- Tạo ra sự gặp gỡ giữa các nguồn cung- cầu chứng khoán:
Trên thị trường sơ cấp: thông qua các dịch vụ tư vấn phát hành, bảo lãnh phát hành
đã giúp cho các tổ chức phát hành chứng khoán ra thị trường thành công và nhà đầu
tư có thể mua được chứng khoán dễ dàng. Một doanh nghiệp khi phát hành chứng
khoán thường họ không tự bán chứng khoán của mình mà phải qua một tổ chức
14
chuyên nghiệp tư vấn giúp cho họ phát hành chứng khoán…với nghiệp vụ chuyên
môn và bộ máy tổ chức thích hợp họ thực hiện tốt vai trò trung gian tài chính môi
giới mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư cho cả nhà phát hành và nhà
đầu tư.
Trên thị trường thứ cấp : việc vận dụng các dịch vụ lưu ký, tư vấn đầu tư, môi giới,
thanh toán chứng khoán giúp cho các hoạt động mua bán diễn ra nhanh và an toàn
hơn, đặc biệt là trên thị trường chứng khoán tập trung. Trong môi trường cung cấp
các dịch vụ kinh doanh chứng khoán đa dạng, hiệu quả sẽ làm tăng tính thanh khoản
cho chứng khoán, từ đó tạo ra hiệu ứng cho thị trường trở nên sôi động, quy mô
ngày càng lớn, thu hút nhiều nhà đầu tư chứng khoán.
-
Tạo ra sự an toàn trong các giao dịch thanh toán, bảo vệ nhà đầu tư: việc giao
dịch và thanh toán thực hiện tự phát, trực tiếp giữa một bên mua với một bên bán,
tính an toàn trong giao dịch thấp, luôn tiềm ẩn nguy cơ không thực hiện nghĩa vụ
giao dịch của hoặc bên mua, hoặc bên bán, đặc biệt là khi giá cả thị trường có nhiều
biến động. Để luôn đảm bảo nghĩa vụ thực hiện hợp đồng cũng như sự an toàn cho
các bên tham gia mua bán, giảm thiểu chi phí giao dịch, hình thức giao dịch có tổ
chức, các dịch vụ tư vấn, lưu ký, môi giới giao dịch, tổ chức thanh toán và chuyển
giao chứng khoán cũng phải được thực hiện một cách có tổ chức làm giảm mức độ
rủi ro trong đầu tư. Khi giao dịch chứng khoán đã được xác nhận thực hiện, việc
chuyển giao chứng khoán và thanh toán tiền sẽ được thực hiện bằng hình thức
chuyển khoản trên các tài khoản chứng khoán và tiền thông qua các bút toán ghi sổ,
thay vì chuyển giao vật chất trực tiếp như trong hình thức giao dịch tự phát.
-
Giảm thiểu chi phí giao dịch: sự chuyên môn hóa trong các dịch vụ chứng
khoán đã giúp cho các giao dịch của khách hàng được thực hiện nhanh chóng, an
toàn và hiệu quả hơn. Mức hoa hồng hoặc phí khách hàng thanh toán khi sử dụng
các dịch vụ sẽ nhỏ hơn nhiều so với những chi phí khi họ trực tiếp thực hiện.
- Xem thêm -