Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chiến lược phát triển cho các ngân hàng thương mại cổ phần vừa và nhỏ tại thành ...

Tài liệu Chiến lược phát triển cho các ngân hàng thương mại cổ phần vừa và nhỏ tại thành phố hồ chí minh

.PDF
81
172
50

Mô tả:

1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã cho thấy, không chỉ tại các quốc gia nghèo mà ngay cả tại các quốc gia giàu có, sự tồn tại, phát triển của hệ thống Ngân hàng vừa và nhỏ cũng là một tất yếu khách quan. Đối với nhiều quốc gia, thậm chí điều ấy còn có ý nghĩa quan trọng trong việc làm gia tăng thu nhập quốc dân và ổn định đời sống an sinh xã hội. Tuy nhiên, trong thời gian qua bên cạnh các chính sách điều hành duy ý chí của ngân hàng Nhà nước, những bất cập của các nhà làm luật, Sự khát vọng làm giàu quá mức của nhiều nhà quản trị, đã là tác nhân thúc đẩy hầu hết các NHVVN tại Việt Nam phát triển theo hướng lệch lạc, chọn phát triển ngân hàng theo hướng đa năng có tầm vóc khu vực và quốc tế làm mục tiêu. Việc chạy theo xu thế thị trường, tập trung quá dày tại các đô thị, đầu tư tín dụng quá mức vào các đối tượng khách hàng cá nhân có thu nhập cao, chủ yếu là công nhân viên chức, cùng với các doanh nghiệp dân doanh cổ phần hóa, đã góp phần không nhỏ trong việc tạo ra một nền kinh tế ảo, đầu tư kinh doanh sai lệch, để lại nhiều dấu hiệu chỉ báo méo mó. Kết quả, đã đây nhiều ngân hàng rơi vào tình trạng nợ xấu, lỗ lã, buộc phải tái cấu trúc, hợp nhất, thậm chí bị thôn tính bán rẻ… Sự việc đặc biệt nghiêm trọng, khi việc tập trung tín dụng đầu tư thiên lệch đã đẩy đại bộ phận công chúng là các hộ kinh tế gia đình nghèo và công chúng có hoàn cảnh khó khăn, nhất là tại các vùng nông thôn, do không tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng rơi vào tình cảnh nợ nần, túng thiếu, đời sống bấp bênh. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến làm gia tăng thảm cảnh gia đình, tệ nạn và những bất ổn cho xã hội hiện nay, khiến lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng ngày càng bị sụt giảm tệ hại. Để vượt qua được những khó khăn hiện tại và phát triển bền vững trong tương lai, việc khẩn trương tìm kiếm một giải pháp đúng đắn, cùng với những bước đi thích hợp không chỉ là nhiệm vụ trọng tâm của bản thân các ngân hàng mà cũng là 2 nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị hiện nay. Đây cũng là lý do tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Chiến lược phát triển cho các Ngân hàng TMCP vừa và nhỏ tại Thành phố Hồ Chí Minh” làm hướng nghiên cứu luận văn Thạc sỹ chuyên ngành quản trị kinh doanh. 2. Mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở xác định vị trí, vai trò của NHVVN thông qua hoạt động kinh doanh đối với sự phát triển kinh tế. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm góp phần làm sáng tỏ hơn về cơ sở lý luận về sự tồn tại và phát triển của hệ thống các NHVVN. Đồng thời đề tài cũng đưa ra một số giải pháp, lối đi, hướng phát triển phù hợp với thực tiễn và xu hướng chung của Việt Nam và thế giới nhằm giải quyết những bế tắc trong việc định vị chiến lược. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:  Đối tượng nghiên cứu: là tình hình hoạt động, môi trường kinh doanh của toàn bộ hệ thống Ngân hàng TMCP tại Việt Nam mà trọng tâm là các Ngân hàng TMCP vừa và nhỏ.  Phạm vi nghiên cứu: các Ngân hàng TMCP tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 4. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, kết hợp với các phương pháp thống kê so sánh, xử lý hệ thống, mô hình hóa kinh tế vĩ mô, có đối chứng với các phương pháp nghiên cứu khoa học thích hợp. Đề tài cũng tiếp thu ý kiến của nhiều chuyên gia, cán bộ quản lý, điều hành có liên quan để hoàn thiện các giải pháp, chiến lược. 5. Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài chia làm 3 chương:  Chương 1: Cơ sở lý luận  Chương 2: Thực trạng tình hình kinh doanh của các NHVVN tại TP.HCM  Chương 3: Chiến lược phát triển các NHVVN tại Thành phố Hồ Chí Minh 3 CHƯƠNG 01: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VỪA VÀ NHỎ 1.1. Khái quát về chiến lược phát triển ngân hàng thương mại vừa và nhỏ 1.1.1. Khái niệm chiến lược phát triển kinh doanh: Chiến lược phát triển là phân tích, tìm hiểu và đưa ra con đường cơ bản, phát họa quỹ đạo tiến triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh, là kế hoạch mang tính toàn diện, phối hợp và thống nhất được rèn dũa kỹ lưỡng nhất nhằm dẫn dắt đơn vị kinh doanh đảm bảo mục tiêu của đơn vị kinh doanh. Chiến lược phát triển ấn định các mục tiêu cơ bản của đơn vị kinh doanh, lựa chọn phương tiện và cách thức hành động, phân bổ các nguồn lực thiết yếu để thực hiện mục tiêu kinh doanh. 