Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kỹ thuật - Công nghệ Điện - Điện tử Chiến lược phát triển ngành năng lượng việt nam đến năm 2030...

Tài liệu Chiến lược phát triển ngành năng lượng việt nam đến năm 2030

.DOCX
33
281
78

Mô tả:

Chiến lược phát triển ngành năng lượng việt nam đến năm 2030
Bài tập nhóm Bộ môn: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Đề tài : chiến lược phát triển ngành năng lượng Việt Nam đến năm 2030 Nhóm 6 Danh sách thành viên 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 1|Page CQ511157 CQ512084 CQ511723 CQ512113 CQ513348 CQ513553 CQ513433 CQ511804 Tạ Thị Hà Nguyễn Thành Mạnh Phạm Thị Lan Hương Phạm Thị Hà Minh Lộc Thanh Tùng Ngô Đức Cầm Nguyễn Đình Vinh Quách Hồng Khánh Đề tài: chiến lược phát triển ngành năng lượng Việt Nam đến năm 2030 Càng ngày, vấn đề năng lượng càng nổi lên và trở thành vấn đề cấp thiết đối với toàn nhân loại. Những cuộc chiến tranh dầu mỏ, những sự cố điện hạt nhân luôn gây chấn động trên phạm vi toàn thế giới. Trong từng nước, mức độ cấp bách về năng lượng tuy có khác nhau nhưng đều được xác định là "sứ mệnh quốc gia" do nhu cầu tiêu thụ năng lượng ngày càng lớn. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ, chính vì lẽ đó, nhóm chúng tôi đã tiến hành xây dựng buổi hội thảo về Chiến lược phát triển các nguồn năng lượng của Việt Nam trong vòng 20 năm tới. A.Thực trạng các nguồn năng lượng của Việt Nam hiện nay I. Các nguồn năng lượng không tái tạo Năng lượng không tái tạo là những nguồn năng lượng tồn tại hữu hạn, sẽ mất đi hoặc biến đổi sau quá trình sử dụng. Năng lượng không tái tạo thường là các nhiên liệu hóa thạch như than, dầu và khí thiên nhiên. Các loại nhiên liệu hóa thạch này phải mất hàng trăm triệu năm mới hình thành và hiện đang cạn kiệt theo thời gian. Ngoài ra còn có năng lượng thủy điện và năng lượng hạt nhân. Thực trạng của một số nguồn năng lượng không tái tạo ở Việt nam hiện nay: 1.Dầu khí Dầu khí là nguồn khoáng sản quan trọng của nước ta, đến nay, các nhà địa chất dầu khí đã phát hiện và xác định được tiềm năng dầu khí ở các bể trầm tích Đệ tam khoảng 4,3 tỷ tấn dầu quy đổi, trong đó trữ lượng dầu là 1,2 tỷ tấn và trữ lượng dầu khí có khả năng thương mại là 814,7 triệu tấn. Theo dự báo với mức tiêu dùng như hiện tại, thì trữ lượng này chỉ đảm bảo cung cấp cho 50 năm nữa nếu như không phát hiện và khai thác thêm những mỏ dầu khí lớn nào nữa. 2.Than đá 2|Page Nguồn khoáng sản than đá của nước ta đang bắt đầu cạn kiệt. Năm 2011, từ một nước xuất khẩu than, nước ta đã phải nhâp khẩu những tấn than đầu tiên. Theo dự báo của Tập đoàn Than khoáng sản, năm 2012, nguồn than khai thác trong nước có thể bị thiếu hụt khoảng 10 triệu tấn, đến năm 2015 lượng than nhập khẩu sẽ lên tới khoảng 28 triệu tấn. Hơn nữa, việc khai thác và sử dụng than đá còn thải ra một lượng rất lớn khí CO2, gây hại lớn đến môi trường. 3.Thủy điện Tiềm năng thủy điện của nước ta đứng vào hàng thứ 14 trên thế giới với trữ năng khoảng 31 GW (mỗi GW bằng 1 tỷ kW). Sau nhiều chục năm khai thác, thủy điện hiện nay chiếm 38% tổng sản lượng điện của cả nước. Tuy nhiên, thủy điện cũng có nhiều tiêu cực. Đó là muốn có thủy điện, phải hy sinh nhiều diện tích rừng, đất đai nông nghiệp màu mỡ, chưa nói đến nguy cơ vỡ đập gây lũ lụt vùng hạ lưu, những biến đổi về hệ sinh thái. Điều quan trọng hơn, tiềm năng thủy điện về cơ bản đã khai thác hết, phần chưa khai thác thường công suất nhỏ, đầu tư tốn kém và rất không ổn định trong hoàn cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu như hiện nay. 4.Năng lượng hạt nhân Việt Nam đã có những bước đầu trong việc ứng dụng năng lượng hạt nhân, bằng việc xây dựng nhà máy điện nguyên tử tại Ninh Thuận. Dự kiến nhà máy điện nguyên tử đầu tiên của Việt Nam sẽ hoạt động vào khoảng năm 2017 - 2020 với kinh phí đầu tư 3,5 tỉ USD. Tuy nhiên, việc ứng dụng điện hạt nhân còn gây nhiều tranh cãi về mức độ an toàn và vấn đề môi trường, nhất là khi sau vụ sóng thần động đất tại Nhật Bản. II. Các nguồn năng lượng tái tạo Năng lượng tái tạo hay năng lượng tái sinh là năng lượng từ những nguồn liên tục mà theo chuẩn mực của con người là vô hạn. Nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng năng lượng tái sinh là tách một phần năng lượng từ các quy trình diễn biến liên tục trong môi trường và đưa vào trong các sử dụng kỹ thuật. Nước ta cũng là nước có nhiều gió, bờ biển dài trên 3.200km, giờ nắng từ 2.000 đến 2.500 giờ/năm, chỉ riêng vùng Tây Bắc đã có 300 nguồn địa nhiệt, rất thuận lợi cho việc sản xuất điện. Trên thực tế, cũng đã có hơn 20 dự án phát triển điện gió cho nhiều hải đảo và mới đây nhà máy điện gió đầu tiên do Công ty cổ phần Tái tạo năng lượng Việt Nam và Công ty Fuhrender (Đức) đầu tư đã kết thúc giai đoạn 1, hòa lưới điện quốc gia. Trên thị trường cũng đã lưu hành bình nước nóng dùng năng lượng mặt trời của Công ty Sơn 3|Page Hà; hàng nghìn hầm khí biogas đã được xây dựng trên cả nước, chưa kể hàng chục phòng thí nghiệm, doanh nghiệp đang khẩn trương nghiên cứu sản xuất điện từ năng lượng mặt trời. Tuy nhiên, những dạng năng lượng này còn ở mức phân tán, nhỏ lẻ, tỷ lệ chưa đáng kể trong tổng sơ đồ điện toàn quốc. III. Vấn đề năng lượng của Việt Nam Từ những phân tích về thực trạng các nguồn năng lượng của Việt Nam, chúng ta có thể thấy, các nguồn năng lượng của chúng ta không bền vững. Nguồn năng lượng không tái tạo như than, dầu khí đang dần cạn kiệt, không thể đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ năng lượng ngày càng tăng của con người trong một thời gian dài, không những thế, việc sử dụng các nguồn năng lượng này còn làm hủy hoại ô nhiễm môi trường rất lớn. Các nguồn năng lượng mới như thủy điện hay năng lượng nguyên tử lại gây ra các vấn đề lớn về môi trường như nguy cơ lũ lụt, biến đổi hệ sinh thái, và nguy hiểm hơn là chất thải phóng xạ và nguy cơ về sự cố của các lò phản ứng hạt nhân. Từ đó đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu, phát triển những nguồn năng lượng bền vững: năng lượng tái tạo. B. Một số cuộc hội thảo về năng lượng Đứng trước thực trạng nguồn năng lượng Việt Nam và thế giới hiện nay, có không ít các hội thảo đã được tổ chức ở việt nam và trên thế giới bàn về vấn đề này. Điển hình như: - Hội thảo “năng lượng sạch và tái tạo” tại techmart Việt Nam diễn ra vào ngày 11/5/2012, tham dự hội thảo có các chuyên gia đầu ngành đến từ nhiều nước khác nhau trên thế giới như các nước ASEAN, Ân Độ, Nga, Mỹ… - Hội thảo bàn về các nguồn năng lượng mới do ban Quản lý Khu công nghệ cao Hoà Lạc (Bộ KHCN) vừa tổ chức Hội thảo . Dự hội thảo có các giáo sư, chuyên gia của các viện nghiên cứu, những doanh nghiệp về năng lượng mới hàng đầu của Việt Nam và các nước Hoa Kỳ, Hàn Quốc… - Hội thảo chiến lược năng lương ở pháp và suy nghĩ ở Việt Nam diễn ra vào ngày 14 Tháng Năm 2012 – Tại Trung tâm Kinh tế thuộc Đại học Panthéon-Sorbonne, Paris 1, do Hội Khoa học và Chuyên gia Việt Nam tại Pháp (AVSE) đã tổ chức Hội thảo ... Nội dung chủ yếu của các cuộc hội thảo xoay quanh một số vấn đề quan trọng sau: - 4|Page Nhu cầu sử dụng năng lượng của Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng, việc cung ứng năng lượng đã và đang phải đối mặt với nhiều vấn đề và thách thức, đặc biệt là sự cạn kiệt dần nguồn nhiên liệu hoá thạch nội địa, giá dầu cao… - Năng lượng sạch đang là ưu tiên cho chính sách phát triển năng lượng của các quốc gia trên thế giới hiện nay. Nguồn năng lượng hiện tại đang sử dụng là mối đe dọa cho toàn cầu, là nguyên nhân gây nên hiện tượng hiện tượng nóng lên của trái đất, mực nước biển dâng cao… ứng dụng nghiên cứu năng lượng sạch an toàn, đang được thúc đẩy và bước đầu áp dụng thành công ở một số nơi trên thế giới Cây vấn đề: Nguồn năng lượng không bền vững Thiếu hụt năng lượng Nguồn năng lượng hóa thạch dần cạn kiệt Năng lượng thủy điện đã khai thác gần hết tiềm năng Khai thác và sử dụng năng lượng hiện nay gây ảnh hưởng đến môi trường Năng lượng tái tạo chưa phát triển Sử dụng năng lượng hóa thạch tạo ra nhiều khí CO2 Thủy điện gây lũ lụt, mất cân bằng sinh thái và giảm diện tích rừng Nguy cơ ô nhiễm phóng xạ từ nguồn năng lượng hạt nhân Tóm lại: thông qua các buổi hội thảo trên một xu thế mới trong việc sử dụng năng lượng trong tương lai được được rút ra: tăng cường khai thác sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, thay thế dần nguồn năng lượng không tái tạo được đang gây ô nhiễm hiện nay. 5|Page C.Tầm nhìn và chiến lược Tầm nhìn: Việt Nam đến năm 2030, các nguồn năng lượng tái tạo đáp ứng được 15% tổng nhu cầu sử dụng năng lượng phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất. Chiến lược phát triển Qua nghiên cứu thực tiễn ở Việt Nam, nhóm đã nhận thấy tiềm năng phát triển của 1 số nguồn năng lượng tái tạo như: gió, năng lượng mặt trời, thủy triều… Trong bối cảnh công nghệ hiện tại, nguồn năng lượng Gió đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng thành công, công nghệ năng lượng Gió đã rất phát triển và công suất khá cao, vì vậy trong thời gian tới Việt Nam sẽ chú trọng phát triển Năng lượng gió, để dần dần đưa các nguồn năng lượng tái tạo vào thay thế để đáp ứng nhu cầu, ngoài ra tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên của từng vùng miền, chúng ta sẽ có những phương án phát triển các nguồn năng lượng phù hợp khác như mặt trời, thủy triều, sinh khối. Sau đây là phần chiến lược cụ thể áp dụng cho từng nguồn năng lượng riêng biệt. I.Năng lượng gió 1.Giới thiệu Năng lượng gió là động năng của không khí di chuyển trong bầu khí quyển Trái Đất. Năng lượng gió là một hình thức gián tiếp của năng lượng mặt trời. Sử dụng năng lượng gió là một trong các cách lấy năng lượng xa xưa nhất từ môi trường tự nhiên và đã được biết đến từ thời kỳ Cổ đại. Năng lượng gió được đánh giá là thân thiện nhất với môi trường và ít gây ảnh hưởng xấu về mặt xã hội. Khi tính đầy đủ cả các chi phí ngoài – là những chi phí phát sinh bên cạnh những chi phí sản xuất truyền thống, thì lợi ích của việc sử dụng năng lượng gió càng trở nên rõ rệt. So với các nguồn năng lượng gây ô nhiễm (ví dụ như ở nhà máy nhiệt điện Ninh Bình) hay phải di dời quy mô lớn (các nhà máy thủy điện lớn), khi sử dụng năng lượng gió, người dân không phải chịu thiệt hại do thất thu hoa mầu hay tái định cư, và họ cũng không phải chịu thêm chi phí y tế và chăm sóc sức khỏe do ô nhiễm. Ngoài ra với đặc trưng phân tán và nằm sát khu dân cư, năng lượng gió giúp tiết kiệm chi phí truyền tải. Năng lượng gió giúp đa dạng hóa các nguồn năng lượng, là một điều kiện quan trọng để tránh phụ thuộc vào một hay một số ít nguồn năng lượng chủ yếu; và chính điều này giúp phân tán rủi ro và tăng cường an ninh năng lượng. 6|Page 2. Năng lượng gió trên thế giới Mặc dù điện gió bắt đầu được thế giới để ý đến từ 25 năm trước, nhưng chỉ trong gần 10 năm trở lại đây nó mới khẳng định được vị trí trên thị trường năng lượng thế giới khi sản lượng điện gió tăng trưởng một cách ngoạn mục với tốc độ 28%/năm, cao nhất trong tất cả các nguồn năng lượng hiện có (Hình 1). Sự phát triển thần kỳ này của điện gió có được là nhờ vào một số thay đổi quan trọng trong thời gian qua. Đầu tiên phải kể đến những tiến bộ về công nghệ có tính đột phá trong thời gian qua đã giúp giảm giá thành điện gió xuống nhiều lần, đồng thời tăng công suất, hiệu quả, và độ tin cậy của các trạm điện gió. Cụ thể là nếu như vào năm 1990, công suất trung bình của một trạm điện gió ở Đan Mạch và Đức chỉ vào khoảng 200 KW, thì đến năm 2002 đã lên tới 1,5 MW và hiện nay các nước này đang phát triển các tuốc bin lớn cỡ 5-10 MW nhằm phát triển các trạm điện gió trên thềm lục địa. Hiệu quả của các trạm điện gió này cũng được cải thiện từ 2 đến 3% mỗi năm, góp phần vào việc giảm 30% giá thành điện gió trong vòng 12 năm. Năm 2007 thế giới đã xây mới được khoảng 20073 MW điện, trong đó Mỹ với 5244 MW, Tây Ban Nha 3522MW, Trung Quốc 3449 MW, 1730 MW ở Ấn Độ và 1667 ở Đức, nâng công suất định mức của các nhà máy sản xuất điện từ gió lên 94.112 MW. Công suất này có thể thay đổi dựa trên sức gió qua các năm, các nước, các vùng. STT Quốc gia 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 Đức Mỹ Tây Ban Nha Ấn Độ Trung Quốc Đan Mạch Ý Pháp Anh Bồ Đào Nha Ca na đa Hà Lan Nhật Áo Hy Lạp 7|Page Công suất (MW) 22.247 16.818 15.145 8.000 6.050 3.125 2.726 2.454 2.389 2.150 1.846 1.746 1.538 982 871 16 17 18 19 20 Úc Ai Len Thụy Điển Na Uy Niu Di Lân Những nước khác Thế giới 824 805 788 333 322 2.953 94.112 Hội đồng Năng lượng Gió Thế giới cũng đưa ra những dự báo hết sức khả quan cho triển vọng phát triển năng lượng điện gió. Theo Hội đồng này, đến năm 2020 sản lượng điện gió sẽ chiếm tới 12% trong tổng sản lượng điện năng của thế giới. Để đạt được mục tiêu này, thế giới sẽ đầu tư khoảng 100 tỷ USD mỗi năm vào điện gió, đồng thời tạo ra 2,3 triệu việc làm và giảm được một lượng đáng kể khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính. Một thị trường về năng lượng gió sẽ phát triển mạnh mẽ đưa giá thành lắp đặt cũng như vận hành điện gió xuống mức rẻ nhất, với chi phí lắp đặt khoảng 600 USD trên một đơn vị kW công suất và giá điện thương phẩm sẽ dưới 3 USD/kWh. 3. Năng lượng gió ở Việt Nam a. Tiềm năng Nằm trong khu vực cận nhiệt đới gió mùa với bờ biển dài, Việt Nam có một thuận lợi cơ bản để phát triển năng lượng gió. So sánh tốc độ gió trung bình trong vùng Biển Đông Việt Nam và các vùng biển lân cận cho thấy gió tại Biển Đông khá mạnh và thay đổi nhiều theo mùa . Trong chương trình đánh giá về Năng lượng cho Châu Á, Ngân hàng Thế giới đã có một khảo sát chi tiết về năng lượng gió khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Theo tính toán của nghiên cứu này, trong bốn nước được khảo sát thì Việt Nam có tiềm năng gió lớn nhất và hơn hẳn các quốc gia lân cận là Thái Lan, Lào và Campuchia. Trong khi Việt Nam có tới 8,6% diện tích lãnh thổ được đánh giá có tiềm năng từ “tốt“ đến “rất tốt“ để xây dựng các trạm điện gió cỡ lớn thì diện tích này ở Campuchia là 0,2%, ở Lào là 2,9%, và ở Thái-lan cũng chỉ là 0,2%. Tổng tiềm năng điện gió của Việt Nam ước đạt 513.360 MW tức là bằng hơn 200 lần công suất của thủy điện Sơn La, và hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện vào năm 2020. Nếu xét tiêu chuẩn để xây dựng các trạm điện gió cỡ nhỏ phục vụ cho phát triển kinh tế ở những khu vực khó khăn thì Việt Nam có đến 41% diện tích nông thôn có thể phát triển điện gió loại nhỏ. Nếu so sánh con số này với các nước láng giềng thì Campuchia có 6%, Lào có 13% và Thái Lan là 9% diện tích nông thôn có thể phát triển năng lượng gió. Đây 8|Page quả thật là một ưu đãi dành cho Việt Nam mà chúng ta còn thờ ơ chưa nghĩ đến cách tận dụng tiềm năng điện gió của chúng ta chủ yếu tập trung tại duyên hải miền Trung và miền Nam. Trong đó, có một số nơi như Phước Minh (Ninh Thuận), Tuy Phong (Bình Thuận) … là những nơi có nhiều tiềm năng nhất bởi có tốc độ gió trung bình lớn, từ 6-7m/giây, tương ứng các trạm điện gió công suất 3-3,5MW. Ngoài ra, tại các vùng cao nguyên như Đà Lạt, Lâm Đồng và biển đảo như đảo Phú Quý, Bạch Long Vĩ cũng là những nơi có cường độ gió hàng năm lớn, rất thích hợp với việc phát triển điện gió để phục vụ nhu cầu năng lượng tại chỗ cho dân cư. Trên thực tế, việc phát triển điện gió trong nước đã manh nha kể từ cuối thập kỷ 90. Ban đầu chỉ là một số loại tua bin gió gia đình, hệ lai ghép tua bin gió - máy phát diesel công suất nhỏ được các nhà khoa học lắp đặt thử nghiệm tại khu vực ven biển miền Trung… Tuy nhiên, hầu hết các thử nghiệm này đều ít mang lại hiệu quả. b. Hiện trạng Đến tháng 2/2011, 20 tuabin với công suất 1,5 MW/tua-bin đã được lắp dựng thành công ở Bình Thuận, trong đó 12 tua-bin đã đi vào hoạt động, đưa tổng công suất lắp đặt điện gió ở Việt Nam khoảng 19 MW. Hơn 30 dự án điện gió của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài với công suất hơn 3000 MW đang trong giai đoạn chuẩn bị, một số đã nhận được giấy phép đầu tư. Các nhà phát triển điện gió và cung cấp tua bin có tên tuổi trên thế giới đã có mặt ở Việt Nam như GE, Gamesa, Nordex, Vestas... Nhiều tổ chức tài chính quốc tế cũng quan tâm đến lĩnh vực năng lượng tái tạo ở Việt Nam thông qua các chương trình nâng cao năng lực và tạo dựng thị trường. Vừa qua, tại xã Bình Thạnh (huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận), Công ty CP Tái tạo Năng lượng Việt Nam (REVN) và UBND tỉnh Bình Thuận đã chính thức khánh thành nhà máy điện gió giai đoạn 1. Đây là dự án điện gió đầu tiên của cả nước chính thức đi vào hoạt động. Theo REVN, toàn bộ dự án (giai đoạn 1) với diện tích 350ha, có 20 trụ tua bin tháp điện gió. Mỗi tua bin có công suất 7,5 MW. Tất cả tua bin của dự án đều nhập từ Cộng hòa Liên bang Đức, riêng các trụ tháp ống cao 85 mét được sản xuất trong nước. Năm 2009, năm tua bin đầu tiên đã được phát điện và đấu nối với lưới điện quốc gia. Cho đến thời điểm hiện nay, mỗi năm dự án sản xuất ra 85 triệu kWh điện và được hòa vào lưới điện quốc gia. 9|Page Ứng dụng Công suất Số lượng Thời gian đưa vào Khu vực lắp đặt vận hành Tua-bin gió loại 100-200 gia đình Khoảng 1000 Từ năm 1999 Khu vực ven biển miền trung Hệ lại ghép tua 30.000 bin gió- máy phát diesel 1 1999 Hải Hậu, Nam Định Hệ lai ghép tua- 2.000 bin gió-pin mặt trời 1 2000 Đắc Hà, Tỉnh Kon Tum Tua-bin gió loại 800.000 lớn cho hải đảo 1 2004 Đảo Bạch Long Vĩ Tua bin gió nối 1.500.000 lưới 12 5 tua bin năm Tuy Phong, Bình 2009, 7 tua bin đầu Thuận năm 2011 (WP) tỉnh Số liệu thống kê của Viện Năng lượng cũng cho thấy tới nay nguồn năng lượng tái tạo mới chiếm trên 1% tổng công suất điện của Việt Nam, trong khi đó, mục tiêu đến 2010, nguồn năng lượng này sẽ phải chiếm 3%. Lý giải điều này, ông Nguyễn Đức Cường – Giám đốc Trung tâm năng lượng tái tạo (Viện Năng lượng) cho rằng, phát triển điện gió trong nước còn quá nhiều rào cản. Cụ thể là việc Chính phủ trợ giá với điện từ nguồn nguyên liệu truyền thống không phản ánh đúng chi phí thực của thị trường khiến cho giá thành của điện gió cao hơn và khó cạnh tranh. Mặt khác, vốn đầu tư ban đầu cho việc xây dựng nhà máy điện gió là khá lớn (khoảng 1800 -2200 USD/KW) nên hầu hết doanh nghiệp trong nước đều không mấy mặn mà vì thiếu vốn và chịu sự rủi ro cao. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu nguồn nhân lực cao và các đơn vị tư vấn có chuyên môn cũng là trở ngại lớn về phương diện kỹ thuật trong ngành này. 10 | P a g e Về phía các doanh nghiệp nước ngoài, khó khăn lớn nhất lại là vấn đề về cơ chế, chính sách. Hiện tại trong nước vẫn chưa có một cơ quan nào đứng ra điều phối về hoạt động năng lượng tái tạo, và cũng chưa có khung chính sách hỗ trợ phát triển năng lượng gió. Ông Van Hung Albert cho rằng: “Khó khăn lớn nhất của chúng tôi là ở chính sách ưu tiên hỗ trợ, và khung pháp lý để hoạt động và triển khai dự án trên quy mô lớn”. c. Đề xuất - nên có chính sách và các quy định, trợ giá trong việc mua điện từ nguồn năng lượng gió; chi phí đầu tư cao hơn các hệ thống phát điện truyền thống vì thế chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư; - các dịch vụ và khả năng tài chính để có thể vay vốn từ ngân hàng hoặc từ tổ chức tài chính cho việc phát triển điện gió - chương trình, qui hoạch và chính sách của chính quyền địa phương và trung ương nên thật minh bạch, rõ ràng, tránh tình trạng chống chọi nhau ! - kiến thức và năng lực kỹ thuật để thực hiện một công trình điện gió hoàn chỉnh, cũng như các kỹ thuật cơ bản và dịch vụ bảo quản, bảo trì, điều hành và quản lý NMDG d. Lộ trình phát triền Tập trung khai thác gió miền Nam, Nam Trung Bộ và các đảo ngoài khơi Một số dự án đang được triển khai Tỉnh Số lượng nhà đầu tư Số dự Hiện trạng án Công suất lắp đặt(MW) IR IP Bình Định 2 2 51 Phú Yên 1 1 50 1 Ninh Thuận 2 2 70 2 Bình Thuận 9 13 1.068 8 4 1 Lâm Đồng 10 12 1.541 6 4 1 1 6 Bà Ria-Vũng 1 11 | P a g e TD UC IO 2 1 1 Tàu Tiền Giang 1 1 100 1 Bến Tre 2 2 280 2 Trà Vinh 1 1 93 1 Sóc Trăng 4 4 350 4 Bạc Liêu 1 1 99 Cà Mau 2 2 300 2 Tổng cộng 36 42 3.906 27 1 12 2 0 1 Hiện trạng IR: Báo cáo đầu tư IP: Dự án đầu tư TD: Thiết kế kĩ thuật UC: Đang xây dựng IO: Đang vận hành Tổng cộng, có 42 dự án gió với tổng công suất 3.906 MW đang được triển khai ở những giai đoạn khác nhau. Quy mô trung bình của dự án là 95 MW với số lượng dự án có công suất từ 50 đến 100 MW chiếm tỉ lệ lớn nhất, 38%, sau đó là dự án với công suất hơn 100 MW với 26%. 12 trong số 42 dự án có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài đến từ Đức, Canada, Thụy Sĩ và Argentina với tổng công suất lắp đặt là 1.366MW Vùng quy hoạch phát triển: Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ, các đảo Bạch Long Vĩ, Phú Quý Mục tiêu: tới năm 2020, nước ta sản xuất đươc 2250 MW điện gió, chiếm 3% tổng công suất sản xuất điện của cả nước 12 | P a g e Tới năm 2030, nước ta sản xuất được 10.000 MW điện gió, chiếm 7% tổng công suất sản xuất điện của cả nước (dự báo công suất sản xuất điện của nước ta năm 2020 là 75000 MW, năm 2030 là 146800 MW) e. Các khả năng cung cấp tài chính Với chủ trương là mở rộng đường cho các nhà đầu tư tư nhân, nhà nước ta sẽ có các ưu tiên và hỗ trợ đặc biệt cho các dự án xây dựng nhà máy điện gió về nhiều mặt như cấp phép, thủ tục hành chính, nguồn vốn, lãi suất… Quy mô công suất đặc trưng của một nhà máy điện gió trong khoảng 50-100 MW thì khoản vốn sẽ nằm trong khoảng 80-160 triệu. Do đó, khả năng chỉ có thể là từ các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) và các ngân hàng khác Cơ quan tài công cụ cung cấp tài ghi chú chính chính Ngân hàng thế cho vay lại vốn ODA -đối tường: chỉ những dự án năng lượng giới ( WB) tái tạo có công suất nhỏ hơn 30MW -khoản vay có được chấp nhận hay không phụ thuộc vào thời gian và mức độ hấp dẫn của các chính sách hỗ trợ được hình thành và đưa vào áp dụng Ngân hàng phát -cho vay -hiện chưa có hỗ trợ đầu tư cho năng triển chấu Á -cơ quan đồng cung lượng tái tạo cấp tài chính - ngân hàng đang cam kết hỗ trợ kĩ thuật -bảo lãnh trị giá 600.000 USD cho EVN để lập báo cáo đầu tư KfW (ngân hàng sáng kiến bảo vệ môi - có thể vay đến 50 triệu USD tái thiết Đức) trường và khí hậu VDB (ngân Cho vay lại vốn ODA 10 triệu USD sãn sàng hàng phát triển Việt Nam) Dragon Capital Đồng cung cấp tài Có thể cung cấp tới 7 triệu chính 13 | P a g e Tổ chức tài Đồng cung cấp tài chính trong chính nước Ngoài ra chính phủ còn phát hành trái phiếu ra công chúng để bảo đảm nguồn vốn II. Năng lượng mặt trời 1. Giới thiệu Năng lượng Mặt Trời là năng lượng của dòng bức xạ điện từ xuất phát từ Mặt Trời, cộng với một phần nhỏ năng lượng của các hạt hạ nguyên tử khác phóng ra từ ngôi sao này. Dòng năng lượng này sẽ tiếp tục phát ra cho đến khi phản ứng hạt nhân trên Mặt Trời hết nhiên liệu, vào khoảng 5 tỷ năm nữa. Như vậy có thể nói năng lượng mặt trời là vô tận và sạch nhất của tất cả các nguồn năng lượng được biết đến. Năng lượng Mặt trời có thể được phân thành hai loại, nhiệt và ánh sáng. N ăng lượng nhiệt có thể được sử dụng để thụ động nhiệt tòa nhà thông qua việc sử dụng các vật liệu xây dựng nhất định và thiết kế kiến trúc hoặc sử dụng trực tiếp để đun nóng nước sử dụng trong hộ gia đình hay công nghiệp. Hiện nay, máy nước nóng năng lượng mặt trời là một bổ sung hoặc thay thế khả thi cho các nguồn năng lượng khác. Nhiệt năng thu được từ mặt trời có thể được sử dụng cho một số ứng dụng bao gồm cả sản xuất nước nóng, đốt nóng không gian và thậm chí làm mát thông qua sử dụng công nghệ hấp thụ lạnh. Sử dụng năng lượng mặt trời và các hình thức khác của năng lượng tái tạo làm giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch để sản xuất năng lượng, do đó trực tiếp làm giảm CO2 phát thải. CO2 phát thải góp phần vào sự ấm lên toàn cầu, một vấn đề môi trường mà bây giờ đang được quan tâm. Đối với cuộc sống của loài người, năng lượng Mặt Trời là một nguồn năng lượng tái tạo quý báu. Có thể trực tiếp thu lấy năng lượng này thông qua hiệu ứng quang điện, chuyển năng lượng các photon của Mặt Trời thành điện năng, như trong pin Mặt Trời. Năng lượng của các photon cũng có thể được hấp thụ để làm nóng các vật thể, tức là chuyển thành nhiệt năng, sử dụng cho bình đun nước Mặt Trời, hoặc làm sôi nước trong các máy nhiệt điện của tháp Mặt Trời, hoặc vận động các hệ thống nhiệt như máy điều hòa Mặt Trời. 14 | P a g e Năng lượng mặt trời có những ưu điểm như: Sạch, chi phí nhiên liệu và bảo dưỡng thấp, an toàn cho người sử dụng… Đồng thời, phát triển ngành công nghiệp sản xuất pin mặt trời sẽ góp phần thay thế các nguồn năng lượng hóa thạch, giảm phát khí thải nhà kính, bảo vệ môi trường. Vì thế, đây được coi là nguồn năng lượng quý giá, có thể thay thế những dạng năng lượng cũ đang ngày càng cạn kiệt. Từ lâu, nhiều nơi trên thế giới đã sử dụng năng lượng mặt trời như một giải pháp thay thế những nguồn tài nguyên truyền thống. 2. Thực trạng sử dụng quang năng trên thế giới Giống như trong suốt thập kỷ qua, các thị trường quang điện lại tăng trưởng nhanh hơn bất cứ ai đã dự kiến cả ở châu Âu và trên thế giới. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng nhanh chóng đó sẽ không thể kéo dài mãi mãi, và ngành công nghiệp quang điện đang trải qua thời kỳ bất ổn ngắn hạn. Nhưng trong trung và dài hạn, ngành này có triển vọng tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Những kết quả của năm 2011 – và cả triển vọng cho những năm tiếp theo – cho thấy rằng với các điều kiện chính sách đúng đắn, ngành quang điện có thể tiếp tục tăng trưởng, tiến tới sự cạnh tranh đầy đủ trên thị trường cung cấp điện, và trở thành một nguồn năng lượng chủ đạo. Cụ thể: 29,7 GW hệ thống điện mặt trời được kết nối với lưới điện trong năm 2011, tăng từ 16,8 GW trong năm 2010. Điện mặt trời hiện nay, chỉ đứng sau thủy điện và điện gió, là nguồn năng lượng tái tạo quan trọng thứ ba về công suất lắp đặt toàn cầu. 21,9 GW điện mặt trời đã được nối lưới ở châu Âu vào năm 2011, so với 13,4 GW trong năm 2010. Châu Âu vẫn chiếm phần chủ yếu của thị trường quang điện toàn cầu, với 75% tổng công suất lắp đặt mới trong năm 2011. Ý là thị trường dẫn đầu năm nay, với 9,3 GW điện mặt trời được nối lưới, tiếp theo là Đức với 7,5 GW. Chỉ riêng Italy và Đức đã chiếm gần 60% tăng trưởng thị trường toàn cầu trong năm qua. Trung Quốc là thị trường quang điện hàng đầu ngoài châu Âu năm 2011, với 2,2 GW đã được lắp đặt, tiếp theo là Mỹ với 1,9 GW. Số lượng các thị trường đạt hơn 1 GW công suất điện mặt trời bổ sung trong năm 2011 đã tăng từ 3 lên 6, gồm: Ý, Đức, Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản, và Hoa Kỳ. Tại thị trường châu Âu, nơi quang điện đã phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, ít nhất là tới thời điểm này, tới một mức mà sẽ rất khó khăn để duy trì trong hai năm tới. Sự suy thoái thị trường ở châu Âu sẽ không thể ngay lập tức được bù đắp bởi sự tăng trưởng thị trường ở những nơi khác trên thế giới, nhưng việc tái cân bằng thị trường đã bắt đầu. Các thị trường mới trên thế giới cần được mở ra để tạo đà cho sự phát triển quang điện trong thập kỷ tới, giống như thị trường châu Âu đã làm từ trước tới nay. Điều quan trọng, quang điện hiện nay là một phần quan trọng trong cơ cấu phát điện của châu Âu, cung cấp 2% nhu cầu trong EU và khoảng 4% nhu cầu vào giờ cao điểm. Ở Ý, điện mặt trời đáp ứng 5% nhu cầu điện, và hơn 10% nhu cầu vào giờ cao điểm. Ở Bavaria, một bang ở miền nam nước Đức, công suất lắp đặt điện mặt trời bình quân đạt 600 W/đầu người. Điều này có nghĩa là là bình quân khoảng ba tấm pin/đầu người – một con số đáng kinh ngạc. 15 | P a g e Tại Đan Mạch, năm 2000, hơn 30% hộ dân sử dụng tấm thu năng lượng mặt trời, có tác dụng làm nóng nước. Ở Brazil, những vùng xa xôi hiểm trở như Amazon, điện năng lượng mặt trời luôn chiếm vị trí hàng đầu. Ngay tại Đông Nam Á, điện mặt trời ở Philipines cũng đảm bảo nhu cầu sinh hoạt cho 400.000 dân. Chính sách hỗ trợ rất quan trọng để đưa ngành quang điện phát triển – giống như nó rất quan trọng để giúp phát triển tất cả các nguồn năng lượng khác (hóa thạch và điện hạt nhân) trong quá khứ. Nhưng bây giờ quang điện cần phải chứng minh rằng ngành này đang trở thành một ngành công nghiệp trưởng thành, sẵn sàng cho giai đoạn phát triển tiếp theo, để cạnh tranh ngang bằng với bất kỳ một nguồn năng lượng nào khác. 3. Năng lượng mặt trời ở Việt Nam a. Tiềm năng Việt Nam là 1 nước nhiệt đới gió mùa, vị trí địa lý đã ưu ái cho nước ta một nguồn năng lượng mặt trời vô cùng lớn. Việt Nam nằm trong vùng có cường độ bức xạ mặt trời tương đối cao. Nhiều nhất phải kể tới thành phố Hồ Chi Minh, tiếp đến là các vùng Tây Bắc ( Lai Châu, Sơn La, Lào Cai) và vùng Bắc Trung Bộ( Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh)…. Số giờ chiếu sáng là lớn: Với dải bờ biển dài hơn 3.000km, có hàng nghìn đảo hiện có cư dân sinh sống nhưng nhiều nơi không thể đưa điện lưới đến được. Vì vậy, sử dụng năng lượng mặt trời như một nguồn năng lượng tại chỗ để thay thế cho các dạng năng lượng truyền thống, đáp ứng nhu cầu của các vùng dân cư này là một kế sách có ý nghĩa về mặt kinh tế, an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, việc ứng dụng năng lượng mặt trời ở Việt Nam cho đến nay chưa phát triển. b. Thực trạng Ứng dụng năng lượng mặt trời 16 | P a g e Có bốn dạng công nghệ năng lượng mặt trời hiện đang có mặt trên thị trường Việt nam. Đó là công nghệ năng lượng mặt trời quy mô hộ gia đình, quy mô thương mại sử dụng cho các khách sạn, nhà hàng, bệnh viện, quân đội và các trung tâm dịch vụ, cho làng mạc như đèn công cộng, âm thanh, tivi và trạm cho sạc pin. Tại Việt Nam, các tấm pin quang điện (Photo-voltaic: PV) đều được nhập khẩu trong khi thành phần khác của hệ thống thì được sản xuất trong nước. Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT) và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) sở hữu các công ty thành viên có chức năng thiết kế và lắp đặt các hệ thống điện mặt trời cho nhu cầu sử dụng nội bộ. Hiện trạng ứng dụng điện Mặt trời ở Việt Nam • Tổng công suất lắp đặt cho đến nay: khoảng 16-18MWp Trong đó: - 25-30% cho hộ gia đình, installedcapacity: tấm pin 50–80Wp/hệ; các hệ cho hộ tập thể có dàn pin CS1.0 upto100 kWp/hệ. Ngành thông tin viễn thông: 35%, CS dàn pin: 300-10.000 Wp/hệ. Giao thông đường sông, đường biển:35%, CS dàn pin 200-2000 Wp/hệ. • Côngnghệ: - Các hộ miền núi, vùng sâu, vùng xa,… : hệ nguồn PMT độc lập Hệ nguồn lai ghép: hệ cho làng, xã, (PMT + diesel; PMT + thủy điện, PMT + động cơ gió,…+ ắc qui) Ngành viễn thông (PMT + diesel + ắcqui); Ngành giao thông đường thủy (PV + ắcqui). • Giá cả: - Đầu tư hệ thống: 8000-10000 USD/kWp - Riêng môđun PMT: 4000-5000 USD/kWp Ghi chú: PMT tinh thể silic là tấm hấp thụ năng lượng mặt trời, năng lượng thu được phụ thuộc vào mức độ chiếu sáng và cường độ bức xạ vào modun PMT c. Các dự án năng lượng mặt trời Việc đầu tư vào năng lượng mặt trời cho nghiên cứu và phát triển rất đáng kể. Những nguồn tài chính đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu PV chủ yếu từ các tổ chức quốc tế và cấp chính phủ. Tiêu biểu nhất là việc đầu tư vào phòng thí nghiệm bán dẫn của ĐH quốc gia Hồ Chí Minh (với US$ 5 triệu) và phòng thí nghiệm Nano của Khu công nghệ cao – Hồ Chí Minh (với US$ 11 triệu) 17 | P a g e Trong khuôn khổ của chương trình hợp tác điện mặt trời giữa Bộ Ngoại giao Pháp, Điện lực Pháp và Liên minh Châu Âu, trạm năng lượng mặt trời hữu nghị giữa Việt nam và Pháp đã được thành lập tại TP Hồ Chí Minh. Trạm năng lượng mặt trời này thực hiện chương trình cung cấp điện cho các tỉnh như Gia Lai, Quảng Nam và Bình Phước (IEA). Ngoài ra, còn có một dự án trọng điểm SELCO, với sự hợp tác của Liên hiệp Hội phụ nữ Việt Nam với trên 600 hệ thống đang trong quá trình hoạt động Hiện tại, các công ty tư nhân đang dẫn đầu trong lĩnh vực sản xuất pin quang điện PV. Trong số các công ty đó phải kể đến Nhà máy Mặt trời đỏ đặt tại TP Hồ Chí Minh, cung cấp vật liệu cho sản xuất pin mặt trời ở Bình Dương, Việt Vmicro JS ở TP. Hồ Chí Minh... Để xúc tiến việc sử dụng hệ thống đun nước sử dụng năng lượng mặt trời, trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng hiệu quả và tiết kiệm, EVN đã thiết kế một chương trình về hệ thống đun nước nóng sử dụng năng lượng mặt trời vào năm 2009. Chương trình đẩy mạnh việc nghiên cứu, sản xuất và nhập khẩu thiết bị đun nước bằng năng lượng mặt trời sử dụng cho các hộ gia đình và lĩnh vực dịch vụ khác như các trung tâm thương mại, chung cư, bệnh viện, trường học và các văn phòng chính phủ. Các hộ gia đình tham gia chương trình được nhận một khoản hỗ trợ đầu tư là một triệu đồng (tương đương khoảng US$ 50). Các công ty điện trên khắp cả nước, các công ty thiết bị điện mặt trời và Văn phòng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng cũng tham gia vào chương trình này. Cho đến nay, EVN đã xây dựng thí điểm 900 hệ thống bình đun nước sử dụng năng lượng mặt trời, bao gồm PC2 (200), PC-HCM (300), Đồng Nai PC (200) và Đà Nẵng (200). Chương trình được tiếp tục với một kế hoạch để xây dựng thêm 1.000 hệ thống đun nước sử dụng năng lượng mặt trời bởi PC (200), PC3 (250), HCM PC (300), Đồng Nai PC (150) và MTV Đà Nẵng PC (100)). Đầu tư trong lĩnh vực năng lượng mặt trời được xem là mang lại lợi nhuận trong công nghệ đun nước sử dụng nhiệt mặt trời, đặc biệt khi các thiết bị có thể sản xuất được trong nước. Điện mặt trời nối lưới quốc gia mang lại ít lợi nhuận hơn vì giá thành sản phẩm cao hơn so với các dạng năng lượng khác. Đối với quy mô hộ gia đình, điện mặt trời là không kinh tế bởi vì giá thành phẩm đắt mà lượng điện sản xuất lại ít và không ổn định. Thị trường cho hệ thống bình đun nước sử dụng năng lượng mặt trời với quy mô hộ gia đình cũng như quy mô công nghiệp là rất lớn. Vì công nghệ này có giá trị thương mại nên nó có thể được sử dụng để thay thế một phần cho hệ thống đun nước bằng điện ở các toà nhà và công sởhiện được ước tính tiêu thụ khoảng 3,6 tỷ kWh mỗi năm. 18 | P a g e Đầu tư vào lĩnh vực điện mặt trời sẽ gia tăng một cách mạnh mẽ. Chính phủ Việt nam đã chấp thuận sử dụng vốn ODA từ Chính phủ Nhật để xây dựng một nhà máy điện mặt trời nối lưới có công suất 3-5 MWp từ 2009-2012. Chính phủ cũng đã phê duyệt vốn đầu tư nhà máy điện mặt trời ở Củ Chi, TP Hồ Chí Minh, của First Solar, một tập đoàn năng lượng điện mặt trời của Mỹ. Số liệu thống kê của Viện Năng lượng cũng cho thấy tới nay nguồn năng lượng tái tạo mới chiếm 1% tổng công suất điện của Việt Nam, trong khi đó, mục tiêu đến 2030, nguồn năng lượng này sẽ phải chiếm 3%. d. Lộ trình thực hiện: 2010-2020: Lắp đặt các hệ thống sử dụng năng lượng mặt trời: Bảng PMT, bình nước nóng, lưới mặt trời… sử dụng cho sinh hoạt ở các đảo, vùng có nhiều ánh sáng. Tiếp tục nghiên cứu các dạng ứng dụng năng lượng mặt trời: pin mặt trời… 2020-2030: Xem năng lượng mặt trời là nguồn năng lượng quan trọng ưu tiên phát triển. Sử dụng tối đa nguồn năng lượng vô tận này. Kinh phí lắp đặt đầu tư cho các dự án năng lượng mặt trời là rất lớn vì vậy cần sự nguồn đầu tư từ chính phủ, các ngân hàng thương mại. khả năng chỉ có thể là từ các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) và các ngân hàng khác. Cơ quan Công cụ cung cấp tài ghi chú chính Chính phủ Đầu tư vốn Dự án lớn hơn hoặc bằng 50MW Ngân hàng thế cho vay lại vốn ODA đối tượng: chỉ những dự án năng lượng tái tạo có công suất nhỏ hơn 30MW giới ( WB) Ngân hàng phát - cho vay - Xây dựng dự án khả thi triển châu Á - đầu tư cổ phần - Cam kết hỗ trợ EVN để lập báo cáo đầu tư KfW sáng kiến bảo vệ môi - có thể vay đến 50 triệu USD cho dự án trường và khí hậu năng lượng mặt trời 19 | P a g e Ngoài ra có thể huy động vốn từ các tổ chức phi chính phủ, từ tư nhân dưới hình thức phát hành trái phiếu hoặc là đầu tư cổ phần. III.Năng lượng thủy chiều 1.Giới thiệu năng lượng thủy triều "Điện thủy triều" là một loại năng lượng sạch và gần như vô tận. Theo ước tính của Cơ quan Năng lượng Quốc tế, tiềm năng của năng lượng thủy triều trên toàn cầu vào khoảng 800 tỷ KWh/năm, có thể đáp ứng khoảng 5% nhu cầu năng lượng điện hiện nay trên toàn thế giới. Để thu được năng lượng từ sóng, người ta sử dụng phương pháp dao động cột nước. Sóng chảy vào bờ biển, đẩy mực nước lên trong một phòng rộng được xây dựng bên trong dải đất ven bờ biển, một phần bị chìm dưới mặt nước biển. Khi nước dâng, không khí bên trong phòng bị đẩy ra theo một lỗ trống vào một tua bin. Khi sóng rút đi, mực nước hạ xuống bên trong phòng hút không khí đi qua tua bin theo hướng ngược lại. Tua bin xoay tròn làm quay một máy phát để sản xuất điện. 2.Năng lượng thủy triều trên thế giới Hiện nay, nguồn năng lượng điện có thể khai thác được từ thủy triều là mục tiêu mà giới nghiên cứu và các công ty năng lượng đang nhắm tới. Theo ước tính, với công nghệ khai thác như hiện nay, hàng năm thế giới có thể sản xuất được trên dưới 450 tỷ kWh điện từ thủy triều, tương đương tổng lượng điện của 40 nhà máy điện hạt nhân lớn nhất hiện nay 20 | P a g e
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan