Chiến lược phát triển ngành năng lượng việt nam đến năm 2030
Bài tập nhóm
Bộ môn: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
Đề tài : chiến lược phát triển ngành năng lượng Việt
Nam đến năm 2030
Nhóm 6
Danh sách thành viên
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
1|Page
CQ511157
CQ512084
CQ511723
CQ512113
CQ513348
CQ513553
CQ513433
CQ511804
Tạ Thị Hà
Nguyễn Thành Mạnh
Phạm Thị Lan Hương
Phạm Thị Hà Minh
Lộc Thanh Tùng
Ngô Đức Cầm
Nguyễn Đình Vinh
Quách Hồng Khánh
Đề tài: chiến lược phát triển ngành năng lượng Việt Nam
đến năm 2030
Càng ngày, vấn đề năng lượng càng nổi lên và trở thành vấn đề cấp thiết đối với toàn
nhân loại. Những cuộc chiến tranh dầu mỏ, những sự cố điện hạt nhân luôn gây chấn
động trên phạm vi toàn thế giới. Trong từng nước, mức độ cấp bách về năng lượng tuy có
khác nhau nhưng đều được xác định là "sứ mệnh quốc gia" do nhu cầu tiêu thụ năng
lượng ngày càng lớn. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ, chính vì lẽ đó, nhóm chúng
tôi đã tiến hành xây dựng buổi hội thảo về Chiến lược phát triển các nguồn năng lượng
của Việt Nam trong vòng 20 năm tới.
A.Thực trạng các nguồn năng lượng của Việt Nam hiện
nay
I. Các nguồn năng lượng không tái tạo
Năng lượng không tái tạo là những nguồn năng lượng tồn tại hữu hạn, sẽ mất đi hoặc
biến đổi sau quá trình sử dụng. Năng lượng không tái tạo thường là các nhiên liệu hóa
thạch như than, dầu và khí thiên nhiên. Các loại nhiên liệu hóa thạch này phải mất hàng
trăm triệu năm mới hình thành và hiện đang cạn kiệt theo thời gian. Ngoài ra còn có năng
lượng thủy điện và năng lượng hạt nhân.
Thực trạng của một số nguồn năng lượng không tái tạo ở Việt nam hiện nay:
1.Dầu khí
Dầu khí là nguồn khoáng sản quan trọng của nước ta, đến nay, các nhà địa chất dầu khí
đã phát hiện và xác định được tiềm năng dầu khí ở các bể trầm tích Đệ tam khoảng 4,3 tỷ
tấn dầu quy đổi, trong đó trữ lượng dầu là 1,2 tỷ tấn và trữ lượng dầu khí có khả năng
thương mại là 814,7 triệu tấn. Theo dự báo với mức tiêu dùng như hiện tại, thì trữ lượng
này chỉ đảm bảo cung cấp cho 50 năm nữa nếu như không phát hiện và khai thác thêm
những mỏ dầu khí lớn nào nữa.
2.Than đá
2|Page
Nguồn khoáng sản than đá của nước ta đang bắt đầu cạn kiệt. Năm 2011, từ một nước
xuất khẩu than, nước ta đã phải nhâp khẩu những tấn than đầu tiên. Theo dự báo của Tập
đoàn Than khoáng sản, năm 2012, nguồn than khai thác trong nước có thể bị thiếu hụt
khoảng 10 triệu tấn, đến năm 2015 lượng than nhập khẩu sẽ lên tới khoảng 28 triệu tấn.
Hơn nữa, việc khai thác và sử dụng than đá còn thải ra một lượng rất lớn khí CO2, gây
hại lớn đến môi trường.
3.Thủy điện
Tiềm năng thủy điện của nước ta đứng vào hàng thứ 14 trên thế giới với trữ năng khoảng
31 GW (mỗi GW bằng 1 tỷ kW). Sau nhiều chục năm khai thác, thủy điện hiện nay
chiếm 38% tổng sản lượng điện của cả nước. Tuy nhiên, thủy điện cũng có nhiều tiêu
cực. Đó là muốn có thủy điện, phải hy sinh nhiều diện tích rừng, đất đai nông nghiệp màu
mỡ, chưa nói đến nguy cơ vỡ đập gây lũ lụt vùng hạ lưu, những biến đổi về hệ sinh thái.
Điều quan trọng hơn, tiềm năng thủy điện về cơ bản đã khai thác hết, phần chưa khai thác
thường công suất nhỏ, đầu tư tốn kém và rất không ổn định trong hoàn cảnh biến đổi khí
hậu toàn cầu như hiện nay.
4.Năng lượng hạt nhân
Việt Nam đã có những bước đầu trong việc ứng dụng năng lượng hạt nhân, bằng việc xây
dựng nhà máy điện nguyên tử tại Ninh Thuận. Dự kiến nhà máy điện nguyên tử đầu tiên
của Việt Nam sẽ hoạt động vào khoảng năm 2017 - 2020 với kinh phí đầu tư 3,5 tỉ USD.
Tuy nhiên, việc ứng dụng điện hạt nhân còn gây nhiều tranh cãi về mức độ an toàn và vấn
đề môi trường, nhất là khi sau vụ sóng thần động đất tại Nhật Bản.
II. Các nguồn năng lượng tái tạo
Năng lượng tái tạo hay năng lượng tái sinh là năng lượng từ những nguồn liên tục mà
theo chuẩn mực của con người là vô hạn. Nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng năng
lượng tái sinh là tách một phần năng lượng từ các quy trình diễn biến liên tục trong môi
trường và đưa vào trong các sử dụng kỹ thuật.
Nước ta cũng là nước có nhiều gió, bờ biển dài trên 3.200km, giờ nắng từ 2.000 đến
2.500 giờ/năm, chỉ riêng vùng Tây Bắc đã có 300 nguồn địa nhiệt, rất thuận lợi cho việc
sản xuất điện. Trên thực tế, cũng đã có hơn 20 dự án phát triển điện gió cho nhiều hải đảo
và mới đây nhà máy điện gió đầu tiên do Công ty cổ phần Tái tạo năng lượng Việt Nam
và Công ty Fuhrender (Đức) đầu tư đã kết thúc giai đoạn 1, hòa lưới điện quốc gia. Trên
thị trường cũng đã lưu hành bình nước nóng dùng năng lượng mặt trời của Công ty Sơn
3|Page
Hà; hàng nghìn hầm khí biogas đã được xây dựng trên cả nước, chưa kể hàng chục phòng
thí nghiệm, doanh nghiệp đang khẩn trương nghiên cứu sản xuất điện từ năng lượng mặt
trời. Tuy nhiên, những dạng năng lượng này còn ở mức phân tán, nhỏ lẻ, tỷ lệ chưa đáng
kể trong tổng sơ đồ điện toàn quốc.
III. Vấn đề năng lượng của Việt Nam
Từ những phân tích về thực trạng các nguồn năng lượng của Việt Nam, chúng ta có thể
thấy, các nguồn năng lượng của chúng ta không bền vững. Nguồn năng lượng không tái
tạo như than, dầu khí đang dần cạn kiệt, không thể đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ năng
lượng ngày càng tăng của con người trong một thời gian dài, không những thế, việc sử
dụng các nguồn năng lượng này còn làm hủy hoại ô nhiễm môi trường rất lớn. Các nguồn
năng lượng mới như thủy điện hay năng lượng nguyên tử lại gây ra các vấn đề lớn về môi
trường như nguy cơ lũ lụt, biến đổi hệ sinh thái, và nguy hiểm hơn là chất thải phóng xạ
và nguy cơ về sự cố của các lò phản ứng hạt nhân. Từ đó đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu,
phát triển những nguồn năng lượng bền vững: năng lượng tái tạo.
B. Một số cuộc hội thảo về năng lượng
Đứng trước thực trạng nguồn năng lượng Việt Nam và thế giới hiện nay, có không ít
các hội thảo đã được tổ chức ở việt nam và trên thế giới bàn về vấn đề này.
Điển hình như:
-
Hội thảo “năng lượng sạch và tái tạo” tại techmart Việt Nam diễn ra vào
ngày 11/5/2012, tham dự hội thảo có các chuyên gia đầu ngành đến từ
nhiều nước khác nhau trên thế giới như các nước ASEAN, Ân Độ, Nga,
Mỹ…
- Hội thảo bàn về các nguồn năng lượng mới do ban Quản lý Khu công nghệ
cao Hoà Lạc (Bộ KHCN) vừa tổ chức Hội thảo . Dự hội thảo có các giáo
sư, chuyên gia của các viện nghiên cứu, những doanh nghiệp về năng lượng
mới hàng đầu của Việt Nam và các nước Hoa Kỳ, Hàn Quốc…
- Hội thảo chiến lược năng lương ở pháp và suy nghĩ ở Việt Nam diễn ra vào
ngày 14 Tháng Năm 2012 – Tại Trung tâm Kinh tế thuộc Đại học
Panthéon-Sorbonne, Paris 1, do Hội Khoa học và Chuyên gia Việt Nam tại
Pháp (AVSE) đã tổ chức Hội thảo ...
Nội dung chủ yếu của các cuộc hội thảo xoay quanh một số vấn đề quan trọng sau:
-
4|Page
Nhu cầu sử dụng năng lượng của Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng,
việc cung ứng năng lượng đã và đang phải đối mặt với nhiều vấn đề và
thách thức, đặc biệt là sự cạn kiệt dần nguồn nhiên liệu hoá thạch nội địa,
giá dầu cao…
-
Năng lượng sạch đang là ưu tiên cho chính sách phát triển năng lượng của
các quốc gia trên thế giới hiện nay.
Nguồn năng lượng hiện tại đang sử dụng là mối đe dọa cho toàn cầu, là
nguyên nhân gây nên hiện tượng hiện tượng nóng lên của trái đất, mực
nước biển dâng cao…
ứng dụng nghiên cứu năng lượng sạch an toàn, đang được thúc đẩy và
bước đầu áp dụng thành công ở một số nơi trên thế giới
Cây vấn đề:
Nguồn năng lượng
không bền vững
Thiếu hụt năng
lượng
Nguồn
năng
lượng
hóa thạch
dần cạn
kiệt
Năng
lượng thủy
điện đã
khai thác
gần hết
tiềm năng
Khai thác và sử
dụng năng lượng
hiện nay gây ảnh
hưởng đến môi
trường
Năng
lượng tái
tạo chưa
phát triển
Sử dụng
năng
lượng hóa
thạch tạo
ra nhiều
khí CO2
Thủy điện
gây lũ lụt,
mất cân
bằng sinh
thái và giảm
diện tích
rừng
Nguy cơ
ô nhiễm
phóng xạ
từ nguồn
năng
lượng hạt
nhân
Tóm lại: thông qua các buổi hội thảo trên một xu thế mới trong việc sử dụng năng lượng
trong tương lai được được rút ra: tăng cường khai thác sử dụng các nguồn năng lượng tái
tạo, thay thế dần nguồn năng lượng không tái tạo được đang gây ô nhiễm hiện nay.
5|Page
C.Tầm nhìn và chiến lược
Tầm nhìn:
Việt Nam đến năm 2030, các nguồn năng lượng tái tạo đáp ứng được 15% tổng nhu
cầu sử dụng năng lượng phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất.
Chiến lược phát triển
Qua nghiên cứu thực tiễn ở Việt Nam, nhóm đã nhận thấy tiềm năng phát triển của 1
số nguồn năng lượng tái tạo như: gió, năng lượng mặt trời, thủy triều… Trong bối cảnh
công nghệ hiện tại, nguồn năng lượng Gió đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng
thành công, công nghệ năng lượng Gió đã rất phát triển và công suất khá cao, vì vậy
trong thời gian tới Việt Nam sẽ chú trọng phát triển Năng lượng gió, để dần dần đưa các
nguồn năng lượng tái tạo vào thay thế để đáp ứng nhu cầu, ngoài ra tùy thuộc vào điều
kiện tự nhiên của từng vùng miền, chúng ta sẽ có những phương án phát triển các nguồn
năng lượng phù hợp khác như mặt trời, thủy triều, sinh khối.
Sau đây là phần chiến lược cụ thể áp dụng cho từng nguồn năng lượng riêng biệt.
I.Năng lượng gió
1.Giới thiệu
Năng lượng gió là động năng của không khí di chuyển trong bầu khí quyển Trái Đất.
Năng lượng gió là một hình thức gián tiếp của năng lượng mặt trời. Sử dụng năng lượng
gió là một trong các cách lấy năng lượng xa xưa nhất từ môi trường tự nhiên và đã được
biết đến từ thời kỳ Cổ đại.
Năng lượng gió được đánh giá là thân thiện nhất với môi trường và ít gây ảnh hưởng xấu
về mặt xã hội. Khi tính đầy đủ cả các chi phí ngoài – là những chi phí phát sinh bên cạnh
những chi phí sản xuất truyền thống, thì lợi ích của việc sử dụng năng lượng gió càng trở
nên rõ rệt. So với các nguồn năng lượng gây ô nhiễm (ví dụ như ở nhà máy nhiệt điện
Ninh Bình) hay phải di dời quy mô lớn (các nhà máy thủy điện lớn), khi sử dụng năng
lượng gió, người dân không phải chịu thiệt hại do thất thu hoa mầu hay tái định cư, và họ
cũng không phải chịu thêm chi phí y tế và chăm sóc sức khỏe do ô nhiễm. Ngoài ra với
đặc trưng phân tán và nằm sát khu dân cư, năng lượng gió giúp tiết kiệm chi phí truyền
tải. Năng lượng gió giúp đa dạng hóa các nguồn năng lượng, là một điều kiện quan trọng
để tránh phụ thuộc vào một hay một số ít nguồn năng lượng chủ yếu; và chính điều này
giúp phân tán rủi ro và tăng cường an ninh năng lượng.
6|Page
2. Năng lượng gió trên thế giới
Mặc dù điện gió bắt đầu được thế giới để ý đến từ 25 năm trước, nhưng chỉ trong gần 10
năm trở lại đây nó mới khẳng định được vị trí trên thị trường năng lượng thế giới khi sản
lượng điện gió tăng trưởng một cách ngoạn mục với tốc độ 28%/năm, cao nhất trong tất
cả các nguồn năng lượng hiện có (Hình 1). Sự phát triển thần kỳ này của điện gió có
được là nhờ vào một số thay đổi quan trọng trong thời gian qua.
Đầu tiên phải kể đến những tiến bộ về công nghệ có tính đột phá trong thời gian qua đã
giúp giảm giá thành điện gió xuống nhiều lần, đồng thời tăng công suất, hiệu quả, và độ
tin cậy của các trạm điện gió. Cụ thể là nếu như vào năm 1990, công suất trung bình của
một trạm điện gió ở Đan Mạch và Đức chỉ vào khoảng 200 KW, thì đến năm 2002 đã lên
tới 1,5 MW và hiện nay các nước này đang phát triển các tuốc bin lớn cỡ 5-10 MW nhằm
phát triển các trạm điện gió trên thềm lục địa. Hiệu quả của các trạm điện gió này cũng
được cải thiện từ 2 đến 3% mỗi năm, góp phần vào việc giảm 30% giá thành điện gió
trong vòng 12 năm.
Năm 2007 thế giới đã xây mới được khoảng 20073 MW điện, trong đó Mỹ với 5244
MW, Tây Ban Nha 3522MW, Trung Quốc 3449 MW, 1730 MW ở Ấn Độ và 1667 ở Đức,
nâng công suất định mức của các nhà máy sản xuất điện từ gió lên 94.112 MW. Công
suất này có thể thay đổi dựa trên sức gió qua các năm, các nước, các vùng.
STT
Quốc gia
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14
15
Đức
Mỹ
Tây Ban Nha
Ấn Độ
Trung Quốc
Đan Mạch
Ý
Pháp
Anh
Bồ Đào Nha
Ca na đa
Hà Lan
Nhật
Áo
Hy Lạp
7|Page
Công suất
(MW)
22.247
16.818
15.145
8.000
6.050
3.125
2.726
2.454
2.389
2.150
1.846
1.746
1.538
982
871
16
17
18
19
20
Úc
Ai Len
Thụy Điển
Na Uy
Niu Di Lân
Những nước khác
Thế giới
824
805
788
333
322
2.953
94.112
Hội đồng Năng lượng Gió Thế giới cũng đưa ra những dự báo hết sức khả quan cho triển
vọng phát triển năng lượng điện gió. Theo Hội đồng này, đến năm 2020 sản lượng điện
gió sẽ chiếm tới 12% trong tổng sản lượng điện năng của thế giới. Để đạt được mục tiêu
này, thế giới sẽ đầu tư khoảng 100 tỷ USD mỗi năm vào điện gió, đồng thời tạo ra 2,3
triệu việc làm và giảm được một lượng đáng kể khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính. Một thị
trường về năng lượng gió sẽ phát triển mạnh mẽ đưa giá thành lắp đặt cũng như vận hành
điện gió xuống mức rẻ nhất, với chi phí lắp đặt khoảng 600 USD trên một đơn vị kW
công suất và giá điện thương phẩm sẽ dưới 3 USD/kWh.
3. Năng lượng gió ở Việt Nam
a. Tiềm năng
Nằm trong khu vực cận nhiệt đới gió mùa với bờ biển dài, Việt Nam có một thuận lợi cơ
bản để phát triển năng lượng gió. So sánh tốc độ gió trung bình trong vùng Biển Đông
Việt Nam và các vùng biển lân cận cho thấy gió tại Biển Đông khá mạnh và thay đổi
nhiều theo mùa .
Trong chương trình đánh giá về Năng lượng cho Châu Á, Ngân hàng Thế giới đã có một
khảo sát chi tiết về năng lượng gió khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Theo
tính toán của nghiên cứu này, trong bốn nước được khảo sát thì Việt Nam có tiềm năng
gió lớn nhất và hơn hẳn các quốc gia lân cận là Thái Lan, Lào và Campuchia. Trong khi
Việt Nam có tới 8,6% diện tích lãnh thổ được đánh giá có tiềm năng từ “tốt“ đến “rất tốt“
để xây dựng các trạm điện gió cỡ lớn thì diện tích này ở Campuchia là 0,2%, ở Lào là
2,9%, và ở Thái-lan cũng chỉ là 0,2%. Tổng tiềm năng điện gió của Việt Nam ước đạt
513.360 MW tức là bằng hơn 200 lần công suất của thủy điện Sơn La, và hơn 10 lần tổng
công suất dự báo của ngành điện vào năm 2020.
Nếu xét tiêu chuẩn để xây dựng các trạm điện gió cỡ nhỏ phục vụ cho phát triển kinh tế ở
những khu vực khó khăn thì Việt Nam có đến 41% diện tích nông thôn có thể phát triển
điện gió loại nhỏ. Nếu so sánh con số này với các nước láng giềng thì Campuchia có 6%,
Lào có 13% và Thái Lan là 9% diện tích nông thôn có thể phát triển năng lượng gió. Đây
8|Page
quả thật là một ưu đãi dành cho Việt Nam mà chúng ta còn thờ ơ chưa nghĩ đến cách tận
dụng
tiềm năng điện gió của chúng ta chủ yếu tập trung tại duyên hải miền Trung và miền
Nam. Trong đó, có một số nơi như Phước Minh (Ninh Thuận), Tuy Phong (Bình Thuận)
… là những nơi có nhiều tiềm năng nhất bởi có tốc độ gió trung bình lớn, từ 6-7m/giây,
tương ứng các trạm điện gió công suất 3-3,5MW.
Ngoài ra, tại các vùng cao nguyên như Đà Lạt, Lâm Đồng và biển đảo như đảo Phú Quý,
Bạch Long Vĩ cũng là những nơi có cường độ gió hàng năm lớn, rất thích hợp với việc
phát triển điện gió để phục vụ nhu cầu năng lượng tại chỗ cho dân cư.
Trên thực tế, việc phát triển điện gió trong nước đã manh nha kể từ cuối thập kỷ 90. Ban
đầu chỉ là một số loại tua bin gió gia đình, hệ lai ghép tua bin gió - máy phát diesel công
suất nhỏ được các nhà khoa học lắp đặt thử nghiệm tại khu vực ven biển miền Trung…
Tuy nhiên, hầu hết các thử nghiệm này đều ít mang lại hiệu quả.
b. Hiện trạng
Đến tháng 2/2011, 20 tuabin với công suất 1,5 MW/tua-bin đã được lắp dựng thành công
ở Bình Thuận, trong đó 12 tua-bin đã đi vào hoạt động, đưa tổng công suất lắp đặt điện
gió ở Việt Nam khoảng 19 MW. Hơn 30 dự án điện gió của các nhà đầu tư trong nước và
nước ngoài với công suất hơn 3000 MW đang trong giai đoạn chuẩn bị, một số đã nhận
được giấy phép đầu tư. Các nhà phát triển điện gió và cung cấp tua bin có tên tuổi trên
thế giới đã có mặt ở Việt Nam như GE, Gamesa, Nordex, Vestas... Nhiều tổ chức tài
chính quốc tế cũng quan tâm đến lĩnh vực năng lượng tái tạo ở Việt Nam thông qua các
chương trình nâng cao năng lực và tạo dựng thị trường.
Vừa qua, tại xã Bình Thạnh (huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận), Công ty CP Tái tạo
Năng lượng Việt Nam (REVN) và UBND tỉnh Bình Thuận đã chính thức khánh thành
nhà máy điện gió giai đoạn 1. Đây là dự án điện gió đầu tiên của cả nước chính thức đi
vào hoạt động. Theo REVN, toàn bộ dự án (giai đoạn 1) với diện tích 350ha, có 20 trụ
tua bin tháp điện gió. Mỗi tua bin có công suất 7,5 MW. Tất cả tua bin của dự án đều
nhập từ Cộng hòa Liên bang Đức, riêng các trụ tháp ống cao 85 mét được sản xuất trong
nước. Năm 2009, năm tua bin đầu tiên đã được phát điện và đấu nối với lưới điện quốc
gia. Cho đến thời điểm hiện nay, mỗi năm dự án sản xuất ra 85 triệu kWh điện và được
hòa vào lưới điện quốc gia.
9|Page
Ứng dụng
Công suất
Số lượng
Thời gian đưa vào Khu vực lắp đặt
vận hành
Tua-bin gió loại 100-200
gia đình
Khoảng
1000
Từ năm 1999
Khu vực ven biển
miền trung
Hệ lại ghép tua 30.000
bin gió- máy phát
diesel
1
1999
Hải Hậu,
Nam Định
Hệ lai ghép tua- 2.000
bin gió-pin mặt
trời
1
2000
Đắc Hà, Tỉnh Kon
Tum
Tua-bin gió loại 800.000
lớn cho hải đảo
1
2004
Đảo Bạch Long
Vĩ
Tua bin gió nối 1.500.000
lưới
12
5 tua bin năm Tuy Phong, Bình
2009, 7 tua bin đầu Thuận
năm 2011
(WP)
tỉnh
Số liệu thống kê của Viện Năng lượng cũng cho thấy tới nay nguồn năng lượng tái tạo
mới chiếm trên 1% tổng công suất điện của Việt Nam, trong khi đó, mục tiêu đến 2010,
nguồn năng lượng này sẽ phải chiếm 3%.
Lý giải điều này, ông Nguyễn Đức Cường – Giám đốc Trung tâm năng lượng tái tạo
(Viện Năng lượng) cho rằng, phát triển điện gió trong nước còn quá nhiều rào cản. Cụ thể
là việc Chính phủ trợ giá với điện từ nguồn nguyên liệu truyền thống không phản ánh
đúng chi phí thực của thị trường khiến cho giá thành của điện gió cao hơn và khó cạnh
tranh. Mặt khác, vốn đầu tư ban đầu cho việc xây dựng nhà máy điện gió là khá lớn
(khoảng 1800 -2200 USD/KW) nên hầu hết doanh nghiệp trong nước đều không mấy
mặn mà vì thiếu vốn và chịu sự rủi ro cao. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu nguồn nhân lực
cao và các đơn vị tư vấn có chuyên môn cũng là trở ngại lớn về phương diện kỹ thuật
trong ngành này.
10 | P a g e
Về phía các doanh nghiệp nước ngoài, khó khăn lớn nhất lại là vấn đề về cơ chế, chính
sách. Hiện tại trong nước vẫn chưa có một cơ quan nào đứng ra điều phối về hoạt động
năng lượng tái tạo, và cũng chưa có khung chính sách hỗ trợ phát triển năng lượng gió.
Ông Van Hung Albert cho rằng: “Khó khăn lớn nhất của chúng tôi là ở chính sách ưu tiên
hỗ trợ, và khung pháp lý để hoạt động và triển khai dự án trên quy mô lớn”.
c. Đề xuất
- nên có chính sách và các quy định, trợ giá trong việc mua điện từ nguồn năng lượng
gió; chi phí đầu tư cao hơn các hệ thống phát điện truyền thống vì thế chưa đủ sức hấp
dẫn các nhà đầu tư;
- các dịch vụ và khả năng tài chính để có thể vay vốn từ ngân hàng hoặc từ tổ chức tài
chính cho việc phát triển điện gió
- chương trình, qui hoạch và chính sách của chính quyền địa phương và trung ương nên
thật minh bạch, rõ ràng, tránh tình trạng chống chọi nhau !
- kiến thức và năng lực kỹ thuật để thực hiện một công trình điện gió hoàn chỉnh, cũng
như các kỹ thuật cơ bản và dịch vụ bảo quản, bảo trì, điều hành và quản lý NMDG
d. Lộ trình phát triền
Tập trung khai thác gió miền Nam, Nam Trung Bộ và các đảo ngoài khơi
Một số dự án đang được triển khai
Tỉnh
Số
lượng
nhà
đầu tư
Số dự
Hiện trạng
án
Công
suất
lắp đặt(MW) IR
IP
Bình Định
2
2
51
Phú Yên
1
1
50
1
Ninh Thuận
2
2
70
2
Bình Thuận
9
13
1.068
8
4
1
Lâm Đồng
10
12
1.541
6
4
1
1
6
Bà
Ria-Vũng 1
11 | P a g e
TD
UC
IO
2
1
1
Tàu
Tiền Giang
1
1
100
1
Bến Tre
2
2
280
2
Trà Vinh
1
1
93
1
Sóc Trăng
4
4
350
4
Bạc Liêu
1
1
99
Cà Mau
2
2
300
2
Tổng cộng
36
42
3.906
27
1
12
2
0
1
Hiện trạng
IR: Báo cáo đầu tư
IP: Dự án đầu tư
TD: Thiết kế kĩ thuật
UC: Đang xây dựng
IO: Đang vận hành
Tổng cộng, có 42 dự án gió với tổng công suất 3.906 MW đang được triển khai ở những
giai đoạn khác nhau. Quy mô trung bình của dự án là 95 MW với số lượng dự án có công
suất từ 50 đến 100 MW chiếm tỉ lệ lớn nhất, 38%, sau đó là dự án với công suất hơn 100
MW với 26%. 12 trong số 42 dự án có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài đến từ
Đức, Canada, Thụy Sĩ và Argentina với tổng công suất lắp đặt là 1.366MW
Vùng quy hoạch phát triển: Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ, các đảo Bạch Long
Vĩ, Phú Quý
Mục tiêu: tới năm 2020, nước ta sản xuất đươc 2250 MW điện gió, chiếm 3% tổng công
suất sản xuất điện của cả nước
12 | P a g e
Tới năm 2030, nước ta sản xuất được 10.000 MW điện gió, chiếm 7% tổng công suất sản
xuất điện của cả nước
(dự báo công suất sản xuất điện của nước ta năm 2020 là 75000 MW, năm 2030 là
146800 MW)
e. Các khả năng cung cấp tài chính
Với chủ trương là mở rộng đường cho các nhà đầu tư tư nhân, nhà nước ta sẽ có các ưu
tiên và hỗ trợ đặc biệt cho các dự án xây dựng nhà máy điện gió về nhiều mặt như cấp
phép, thủ tục hành chính, nguồn vốn, lãi suất…
Quy mô công suất đặc trưng của một nhà máy điện gió trong khoảng 50-100 MW thì
khoản vốn sẽ nằm trong khoảng 80-160 triệu. Do đó, khả năng chỉ có thể là từ các tổ
chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB), Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) và
các ngân hàng khác
Cơ quan tài công cụ cung cấp tài ghi chú
chính
chính
Ngân hàng thế cho vay lại vốn ODA -đối tường: chỉ những dự án năng lượng
giới ( WB)
tái tạo có công suất nhỏ hơn 30MW
-khoản vay có được chấp nhận hay không
phụ thuộc vào thời gian và mức độ hấp
dẫn của các chính sách hỗ trợ được hình
thành và đưa vào áp dụng
Ngân hàng phát -cho vay
-hiện chưa có hỗ trợ đầu tư cho năng
triển chấu Á
-cơ quan đồng cung lượng tái tạo
cấp tài chính
- ngân hàng đang cam kết hỗ trợ kĩ thuật
-bảo lãnh
trị giá 600.000 USD cho EVN để lập báo
cáo đầu tư
KfW (ngân hàng sáng kiến bảo vệ môi - có thể vay đến 50 triệu USD
tái thiết Đức)
trường và khí hậu
VDB
(ngân Cho vay lại vốn ODA 10 triệu USD sãn sàng
hàng phát triển
Việt Nam)
Dragon Capital
Đồng cung cấp tài Có thể cung cấp tới 7 triệu
chính
13 | P a g e
Tổ chức tài Đồng cung cấp tài
chính
trong chính
nước
Ngoài ra chính phủ còn phát hành trái phiếu ra công chúng để bảo đảm nguồn vốn
II. Năng lượng mặt trời
1. Giới thiệu
Năng lượng Mặt Trời là năng lượng của dòng bức xạ điện từ xuất phát từ Mặt
Trời, cộng với một phần nhỏ năng lượng của các hạt hạ nguyên tử khác phóng ra từ ngôi
sao này. Dòng năng lượng này sẽ tiếp tục phát ra cho đến khi phản ứng hạt nhân trên Mặt
Trời hết nhiên liệu, vào khoảng 5 tỷ năm nữa. Như vậy có thể nói năng lượng mặt trời là
vô tận và sạch nhất của tất cả các nguồn năng lượng được biết đến.
Năng lượng Mặt trời có thể được phân thành hai loại, nhiệt và ánh sáng. N ăng lượng
nhiệt có thể được sử dụng để thụ động nhiệt tòa nhà thông qua việc sử dụng các vật liệu
xây dựng nhất định và thiết kế kiến trúc hoặc sử dụng trực tiếp để đun nóng nước sử dụng
trong hộ gia đình hay công nghiệp. Hiện nay, máy nước nóng năng lượng mặt trời là một
bổ sung hoặc thay thế khả thi cho các nguồn năng lượng khác.
Nhiệt năng thu được từ mặt trời có thể được sử dụng cho một số ứng dụng bao gồm cả
sản xuất nước nóng, đốt nóng không gian và thậm chí làm mát thông qua sử dụng công
nghệ hấp thụ lạnh.
Sử dụng năng lượng mặt trời và các hình thức khác của năng lượng tái tạo làm giảm sự
phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch để sản xuất năng lượng, do đó trực tiếp làm giảm
CO2 phát thải. CO2 phát thải góp phần vào sự ấm lên toàn cầu, một vấn đề môi trường
mà bây giờ đang được quan tâm.
Đối với cuộc sống của loài người, năng lượng Mặt Trời là một nguồn năng lượng tái tạo
quý báu.
Có thể trực tiếp thu lấy năng lượng này thông qua hiệu ứng quang điện, chuyển năng
lượng các photon của Mặt Trời thành điện năng, như trong pin Mặt Trời. Năng lượng của
các photon cũng có thể được hấp thụ để làm nóng các vật thể, tức là chuyển thành nhiệt
năng, sử dụng cho bình đun nước Mặt Trời, hoặc làm sôi nước trong các máy nhiệt điện
của tháp Mặt Trời, hoặc vận động các hệ thống nhiệt như máy điều hòa Mặt Trời.
14 | P a g e
Năng lượng mặt trời có những ưu điểm như: Sạch, chi phí nhiên liệu và bảo dưỡng thấp,
an toàn cho người sử dụng… Đồng thời, phát triển ngành công nghiệp sản xuất pin mặt
trời sẽ góp phần thay thế các nguồn năng lượng hóa thạch, giảm phát khí thải nhà kính,
bảo vệ môi trường. Vì thế, đây được coi là nguồn năng lượng quý giá, có thể thay thế
những dạng năng lượng cũ đang ngày càng cạn kiệt. Từ lâu, nhiều nơi trên thế giới đã sử
dụng năng lượng mặt trời như một giải pháp thay thế những nguồn tài nguyên truyền
thống.
2. Thực trạng sử dụng quang năng trên thế giới
Giống như trong suốt thập kỷ qua, các thị trường quang điện lại tăng trưởng nhanh
hơn bất cứ ai đã dự kiến cả ở châu Âu và trên thế giới. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng
nhanh chóng đó sẽ không thể kéo dài mãi mãi, và ngành công nghiệp quang điện đang
trải qua thời kỳ bất ổn ngắn hạn. Nhưng trong trung và dài hạn, ngành này có triển vọng
tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Những kết quả của năm 2011 – và cả triển vọng cho những
năm tiếp theo – cho thấy rằng với các điều kiện chính sách đúng đắn, ngành quang điện
có thể tiếp tục tăng trưởng, tiến tới sự cạnh tranh đầy đủ trên thị trường cung cấp điện, và
trở thành một nguồn năng lượng chủ đạo. Cụ thể:
29,7 GW hệ thống điện mặt trời được kết nối với lưới điện trong năm 2011, tăng
từ 16,8 GW trong năm 2010. Điện mặt trời hiện nay, chỉ đứng sau thủy điện và điện gió,
là nguồn năng lượng tái tạo quan trọng thứ ba về công suất lắp đặt toàn cầu.
21,9 GW điện mặt trời đã được nối lưới ở châu Âu vào năm 2011, so với 13,4 GW
trong năm 2010. Châu Âu vẫn chiếm phần chủ yếu của thị trường quang điện toàn cầu,
với 75% tổng công suất lắp đặt mới trong năm 2011.
Ý là thị trường dẫn đầu năm nay, với 9,3 GW điện mặt trời được nối lưới, tiếp theo
là Đức với 7,5 GW. Chỉ riêng Italy và Đức đã chiếm gần 60% tăng trưởng thị trường toàn
cầu trong năm qua.
Trung Quốc là thị trường quang điện hàng đầu ngoài châu Âu năm 2011, với 2,2 GW đã
được lắp đặt, tiếp theo là Mỹ với 1,9 GW.
Số lượng các thị trường đạt hơn 1 GW công suất điện mặt trời bổ sung trong năm 2011 đã
tăng từ 3 lên 6, gồm: Ý, Đức, Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản, và Hoa Kỳ.
Tại thị trường châu Âu, nơi quang điện đã phát triển mạnh mẽ trong những năm
gần đây, ít nhất là tới thời điểm này, tới một mức mà sẽ rất khó khăn để duy trì trong hai
năm tới. Sự suy thoái thị trường ở châu Âu sẽ không thể ngay lập tức được bù đắp bởi sự
tăng trưởng thị trường ở những nơi khác trên thế giới, nhưng việc tái cân bằng thị trường
đã bắt đầu. Các thị trường mới trên thế giới cần được mở ra để tạo đà cho sự phát triển
quang điện trong thập kỷ tới, giống như thị trường châu Âu đã làm từ trước tới nay.
Điều quan trọng, quang điện hiện nay là một phần quan trọng trong cơ cấu phát
điện của châu Âu, cung cấp 2% nhu cầu trong EU và khoảng 4% nhu cầu vào giờ cao
điểm. Ở Ý, điện mặt trời đáp ứng 5% nhu cầu điện, và hơn 10% nhu cầu vào giờ cao
điểm. Ở Bavaria, một bang ở miền nam nước Đức, công suất lắp đặt điện mặt trời bình
quân đạt 600 W/đầu người. Điều này có nghĩa là là bình quân khoảng ba tấm pin/đầu
người – một con số đáng kinh ngạc.
15 | P a g e
Tại Đan Mạch, năm 2000, hơn 30% hộ dân sử dụng tấm thu năng lượng mặt trời,
có tác dụng làm nóng nước. Ở Brazil, những vùng xa xôi hiểm trở như Amazon, điện
năng lượng mặt trời luôn chiếm vị trí hàng đầu. Ngay tại Đông Nam Á, điện mặt trời ở
Philipines cũng đảm bảo nhu cầu sinh hoạt cho 400.000 dân.
Chính sách hỗ trợ rất quan trọng để đưa ngành quang điện phát triển – giống như
nó rất quan trọng để giúp phát triển tất cả các nguồn năng lượng khác (hóa thạch và điện
hạt nhân) trong quá khứ. Nhưng bây giờ quang điện cần phải chứng minh rằng ngành này
đang trở thành một ngành công nghiệp trưởng thành, sẵn sàng cho giai đoạn phát triển
tiếp theo, để cạnh tranh ngang bằng với bất kỳ một nguồn năng lượng nào khác.
3. Năng lượng mặt trời ở Việt Nam
a. Tiềm năng
Việt Nam là 1 nước nhiệt đới gió mùa, vị trí địa lý đã ưu ái cho nước ta một nguồn
năng lượng mặt trời vô cùng lớn. Việt Nam nằm trong vùng có cường độ bức xạ mặt trời
tương đối cao. Nhiều nhất phải kể tới thành phố Hồ Chi Minh, tiếp đến là các vùng Tây
Bắc ( Lai Châu, Sơn La, Lào Cai) và vùng Bắc Trung Bộ( Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh)…. Số giờ chiếu sáng là lớn:
Với dải bờ biển dài hơn 3.000km, có hàng nghìn đảo hiện có cư dân sinh sống
nhưng nhiều nơi không thể đưa điện lưới đến được.
Vì vậy, sử dụng năng lượng mặt trời như một nguồn năng lượng tại chỗ để thay thế cho
các dạng năng lượng truyền thống, đáp ứng nhu cầu của các vùng dân cư này là một kế
sách có ý nghĩa về mặt kinh tế, an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, việc ứng dụng năng
lượng mặt trời ở Việt Nam cho đến nay chưa phát triển.
b. Thực trạng
Ứng dụng năng lượng mặt trời
16 | P a g e
Có bốn dạng công nghệ năng lượng mặt trời hiện đang có mặt trên thị trường Việt
nam. Đó là công nghệ năng lượng mặt trời quy mô hộ gia đình, quy mô thương mại sử
dụng cho các khách sạn, nhà hàng, bệnh viện, quân đội và các trung tâm dịch vụ, cho
làng mạc như đèn công cộng, âm thanh, tivi và trạm cho sạc pin.
Tại Việt Nam, các tấm pin quang điện (Photo-voltaic: PV) đều được nhập khẩu trong khi
thành phần khác của hệ thống thì được sản xuất trong nước. Tập đoàn Bưu chính viễn
thông Việt Nam (VNPT) và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) sở hữu các công ty
thành viên có chức năng thiết kế và lắp đặt các hệ thống điện mặt trời cho nhu cầu sử
dụng nội bộ.
Hiện trạng ứng dụng điện Mặt trời ở Việt Nam
• Tổng công suất lắp đặt cho đến nay: khoảng 16-18MWp
Trong đó:
-
25-30% cho hộ gia đình, installedcapacity: tấm pin 50–80Wp/hệ; các hệ cho hộ
tập thể có dàn pin CS1.0 upto100 kWp/hệ.
Ngành thông tin viễn thông: 35%, CS dàn pin: 300-10.000 Wp/hệ.
Giao thông đường sông, đường biển:35%, CS dàn pin 200-2000 Wp/hệ.
• Côngnghệ:
-
Các hộ miền núi, vùng sâu, vùng xa,… : hệ nguồn PMT độc lập
Hệ nguồn lai ghép: hệ cho làng, xã, (PMT + diesel; PMT + thủy điện, PMT + động
cơ gió,…+ ắc qui) Ngành viễn thông (PMT + diesel + ắcqui); Ngành giao thông
đường thủy (PV + ắcqui).
• Giá cả:
- Đầu tư hệ thống: 8000-10000 USD/kWp
- Riêng môđun PMT: 4000-5000 USD/kWp
Ghi chú: PMT tinh thể silic là tấm hấp thụ năng lượng mặt trời, năng lượng thu được
phụ thuộc vào mức độ chiếu sáng và cường độ bức xạ vào modun PMT
c. Các dự án năng lượng mặt trời
Việc đầu tư vào năng lượng mặt trời cho nghiên cứu và phát triển rất đáng kể. Những
nguồn tài chính đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu PV chủ yếu từ các tổ chức quốc tế
và cấp chính phủ. Tiêu biểu nhất là việc đầu tư vào phòng thí nghiệm bán dẫn của ĐH
quốc gia Hồ Chí Minh (với US$ 5 triệu) và phòng thí nghiệm Nano của Khu công nghệ
cao – Hồ Chí Minh (với US$ 11 triệu)
17 | P a g e
Trong khuôn khổ của chương trình hợp tác điện mặt trời giữa Bộ Ngoại giao Pháp,
Điện lực Pháp và Liên minh Châu Âu, trạm năng lượng mặt trời hữu nghị giữa Việt nam
và Pháp đã được thành lập tại TP Hồ Chí Minh. Trạm năng lượng mặt trời này thực hiện
chương trình cung cấp điện cho các tỉnh như Gia Lai, Quảng Nam và Bình Phước (IEA).
Ngoài ra, còn có một dự án trọng điểm SELCO, với sự hợp tác của Liên hiệp Hội phụ nữ
Việt Nam với trên 600 hệ thống đang trong quá trình hoạt động
Hiện tại, các công ty tư nhân đang dẫn đầu trong lĩnh vực sản xuất pin quang điện PV.
Trong số các công ty đó phải kể đến Nhà máy Mặt trời đỏ đặt tại TP Hồ Chí Minh, cung
cấp vật liệu cho sản xuất pin mặt trời ở Bình Dương, Việt Vmicro JS ở TP. Hồ Chí
Minh...
Để xúc tiến việc sử dụng hệ thống đun nước sử dụng năng lượng mặt trời, trong
khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng hiệu quả và tiết kiệm,
EVN đã thiết kế một chương trình về hệ thống đun nước nóng sử dụng năng lượng mặt
trời vào năm 2009. Chương trình đẩy mạnh việc nghiên cứu, sản xuất và nhập khẩu thiết
bị đun nước bằng năng lượng mặt trời sử dụng cho các hộ gia đình và lĩnh vực dịch vụ
khác như các trung tâm thương mại, chung cư, bệnh viện, trường học và các văn phòng
chính phủ. Các hộ gia đình tham gia chương trình được nhận một khoản hỗ trợ đầu tư là
một triệu đồng (tương đương khoảng US$ 50). Các công ty điện trên khắp cả nước, các
công ty thiết bị điện mặt trời và Văn phòng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng cũng tham
gia vào chương trình này. Cho đến nay, EVN đã xây dựng thí điểm 900 hệ thống bình đun
nước sử dụng năng lượng mặt trời, bao gồm PC2 (200), PC-HCM (300), Đồng Nai PC
(200) và Đà Nẵng (200). Chương trình được tiếp tục với một kế hoạch để xây dựng thêm
1.000 hệ thống đun nước sử dụng năng lượng mặt trời bởi PC (200), PC3 (250), HCM PC
(300), Đồng Nai PC (150) và MTV Đà Nẵng PC (100)).
Đầu tư trong lĩnh vực năng lượng mặt trời được xem là mang lại lợi nhuận trong công
nghệ đun nước sử dụng nhiệt mặt trời, đặc biệt khi các thiết bị có thể sản xuất được trong
nước. Điện mặt trời nối lưới quốc gia mang lại ít lợi nhuận hơn vì giá thành sản phẩm
cao hơn so với các dạng năng lượng khác. Đối với quy mô hộ gia đình, điện mặt trời là
không kinh tế bởi vì giá thành phẩm đắt mà lượng điện sản xuất lại ít và không ổn định.
Thị trường cho hệ thống bình đun nước sử dụng năng lượng mặt trời với quy mô hộ
gia đình cũng như quy mô công nghiệp là rất lớn. Vì công nghệ này có giá trị thương mại
nên nó có thể được sử dụng để thay thế một phần cho hệ thống đun nước bằng điện ở các
toà nhà và công sởhiện được ước tính tiêu thụ khoảng 3,6 tỷ kWh mỗi năm.
18 | P a g e
Đầu tư vào lĩnh vực điện mặt trời sẽ gia tăng một cách mạnh mẽ. Chính phủ Việt nam
đã chấp thuận sử dụng vốn ODA từ Chính phủ Nhật để xây dựng một nhà máy điện mặt
trời nối lưới có công suất 3-5 MWp từ 2009-2012. Chính phủ cũng đã phê duyệt vốn đầu
tư nhà máy điện mặt trời ở Củ Chi, TP Hồ Chí Minh, của First Solar, một tập đoàn năng
lượng điện mặt trời của Mỹ.
Số liệu thống kê của Viện Năng lượng cũng cho thấy tới nay nguồn năng lượng tái tạo
mới chiếm 1% tổng công suất điện của Việt Nam, trong khi đó, mục tiêu đến 2030, nguồn
năng lượng này sẽ phải chiếm 3%.
d. Lộ trình thực hiện:
2010-2020: Lắp đặt các hệ thống sử dụng năng lượng mặt trời: Bảng PMT, bình nước
nóng, lưới mặt trời… sử dụng cho sinh hoạt ở các đảo, vùng có nhiều ánh sáng.
Tiếp tục nghiên cứu các dạng ứng dụng năng lượng mặt trời: pin mặt trời…
2020-2030: Xem năng lượng mặt trời là nguồn năng lượng quan trọng ưu tiên phát
triển. Sử dụng tối đa nguồn năng lượng vô tận này.
Kinh phí lắp đặt đầu tư cho các dự án năng lượng mặt trời là rất lớn vì vậy cần sự
nguồn đầu tư từ chính phủ, các ngân hàng thương mại. khả năng chỉ có thể là từ các tổ
chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB), Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) và
các ngân hàng khác.
Cơ quan
Công cụ cung cấp tài ghi chú
chính
Chính phủ
Đầu tư vốn
Dự án lớn hơn hoặc bằng 50MW
Ngân hàng thế cho vay lại vốn ODA đối tượng: chỉ những dự án năng lượng
tái tạo có công suất nhỏ hơn 30MW
giới ( WB)
Ngân hàng phát - cho vay
- Xây dựng dự án khả thi
triển châu Á
- đầu tư cổ phần
- Cam kết hỗ trợ EVN để lập báo cáo đầu
tư
KfW
sáng kiến bảo vệ môi - có thể vay đến 50 triệu USD cho dự án
trường và khí hậu
năng lượng mặt trời
19 | P a g e
Ngoài ra có thể huy động vốn từ các tổ chức phi chính phủ, từ tư nhân dưới hình thức
phát hành trái phiếu hoặc là đầu tư cổ phần.
III.Năng lượng thủy chiều
1.Giới thiệu năng lượng thủy triều
"Điện thủy triều" là một loại năng lượng sạch và gần như vô tận. Theo ước tính của Cơ
quan Năng lượng Quốc tế, tiềm năng của năng lượng thủy triều trên toàn cầu vào khoảng
800 tỷ KWh/năm, có thể đáp ứng khoảng 5% nhu cầu năng lượng điện hiện nay trên toàn
thế giới.
Để thu được năng lượng từ sóng, người ta sử dụng phương pháp dao động cột nước. Sóng
chảy vào bờ biển, đẩy mực nước lên trong một phòng rộng được xây dựng bên trong dải
đất ven bờ biển, một phần bị chìm dưới mặt nước biển. Khi nước dâng, không khí bên
trong phòng bị đẩy ra theo một lỗ trống vào một tua bin. Khi sóng rút đi, mực nước hạ
xuống bên trong phòng hút không khí đi qua tua bin theo hướng ngược lại. Tua bin xoay
tròn làm quay một máy phát để sản xuất điện.
2.Năng lượng thủy triều trên thế giới
Hiện nay, nguồn năng lượng điện có thể khai thác được từ thủy triều là mục tiêu mà giới
nghiên cứu và các công ty năng lượng đang nhắm tới. Theo ước tính, với công nghệ khai
thác như hiện nay, hàng năm thế giới có thể sản xuất được trên dưới 450 tỷ kWh điện từ
thủy triều, tương đương tổng lượng điện của 40 nhà máy điện hạt nhân lớn nhất hiện nay
20 | P a g e
- Xem thêm -