1.1.2. Tầm quan trọng của chiến lược phát triển kinh doanh: Chiến lược kinh doanh đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển ngân hàng. Chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ tạo một hướng đi tốt, là kim chỉ nam dẫn đường cho ngân hàng phát triển đúng hướng. Tầm quan trọng của chiến lược kinh doanh được thể hiện ở những mặt sau: - Định hướng cho hoạt động kinh doanh trong tương lai thông qua phân tích và dự báo môi trường kinh doanh. - Nắm bắt được những cơ hội cũng như những nguy cơ đối với sự phát triển nguồn lực doanh nghiệp. - Tạo ra một quỹ đạo hoạt động, giúp ngân hàng liên kết được các cá nhân với các lợi ích khác cùng hướng tới một mục đích chung để cùng phát triển. - Công cụ cạnh tranh có hiệu quả tạo ra ảnh hưởng và phụ thuộc qua lại lẫn nhau giữa các ngân hàng bên cạnh những yếu tố cạnh tranh như: giá cả, chất lượng, quảng cáo, marketing. 1.1.3. Phân loại chiến lược kinh doanh: Chiến lược kinh doanh có nhiều cách tiếp cận - Căn cứ theo phạm vi chiến lược có hai loại: 4  Chiến lược chung (chiến lược tổng quát): đề cập đến những vấn đề quan trọng nhất, bao trùm nhất, có ý nghĩa lâu dài, quyết định đến những vấn đề sống còn của ngân hàng.  Chiến lược bộ phận: là loại chiến lược cấp 2, bao gồm chiến lược sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến bán hàng. - Căn cứ theo nội dung có nhiều loại như: chiến lược thương mại, chiến lược tài chính, chiến lược công nghệ và kỹ thuật, chiến lược con người,… 1.2. Lý luận về hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 1.2.1. Khái quát về kinh doanh ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là tổ chức “đi vay để cho vay”, dựa trên sự tín nhiệm được luật pháp cho phép, bằng cách “khơi nguồn vốn từ những người vì một lý do nào đó không dùng tiền một cách sinh lợi, sang những người có ý muốn dùng tiền để sinh lợi”. Thông qua hoạt động “mua tài sản nợ bán tài sản có”, các ngân hàng có thể tạo ra lợi nhuận mà không cần phải sử dụng vốn tự có. Theo quá trình phát triển, hệ thống ngân hàng thương mại trở thành trung tâm tiền tệ, thanh toán và tín dụng của nền kinh tế, với quan niệm là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cung cấp các khoản vay, các công nghệ kiếm tiền tiên tiến nhất, với các sản phẩm cho vay, bán lẻ, thu phí thanh toán và phổ cập sử dụng thẻ tín dụng... đa dạng. Tuy nhiên là lĩnh vực có tính nhạy cảm cao, nên cho dù mọi hoạt động đều đang được tiến hành tốt đẹp, các ngân hàng thương mại vẫn có thể phải gánh chịu những tổn thất do những rủi ro phát sinh bất ngờ, đặc biệt các rủi ro từ các nghiệp vụ tín dụng. Do mỗi nghiệp vụ đều có nhiều phương thức cung cấp tín dụng khác nhau, trong khi đặc điểm vận động vốn và vận động vật chất của từng đối tượng cho vay lại khá đa dạng và phức tạp, môi trường kinh tế thường xuyên biến động. Để ngăn chận rủi ro, về cơ bản các ngân hàng thương mại đều phải quan tâm đến quản trị điều hành, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực sử dụng vốn, ngăn chận các nguy cơ rủi ro. Tuy nhiên, để phát triển bền vững, lâu dài mục tiêu của các ngân hàng thương mại phải tập trung hơn nữa vào việc phát triển hiện đại hóa công nghệ quản trị rủi ro, tái cấu trúc tổ chức, chuẩn hóa nghiệp vụ, định vị nhân sự, luật 5 hóa trách nhiệm, marketing ... với quan niệm này kinh doanh của các NHTM còn được hiểu là hoạt động “mua rủi ro và bán sự an toàn” cho khách hàng. 1.2.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại luôn nổi bật với bốn đặc điểm cơ bản là có tính chuyên biệt, tính trung gian, tính chấp nhận và quản lý rủi ro, tính chịu trách nhiệm cao đối với xã hội. 1.2.2.1. Kinh doanh ngân hàng mang tính chất chuyên biệt Cũng như các tổ chức tín dụng khác, đối tượng kinh doanh của ngân hàng chủ yếu là các tài sản tài chính, bao gồm các loại giấy tờ công nợ có thể mua bán được trên các thị trường như tiền nợ cho vay, các trái quyền đầu tư. Nhưng ngân hàng thương mại được phép huy động tiền gửi ngắn hạn, được tạo ra các phương tiện thanh toán và thực hiện nghiệp vụ thấu chi trên cơ sở cấp các tài khoản giao dịch, trong khi các TCTD khác chỉ được phép huy động các nguồn vốn trung và dài hạn. Hoạt động kinh doanh ngân hàng cơ bản chứa đựng 4 loại hình: người bán lẻ, dịch vụ chuyên nghiệp, xí nghiệp sản xuất và công ty thương mại. Bảng 1.1: Phân tích sự tương đồng giữa các mô hình kinh doanh và các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại, đầu cơ. Mô hình kinh doanh Nghiệp vụ ngân hàng Người bán lẻ Dịch vụ ngân hàng bán lẻ Dịch vụ chuyên nghiệp Dịch vụ ngân hàng tư nhân, quản lý tài sản, cho vay Xí nghiệp sản xuất Nghiệp vụ cho vay thế chấp, trả góp, thẻ tín dụng,… Công ty thương mại, đầu cơ 1.2.2.2. Dịch vụ ngoại hối, tự doanh Kinh doanh ngân hàng là làm trung gian: Ngân hàng là cầu nối giữa các nhu cầu của khách hàng, giữa các mục tiêu khác nhau, thực hiện vai trò làm trung gian cho khách hàng về thanh toán, tiền tệ, quy mô, kỳ hạn, phân tán rủi ro, phân bổ tài sản và trung gian thông tin, truyền đạt các chính sách tiền tệ. Thông qua quá trình thực hiện các hoạt động trung gian, ngân 6 hàng mang lại lợi ích cho cả người gửi tiền và người đi vay. Mối quan hệ trong quá trình thực hiện vai trò trung gian của ngân hàng Hình 1.1: Các mối quan hệ trong quá trình thực hiện vai trò trung gian của ngân hàng. 1.2.2.3. Kinh doanh ngân hàng dựa trên cơ sở rủi ro và quản lý rủi ro Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ, tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay để cho vay, do đó tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở hữu (tỷ lệ “đòn bẩy”) luôn rất cao. Việc duy trì tài sản Nợ luôn lớn hơn tài sản Có kinh doanh, cũng như các khoản mục/ nghĩa vụ ngoại bảng với quy mô khá lớn là nơi chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn. Đó cũng là mức “giá phải trả” để có được doanh thu mong muốn. Vì vậy, mục đích kinh doanh của ngân hàng không phải giảm thiểu rủi ro mà là quản lý rủi ro một cách đúng đắn. 1.2.2.4. Kinh doanh ngân hàng chịu trách nhiệm lớn đối với xã hội Kinh doanh tiền tệ luôn gắn liền với những rủi ro bất ngờ như rủi ro sai lệch về quy mô, kỳ hạn,... phát sinh từ các biến động liên quan đến giá trị của đồng tiền, cũng như từ quá trình làm trung gian tài chính. Khi rủi ro xảy ra, sự tổn thất của ngân hàng thường gây ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định của nền kinh tế và xã hội. Việc sử dụng vốn của xã hội để cho vay dựa trên cơ sở của sự tín nhiệm được luật pháp cho phép. Chính những ràng buộc này đòi hỏi ngân hàng không chỉ chịu trách nhiệm lớn trước các cổ đông về việc tạo ra giá trị lợi ích cao, mà còn phải hành xử 7 có trách nhiệm đối với nhiều nhóm người khác có lợi ích liên quan. Nói chung, mọi quyết định của ngân hàng đều phải được cân nhắc rất thận trọng về những tác động xấu đến các lợi ích của xã hội, cộng đồng và cả sự phát triển lâu dài của nền kinh tế. 1.2.3. Chức năng của Ngân hàng thương mại - Chức năng của Ngân hàng thương mại truyền thống Theo truyền thống, ngân hàng thương mại có 3 chức năng cơ bản là chức năng huy động tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi, chức năng sử dụng vốn để cho vay và chức năng tạo tiền. Ba chức năng trên được thực hiện thông qua bốn khía cạnh, trung gian tài chính, trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán, tạo tiền và sản xuất cung ứng các dịch vụ tài chính. - Chức năng của Ngân hàng thương mại hiện đại Theo quan điểm hiện đại, các tập đoàn ngân hàng thường xây dựng mô hình kinh doanh theo kiểu đa chức năng, thực hiện tất cả các hoạt động, các nghiệp vụ kinh doanh của cả ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư. Một ngân hàng đa năng có thể tham gia sở hữu các cổ phần trong các tập đoàn công nghiệp, thực hiện các dịch vụ tài chính đa dạng như: kinh doanh các công cụ tài chính, kinh doanh ngoại hối, nhận bảo hiểm các loại nợ (hay bảo lãnh nợ), phát hành cổ phiếu, quản lý đầu tư, bảo hiểm cũng như mở rộng việc cung cấp các tín dụng hay dịch vụ tiền gửi. Hình 1.2: Mô hình ngân hàng đa năng 1.3. Cơ sở định vị cho ngân hàng thương mại vừa và nhỏ 1.3.1. Định nghĩa Ngân hàng thương mại vừa và nhỏ. 8 Tuy chưa có một văn bản pháp lý nào đề cập đến định nghĩa cụ thể về thuật ngữ ngân hàng thương mại vừa và nhỏ nhưng trong công tác thống kê, phân loại, đánh giá của các nhà phân tích thị trường, thuật ngữ này đã được sử dụng khá thường xuyên. Theo quan điểm chung, ngân hàng thương mại vừa và nhỏ, gọi tắt là ngân hàng vừa và nhỏ (NHVVN) là một trong các loại hình ngân hàng thương mại có quy mô vốn và điều kiện hoạt động ở mức vừa phải, nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt trong đời sống của công chúng, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và thúc đẩy phát triển kinh tế trong cộng đồng dân cư. Tại Việt Nam, hệ thống các NHVVN tiền thân là các NHTMCP được hình thành xuất phát từ đường lối đổi mới kinh tế của Đảng: “chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”, nhằm kích thích tác dụng tích cực lâu dài của các hình thức sở hữu khác nhau vào phát triển cơ cấu kinh tế quốc dân. Mặc dầu, được khởi xướng từ nghị định 53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, nhưng chỉ sau khi Pháp lệnh Ngân hàng được ban hành vào tháng 5/1990, các NHCPVVN Việt Nam mới thực sự đi vào hoạt động. Tháng 12/1997, luật các TCTD ra đời đã khẳng định và cụ thể hoá thêm một lần nữa bản chất nội dung kinh tế của các loại hình và hình thức sở hữu cổ phần trong hệ thống TCTD Việt Nam. Ngay từ thời kỳ đầu hình thành, NHNN Việt Nam đã coi các NHCPVVN là: “Các nhà khai thác mới trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, thực hiện các nghiệp vụ tín dụng trên những thị trường nhỏ có chi phí lớn, rủi ro cao, giá cả cạnh tranh,..”. Theo chủ trương, chính sách chung của các Đảng và Nhà nước, thuật ngữ ngân hàng vừa và nhỏ được đánh đồng với các tổ chức tín dụng như: hợp tác xã tín dụng, quỹ tín dụng, ngân hàng cổ phần,… Các tổ chức này được hình thành với mục đích nhằm thực hiện nhiệm vụ cung cấp các sản phẩm, dịch vụ từ huy động vốn, cho vay, dịch vụ thanh toán, ngân quỹ đến các dịch vụ ngân hàng khác cho các đối tượng là công chúng, hộ gia đình và các tổ chức kinh tế phi nhà nước, không tiếp cận được vốn tín dụng từ các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước. Nhìn chung, sự tồn tại và phát triển của các Ngân hàng vừa và nhỏ được thể hiện chủ yếu trên năm vai trò cơ bản là: khuyến khích tiết kiệm, góp phần hình 9 thành và hỗ trợ các dòng vốn luân chuyển; phân bổ vốn hữu hiệu giữa các ngành, các lĩnh vực; giảm chi phí và tối thiểu hóa rủi ro; hỗ trợ đổi mới công nghệ nâng cao hiệu quả sản xuất, góp phần nâng cao môi trường kinh doanh, xây dựng văn hóa kinh doanh đối với các doanh nghiệp. 1.3.2. Mục đích hoạt động của các ngân hàng vừa và nhỏ Là loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thương mại cũng có một số mục tiêu nhưng khác với các doanh nghiệp thông thường, do có sự khác biệt về đối tượng, nhu cầu và tính chất phục vụ, các mục tiêu của ngân hàng có tính chuyên biệt nhất định. Nhìn chung, có 4 mục tiêu cơ bản là. - Đạt khả năng sinh lợi cao nhất, phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả và đầu tư đúng mức, tìm kiếm khai thác các thị trường phù hợp với vị thế rủi ro, năng lực phục vụ và môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, các mục tiêu này phải dựa trên cơ sở cung cấp các dịch vụ đa dạng, chất lượng cao, đảm bảo quy mô tăng trưởng hợp lý và giảm thiểu tối đa các nguy cơ rủi ro; - Phục vụ cộng đồng, bằng các cam kết cung cấp dịch vụ có chất lượng cao và phù hợp. Trong quá trình phục vụ, phải không ngừng nỗ lực tìm kiếm các phương thức phù hợp để đo lường và kiểm soát được chất lượng các dịch vụ, đảm bảo thực hiện đúng các cam kết với công chúng. Đây không chỉ là trách nhiệm đối với các nhà quản trị ngân hàng, mà cũng là một trong những mục tiêu thu hút sự quan tâm hàng đầu của các cơ quan quản lý ngân hàng hiện nay; - Tăng trưởng và thị phần ngày càng lớn trên các thị trường mục tiêu, về tài sản có, doanh số bán, tài khoản tín dụng, tài khoản thanh toán và các nguồn quỹ,.. trên từng địa bàn hoạt động và trên từng lĩnh vực phục vụ. Thực hiện được mục tiêu này là tiền đề để phát triển thêm mạng lưới, mở rộng hoạt động, tăng cung cấp các dịch vụ tài chính mới, hiện đại hoá công nghệ và hoàn thiện điều kiện kinh doanh. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng chỉ được xem là hợp lý khi đảm bảo được sự phù hợp với khả năng kiểm soát rủi ro của ngân hàng; - Đảm bảo đủ vốn theo các quy định về giám sát an toàn hiện hành, duy trì được hiệu năng và hiệu quả cao trong việc sử dụng các nguồn lực, nâng cao chất 10 lượng tài sản có, giảm thiểu tối đa hướng rủi ro đối với lợi nhuận ròng, đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững. 1.3.3. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại vừa và nhỏ. * Huy động vốn Theo quy định của pháp luật, NHVVN có thể sử dụng những công cụ và phương pháp khác nhau để huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, tạo lập nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn của công chúng. Có bốn hình thức: - Nhận tiền gửi (nhận ký thác): của các tổ chức kinh tế, cá nhân, đoàn thể xã hội, các tổ chức tín dụng …; - Phát hành chứng từ có giá; - Vay của tổ chức tín dụng khác; - Vay ngân hàng nhà nước dưới hình thức vay tái cấp vốn, tái chiết khấu… * Hoạt động tín dụng Các NHVVN thực hiện chuyển hóa nguồn vốn huy động để phát triển sản xuất kinh doanh và phục vụ nhu cầu, đời sống của công chúng dưới nhiều hình thức. - Cho vay trực tiếp, sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp và tổ chức kinh tế; cho vay tiêu dùng đối với cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức đoàn thể xã hội; - Cho vay gián tiếp, chiết khấu chứng từ có giá, bao thanh toán; - Cho vay khác, thấu chi, cho vay thông qua phát hành thẻ tín dụng…; - Cho thuê tài chính, bằng cách thành lập công ty cho thuê tài chính trực thuộc. * Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ Đây là các lĩnh vực hoạt động có thế mạnh và có tính đa dạng nhất. Theo quy định của pháp luật, các NHVVN được thực hiện một số hoạt động sau: - Thu tiền mặt, vận chuyển và bảo quản; - Cung ứng các phương tiện thanh toán; - Thực hiện dịch vụ thanh toán và chuyển tiền quốc tế; - Bảo quản hiện vật quý và giấy tờ có giá; - Nghiệp vụ ủy thác và đại lý; - Cho thuê tủ, két sắt, cầm đồ; 11 - Mua bán hộ; - Kinh doanh dịch vụ bảo hiểm; - Kinh doanh dịch vụ bất động sản; - Kinh doanh ngoại hối và vàng; - Tư vấn tài chính tiền tệ… * Các hoạt động khác Theo quy định pháp luật, NHVVN có thể thực hiện các hoạt động khác như: - Đầu tư trực tiếp bằng vốn tự có, theo nguyên tắc lời hưởng, lỗ chịu dưới các hình thức: góp vốn mua cổ phần của các tổ chức kinh tế, tín dụng trong nước, liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài, thành lập công ty trực thuộc – hạch toán độc lập (công ty cho thuê tài chính, chứng khoán, quản lý nợ và khai thác tài sản, công ty bảo hiểm, tư vấn, kho bãi, kinh doanh vàng bạc đá quý…). - Đầu tư gián tiếp bằng nguồn vốn tự có và các nguồn vốn ổn định khác, dưới nhiều hình thức như: đầu tư vào trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng trung ương; đầu tư vào trái phiếu công ty. 1.4. Sự hình thành và phát triển các ngân hàng vừa và nhỏ 1.4.1. Nguồn gốc hình thành và phát triển các Ngân hàng vừa và nhỏ 1.4.1.1. Lịch sử phát triển Ngân hàng vừa và nhỏ trên thế giới. Các hoạt động cung cấp dịch vụ ngân hàng nhỏ lẻ xuất hiện đầu tiên vào khoảng 3.000 năm TCN, từ các đền thờ cổ đại tại Ai Cập, dưới hình thức nhận gửi và cho vay các loại ngũ cốc, gia cầm, nông sản,... Đầu thế kỷ thứ 5 TCN, tại Tiểu Á, ngân hàng thương nhân đầu tiên ra đời với một số nghiệp vụ đơn giản. - Thế kỷ thứ 4 TCN, tại Địa Trung Hải và Ai Cập, các kho chứa ngũ cốc của triều đình hoạt động như một hệ thống tín dụng thương mại. Việc thanh toán không cần chuyển tiền mà được thực hiện bằng cách ghi sổ chuyển khoản; - Cuối thế kỷ thứ 3 TCN, đảo Delos (Aegean) các giao dịch bằng tiền được thay thế bằng các hóa đơn tín dụng. Việc thanh toán được thực hiện thông qua các tài khoản cá nhân. Lãi suất tiền vay và tiền gửi bắt đầu được sử dụng rộng rãi. Nhà nước bổ nhiệm công chứng viên được để ghi nhận các giao dịch ngân hàng; 12 - Năm 568, các thương nhân tại Genoa, Milan, Venice và Florence bắt đầu hình thành nên hệ thống ngân hàng hiện đại với các hình thái như chiết khấu thương phiếu, tài trợ cho hoạt động của Chính Phủ, cung cấp các dịch vụ ủy thác,... - Thế kỷ 12, để tránh sự ngăn cấm của giáo lý Cơ đốc, các ngân hàng ở Genoa đã phát kiến ra nghiệp vụ ghi sổ kép và cách thức bù trừ nghĩa vụ tín dụng của khách hàng giữa các ngân hàng trong hệ thống. Lợi nhuận của khoản vay được ghi vào các tài khoản dưới dạng quà tặng tự nguyện của người vay hoặc phần thưởng cho những rủi ro mà nhà ngân hàng phải gánh chịu; - Đầu thế kỷ 14, hai dòng họ Bardi và Peruzzi giàu có nhất tại Florence đã tạo ra những hóa đơn trao đổi (bill of exchange), cho phép các thương nhân nhận tiền ở bất kỳ ngân hàng nào trong cùng hệ thống (tương tự cheque); - Đầu thế kỷ 15, dòng họ Medici xứ Florence, dần mở rộng các hoạt động ngân hàng ra ngoài ranh giới và cho phép người gửi tiền có thể rút ra theo định kỳ từ ba tháng đến một năm; - Cuối thế kỷ 15, dòng họ Fugger tại Augsburg sáng tạo ra các lệnh chuyển đổi, cho phép đổi các giấy ghi nhận tín dụng bằng đồng tiền khác nhau thành tiền mặt tại ngân hàng mẹ; - Cuối thế kỷ 16, tại Hà Lan bắt đầu hình thành các hạ tầng tài chính phức tạp với các chợ trao đổi công cụ tài chính năm 1602, Ngân hàng Ngoại tệ Amsterdam năm 1609 và Sở giao dịch chứng khoán Amsterdam năm 1611; - Năm 1587, chính quyền Venice cho thành lập Banco della Piazza di Rialto, cung cấp phương tiện đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh rủi ro và chi phí do nhà nước gánh chịu, gọi là Cheque cho phép thanh toán vô điều kiện. Do thu được nguồn lợi lớn trong việc xử lý thanh toán séc và chuyển tiền, các ngân hàng bắt đầu chấp nhận trả lãi cho người gửi tiền; - Cuối thế kỷ 17, Mayer Amschel Rothschild ở Frankfurt, đưa ra mô hình hệ thống ngân hàng bán lẻ cung cấp các dịch vụ thương mại phục vụ cho khách hàng phổ thông. Tại Anh, hệ thống Ngân hàng tư nhân cũng được hình thành gắn liền với sự gia nhập của các nhà kim hoàn chuyên giữ tiền; 13 - Năm 1617, do hậu quả từ những khoản cho vay không đảm bảo, nhà nước Venice thành lập Banco Giro để xử lý các khoản nợ xấu qua tín dụng ngân hàng với nhiều nhượng bộ về cơ hội. Khái niệm ngân hàng quốc gia hình thành dựa trên cơ chế tạo nguồn quỹ tài chính công và khoản tín dụng được đảm bảo bởi chính phủ; - Cùng thời kỳ này, tại Thụy Điển từ các nghiệp vụ phát hành tiền, phát hành CD (certificate deposit),…. Tiền giấy lần đầu được xuất hiện. Tuy nhiên, sự lạm dụng phát hành tiền giấy so với số vàng, bạc làm đảm bảo, kéo theo sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng tư nhân. Ngân hàng quốc gia đã được thành lập nhằm phân định rạch ròi giữa các ngân hàng phát hành với các ngân hàng kinh doanh tiền tệ. - Đầu Thế kỷ 19, hoạt động ngân hàng xuất hiện các nghiệp vụ tài chính đa dạng như cho vay tiêu dùng, bán bảo hiểm, tư vấn tài chính, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư, dịch vụ quản lý tiền mặt,... - Cuối Thế kỷ 19, nhằm phân tán rủi ro, hệ thống các ngân hàng kinh doanh được tách ra. Theo đó các ngân hàng thương mại chỉ được thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ cơ bản, còn các ngân hàng đầu tư sẽ thực hiện các hoạt động đầu tư, môi giới chứng khoán; - Vào thập niên 70, một số nghiệp vụ ngân hàng hiện đại mới bắt đầu xuất hiện như thẻ tín dụng, thẻ rút tiền, mạng lưới thanh toán tại điểm bán hàng, Internet Banking, Home Banking,.... Tóm lại, hoạt động NHVVN bắt đầu từ hình thái ngân hàng thương nhân với quy mô nhỏ, do những thương gia giàu có cho “mượn sử dụng'' tài sản và tiền trong giao thương. Theo quá trình phát triển thương mại, hoạt động ngân hàng mở rộng dần sang tầng lớp thương gia và dân cư, hình thành nên các mô hình ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán lẻ,... Một số có điều kiện và quy mô vốn lớn bức phá phát triển thành các tập đoàn ngân hàng thương mại đa năng, mở rộng hoạt động trên phạm vi quốc tế, nhưng đại đa số còn lại vẫn giữ quy mô ở mức vừa và nhỏ phục vụ tại các cộng đồng địa phương. Như vậy, sự phát triển của các NHVVN luôn gắn liền với sự mở rộng và lớn mạnh của các hoạt động thương mại trong nền kinh tế và trong cộng đồng dân cư. 14 1.4.1.2. Lịch sử phát triển Ngân hàng vừa và nhỏ tại Việt Nam. Hệ thống NHVVN, chỉ thực sự được xem là xuất hiện tại Việt Nam bắt đầu từ năm 1986. Gắn liền với yêu cầu đổi mới kinh tế, hoạt động ngân hàng theo cơ chế mới được hình thành từ chủ trương tách chức năng quản lý nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh, chuyển các hoạt động của ngân hàng sang hạch toán kinh tế. Tháng 05/1990, Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ra đời, quy định chuyển hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp, với các đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động khác nhau. Trong đó quy định, cụ thể quy mô vốn tối thiểu cho từng loại hình sở hữu khác nhau. Từ 1991 đến nay, sự đổi mới và lớn mạnh, hệ thống Ngân hàng Việt Nam không ngừng được phát triển gắn liền với nhiều sự kiện kinh tế chính trị quan trọng: - Năm 1993, bình thường hóa mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB); - Năm 1995, quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động ngân hàng, thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo; - Năm 1997, quốc hội khóa X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng (ngày 02/12/1997) và hiệu lực thi hành từ 01/10/1998; - Năm 1999, thành lập Ngân hàng Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam; - Năm 2000, cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMCP; - Năm 2002, tự do hóa lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng – bước cuối cùng tự do hóa hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu ra; - Năm 2003, tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu, hoạt động phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thành lập ngân hàng chính sách xã hội trên cơ sở Ngân hàng phục vụ người nghèo, tách bạch giữa tín dụng chính sách với tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường, tiến hành sửa bước 1 luật NHNN Việt Nam; - Năm 2006, thành lập ngân hàng Phát triển Việt Nam trên cơ sở Cục Đầu tư phát triển thuộc Bộ Tài chính, nhằm để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu 15 tư hỗ trợ phát triển chính thức và các nguồn vốn đi vay đầu tư của chính phủ; - Năm 2008, thực hiện cam kết khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chính thức cấp phép thành lập 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài. 1.4.2. Cơ sở xác định ngân hàng vừa và nhỏ. Theo quan điểm chung của các nhà phân tích thị trường, các ngân hàng vừa và nhỏ thường được định vị phổ biến thông qua các đặc trưng chủ yếu sau: - Đối tượng của NHVVN, hướng đến phục vụ chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể, cá nhân, đại bộ phận công chúng là các hộ kinh tế gia đình và cá nhân có nhu cầu tài chính cần đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt đời sống, kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là doanh nghiệp dân doanh. Trong đó: Doanh nghiệp vừa và nhỏ: là nhóm đối tượng rất phổ biến có nhu cầu dịch vụ ngân hàng rất lớn và đa dạng, đặc biệt có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển. Khách hàng cá nhân bao gồm các tầng lớp dân cư có nhu cầu liên quan đến toàn bộ quá trình tiêu dùng của xã hội, phục vụ đời sống. - Chiến lược kinh doanh, NHVVN thực hiện cả chiến lược kinh doanh bán buôn và bán lẻ nhưng trong đó bán lẻ là chủ yếu, tham gia tài trợ các nhu cầu tài chính có giá trị phù hợp. - Phạm vi hoạt động: NHVVN hoạt động trên phạm vi toàn quốc từ đô thị đến nông thôn, các khu vực có đông dân cư, nơi nhu cầu tín dụng phụ thuộc khá lớn vào cho vay nặng lãi, chủ yếu tập trung vào các hoạt động trong quốc nội. - Sản phẩm dịch vụ, NHVVN thực hiện tất cả các nghiệp vụ từ nội bảng đến ngoại bảng, từ ngân hàng truyền thống đến ngân hàng hiện đại, cung cấp cả các phương tiện ký thác và cả các công cụ tín dụng. - Loại hình kinh doanh, ý ngân hàng vừa và nhỏ chủ yếu thực hiện mô hình kinh doanh tổng hợp, nhưng tùy điều kiện cũng có thể thực hiện cả các mô hình chuyên doanh, cung cấp các giải pháp tài chính tổng hợp trọn gói. - Về mặt quy mô, tùy đặc điểm hệ thống ngân hàng của từng quốc gia và sự phát triển kinh tế trong từng thời kỳ, có những quy định khác nhau. Về cơ bản quy 16 mô ngân hàng thường được xác định dựa trên 4 tiêu chí: quy mô vốn, tổng tài sản, hệ thống chi nhánh và số lượng lao động. Nhìn chung, quy mô các NHVVN khá đa dạng, có nhiều thang độ, nhưng phổ biến quy mô vốn ở mức vừa phải, mạng lưới giao dịch hạn chế, khả năng huy động vốn có hạn thường phải đi vay từ các ngân hàng lớn, tổng tài sản nhỏ, thương hiệu chưa mạnh và năng lực tài chính thấp. - Trong thực tế, khi đánh giá NHVVN các chuyên gia còn kết hợp xem xét thêm một số tiêu chí khác như: doanh số huy động bình quân trên mỗi khách hàng, doanh số cho vay bình quân trên mỗi khách hàng, số lượng khách hàng mỗi nhân viên quản lý, chi phí đầu tư công nghệ cho mỗi nhân viên,... Mặc dầu có môi trường và điều kiện hoạt động riêng nhưng trong xu thế toàn cầu hóa, sự phát triển đa dạng của thị trường và hệ thống tài chính, Hoạt động kinh doanh của các NHVVN vẫn phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ nhiều hướng. Khuynh hướng chung, cạnh tranh sẽ tập trung cao vào các lĩnh vực hạ tầng công nghệ, trình độ quản lý, phát triển các sản phẩm dịch vụ bán lẻ. 1.4.3. Các quy định pháp lý. - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010; - Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12 ngày 16/6/2010; - Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16/7/2000 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại. - Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ về ban hành danh mục vốn pháp định của các TCTD; - Năm 1990, những quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các ngân hàng đầu tiên được thể hiện trong các pháp lệnh về ngân hàng nhưng còn khá thô sơ như “không được huy động vốn quá 20 lần tổng số vốn tự có và quỹ dự trữ”. - Những chuẩn mực quốc tế về đảm bảo an toàn chỉ thực sự áp dụng vào Việt Nam kể từ khi ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các TCTD vào năm 1997, và đã được cụ thể hóa bằng các Quyết định 297/1999/QĐ-NHNN ngày 25/08/1999 và Quyết định 381/2003/QĐ-NHNN ngày 23/04/2003 quy định tỷ lệ tối 17 đa các nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung và dài hạn, Quyết định 492/2000/QĐ-NHNN ngày 28/11/2000 quy định về việc góp vốn mua cổ phần, giới hạn cho vay đối với một khách hàng, Quyết định 296/1999/QĐ-NHNN… - Năm 2005, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành một số quy định mới để sửa đổi bất hợp lý về vốn của Quy định 1999 và một số nội dung khác đã được bổ sung cho gần với Basel I hơn. Đáng chú ý là việc tách bạch giữa hoạt động của ngân hàng thương mại (các hoạt động cấp tín dụng và thanh toán là chủ yếu) và hoạt động của ngân hàng đầu tư (các nghiệp vụ liên quan đến kinh doanh chứng khoán). - Giai đoạn 2005 – 2006, các quy định của Ngân hàng Nhà nước đã đề cập tới một số vấn đề liên quan tới các điều khoản trong hiệp định Basel I. Cụ thể: Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn. Các nội dung quy định về việc tính toán mức vốn tự có và tỷ lệ vốn tự có tối thiểu so với tổng tài sản “Có” rủi ro. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, quy định phân loại dư nợ tín dụng, trích dự phòng rủi ro và các biện pháp đặc biệt đối với các khoản nợ xấu, dựa trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và khả năng thu nợ của mỗi khoản vay. Cụ thể: yêu cầu trích lập dự phòng chung và dự phòng riêng; tính giá trị Tài sản bảo đảm và loại trừ khi tính toán số tiền phải trích lập; cho phép được trích lập dần trong 3 năm, phù hợp với tình hình tài chính và kết quả kinh doanh. Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN quy định giới hạn tín dụng với một nhóm khách hàng có liên quan là 60%, trong khi tỷ lệ này theo Basel chỉ là 25%. Tuy nhiên, việc trích lập dự phòng vẫn còn dựa trên tình trạng nợ quá hạn của các khoản nợ chứ không dựa trên cơ sở hạch toán kế toán nhằm đánh giá khả năng thu hồi nợ dự kiến. - Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 về danh mục về vốn pháp định của các tổ chức tín dụng, trong đó quy định mức vốn điều lệ thực góp tối thiểu áp dụng đối với các NHTMCP tính đến ngày 31/12/2008 là 1.000 tỷ đồng và đến ngày 31/12/2010 là 3.000 tỷ đồng. - Thống đốc NHNN Việt Nam đã ra Quyết định số 461/2000/QĐ-NHNN về cơ chế đánh giá vốn an toàn và xếp loại các TCTD. Quyết định số 400/2004/QĐNHNN ngày 16/04/2004, quy định về việc xếp loại các NHTMCP. Nội dung chính 18 tập trung vào 5 chỉ tiêu: Vốn tự có với chỉ số tỷ lệ an toàn vốn, chất lượng tài sản với các chỉ số kết quả kinh doanh, khả năng chi trả, quản trị/ kiểm soát điều hành với các tiêu chuẩn quy định về thời điểm xếp loại. - Một số chính sách khác như Chỉ thị 03 vào tháng 5/2007 khống chế dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán không vượt quá 3% tổng dư nợ cho vay. - Đề án Cải cách tổ chức và hoạt động Thanh tra Ngân hàng (Quyết định số 1976/2010/QĐ-NHNN) đặc biệt nhấn mạnh việc chuyển hướng từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra - giám sát dựa trên cơ sở rủi ro và hợp nhất phù hợp với thông lệ quốc tế và các nguyên tắc của Uỷ ban Giám sát ngân hàng Basel nhằm nâng cao năng lực cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động ngân hàng”. - Tháng 5/2010, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 13/2010/TT-NHNN, quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn chính yếu như: tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; giới hạn tín dụng; tỷ lệ khả năng chi trả; giới hạn góp vốn, mua cổ phần; tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động; tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ và hợp nhất tối thiểu ở mức 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro. 1.5. Các yếu tố tác động và xu hướng phát triển. 1.5.1. Các yếu tố tác động. Lịch sử phát triển của ngành ngân hàng cho thấy, nguyên nhân của các sự sụp đổ phá sản ngân hàng thường gắn liền với các cuộc khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng chính trị và các chính sách quản trị điều hành kém cỏi từ các nhà quản lý ngân hàng. Một số yếu tố nổi bật có thể thấy được: - Các chính sách tiền tệ và phát triển kinh tế quốc gia của Chính phủ: có ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách vốn an toàn của Ngân hàng Trung ương. Một mức tăng trưởng cao, một chính sách tiền tệ rộng mở sẽ gây áp lực vốn rất lớn lên khu vực tài chính ngân hàng, đẩy các ngân hàng vào các cuộc đua lãi suất, tăng trưởng nóng, cấp tín dụng ồ ạt,.. Các rủi ro này càng trở nên khó khăn hơn do phần lớn hiệu quả các nguồn đầu tư tín dụng có độ trễ nhất định. Khi nguy cơ rủi ro tăng lên đòi hỏi hệ số vốn an toàn ngân hàng cũng phải cao hơn; - Chu kỳ kinh tế tác động đến xu hướng biến động lợi nhuận biên tế, có 19 ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách lợi tức cổ đông, rủi ro do giá trị cổ phiếu ngân hàng biến động ảnh hưởng đến hệ số an toàn vốn tạo ra các rủi ro tiềm ẩn. Ơ các nước đang phát triển, thị trường tài chính còn sơ khai, dịch vụ ngân hàng còn đơn giản, đầu tư vào ngân hàng thường mang lại lợi tức rất cao do có tăng trưởng rất nhanh, lợi nhuận cao, rất dễ dẫn đến hiện tượng giá ảo cho vốn tự có, thúc đẩy hoạt động ngân hàng đi vào mở rộng đầu tư quá mức. Khi chu kỳ kinh tế thay đổi, lợi nhuận giảm, giá trị cổ phần sụt giảm gây áp lực lớn lên vốn khiến rủi ro sẽ bộc phát, đòi hỏi hệ số vốn an toàn cũng cần được điều chỉnh cho phù hợp; - Năng lực hoạt động của hệ thống bảo hiểm tiền gửi, và các cơ chế chế tài có liên quan cũng có tác động nhất định đến việc tăng, giảm rủi ro làm ảnh hưởng đến độ an toàn. Sự điều chỉnh các tỷ lệ phí trên tổng số tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn theo mức độ rủi ro có thể làm giảm bớt yêu cầu phải điều chỉnh hệ số vốn. Mức độ tham gia của ngân hàng vào các tổ chức trên là cở sở để các cơ quan giám sát phân loại ngân hàng áp đặt các chính sách an toàn vốn khác nhau; - Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại, có ý nghĩa rất lớn đến giá trị cổ phiếu ngân hàng trên thị trường, trong việc thu hút sự chú ý của các cổ đông tiềm năng, các nhà đầu tư, đối tác chiến lược. Với tỷ lệ lợi nhuận giữ lại cao ngân hàng có thể bán cổ phiếu ra thị trường với giá cao hơn mệnh giá nhiều lần để thu được giá trị thặng dư vốn thích ứng. Tuy nhiên, việc duy trì tỷ lệ này phần lớn thường phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của chủ sở hữu ngân hàng nhằm đạt được các mục đích riêng trên thị trường cổ phiếu. Vì vậy nguy cơ rủi ro tiềm ẩn cũng rất lớn, khi tỷ lệ này ở mức cao thì hệ số vốn an toàn cũng cần được điều chỉnh hợp lý; - Tính chính xác của hệ thống báo cáo tài chính và mức độ chuẩn hoá rủi ro, hệ số an toàn được xác định dựa trên sự tin cậy hoàn toàn vào kết quả của những dữ liệu đã được trình bày trên các báo cáo tài chính và các chuẩn mực rủi ro làm cơ sở đo lường đánh giá. Ở các nước đang phát triển, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, các chuẩn mực rủi ro ở mức thấp, tạo rất nhiều sơ hở cho rủi ro đạo đức phát triển, do đó các hệ số an toàn được đánh giá chỉ có ý nghĩa tương đối. Để có kết quả tin cậy hơn cần xem xét mức độ đổi mới, hiện đại hoá, hoàn thiện theo các chuẩn 20 mực quốc tế; - Mức độ phát triển các công cụ nợ bổ sung, đây là nhân tố tiềm tàng có ý nghĩa rất quan trọng đến việc gia tăng tỷ lệ vốn an toàn, đồng thời đảm bảo tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng do chi phí thấp, tính linh động và kịp thời cao. Ở các nước đang phát triển, do hệ thống thị trường tài chính yếu kém khả năng phát triển các công cụ này rất hạn chế nên hầu hết vốn tự có chủ yếu là vốn cổ phần, các ngân hàng không tận dụng được giới hạn giữa tỷ lệ vốn bổ sung và vốn cơ bản. Việc thiếu tuyến phòng vệ vốn khiến khả năng vốn bị tổn thương là rất lớn, vì vậy các hệ số vốn an toàn được xác định thường không phản ánh đầy đủ; - Quy mô hoạt động của từng ngân hàng: xác định vị thế rủi ro của ngân hàng trên từng thị trường, ảnh hưởng của quy mô hoạt động đến thị trường càng thấp, vị thế rủi ro càng cao, hoạt động kinh doanh càng nhạy cảm hơn với những biến động bên ngoài. Ở các nước đang phát triển, phần lớn vốn của các ngân hàng đều thấp do năng lực quản trị yếu kém, khả năng thu hút vốn đầu tư thấp, hoạt động ngân hàng luẫn quẩn ở những thị trường cấp thấp, hoăc có tham gia thị trường lớn nhưng luôn bị đẩy vào những khu vực cạnh tranh cao, giá trị thấp, rủi ro rất cao, do đó hệ số an toàn vốn cũng bị ảnh hưởng; - Tốc độ phát triển công nghệ kỹ thuật ngân hàng mới, liên quan đến các sản phẩm dịch vụ, kênh phân phối, giá cả,... sẽ kéo theo yêu cầu điều chỉnh lại các chế độ quản lý của các hiệp hội chuyên nghiệp, đòi hỏi vốn tự có phải tương ứng với khả năng thanh tóan (PSCA). Nói khác đi, vốn tự có phải dựa trên cơ sở rủi ro chịu trách nhiệm và phải được xác nhận thông qua hệ thống quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ đã được chuẩn hoá. Nhiều công cụ đánh giá rủi ro mới sẽ được hình thành, nhiều tiến bộ kỹ thuật mới sẽ làm thay đổi phương thức mua và bán các sản phẩm dịch vụ tài chính, các thông tin kỹ thuật công nghệ mới cập nhật sẽ làm thay đổi chính sách kinh doanh và ảnh hưởng lớn đến công tác thẩm định tín dụng; - Những thay đổi trong định nghĩa rủi ro, theo quá trình phát triển để thực thi chính sách giám sát vốn hiệu quả hơn, cơ quan giám sát ngân hàng sẽ bổ sung thêm một số định nghĩa mới về rủi ro. Kết quả của những thay đổi này tạo ra nhiều
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan