Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Chi tiết nghệ thuật trong tam quốc diễn nghĩa của la quán trung...

Tài liệu Chi tiết nghệ thuật trong tam quốc diễn nghĩa của la quán trung

.PDF
109
2063
76

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. 1.1. Chi tiết nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên thành công của tác phẩm văn học. Sức hấp dẫn của hình tượng nghệ thuật là nhờ vào các chi tiết nghệ thuật. Việc quan tâm đến vị trí, vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn học thể hiện tính khoa học và thực tiễn, liên quan mật thiết tới quá trình sáng tác và tiếp nhận văn học. Trong hoạt động nghiên cứu văn học, vấn đề chi tiết nghệ thuật đã được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu, nhưng chưa tập trung đầy đủ và hệ thống, đặc biệt với những tác phẩm của các nhà văn lớn. Đối với nhà văn, chi tiết nghệ thuật không chỉ thể hiện tài năng, phẩm chất sáng tạo mà còn thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người và cuộc sống. Trong tác phẩm văn học, chi tiết đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ góp phần tạo nên những hình ảnh sinh động về con người và cuộc sống. Đối với hoạt động tiếp nhận, chi tiết nghệ thuật trong văn bản nghệ thuật tạo nên những hứng thú, qua bạn đọc mà ý nghĩa của chi tiết nghệ thuật trở nên sống động hơn. Chi tiết nghệ thuật là vấn đề lý luận mang tính thời sự trong sáng tác và tiếp nhận, việc nghiên cứu chi tiết nghệ thuật gắn với những tác phẩm lớn là một hướng đi cần thiết trong tình hình đổi mới văn học hiện nay. 1.2. “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung được coi là một trong “Tứ đại danh tác” của nền văn học cổ điển Trung Hoa. “Tam quốc diễn nghĩa” có sức sống lâu đời và ảnh hưởng đến văn học thế giới, trong đó có văn học Việt Nam. Ở nước ta, “Tam quốc diễn nghĩa” từ lâu đã thu hút bạn đọc, từng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tới các phương diện khác nhau như: Quá trình hình thành và sáng tác, kết cấu tác phẩm, nghệ thuật kể truyện, nhưng cho đến Trang 1 nay chưa một công trình nào nghiên cứu vấn đề chi tiết nghệ thuật trong “Tam quốc diễn nghĩa” thành một chuyên đề độc lập. 1.3. Là một giáo viên giảng dạy ở trường THPT, đặt vấn đề nghiên cứu chi tiết nghệ thuật trong “Tam quốc diễn nghĩa”, tôi mong muốn góp thêm một góc nhìn để hiểu sâu sắc hơn giá trị của một tác phẩm văn học lớn. Việc tìm hiểu chi tiết nghệ thuật một cách hệ thống, khoa học còn có ý nghĩa nhất định đối với nghiên cứu và giảng dạy văn học ở trường phổ thông. 2. Lịch sử vấn đề. 2.1. Vấn đề chi tiết nghệ thuật trong sáng tác và nghiên cứu phê bình. Từ thực tiễn sáng tác cho đến tiếp nhận văn học, từ lâu đã có nhiều ý kiến khác nhau bàn về chi tiết trong tác phẩm. Ở phương Đông, trong cuốn “Lý luận văn học cổ điển Trung Quốc”, nhà lý luận phê bình Kim Thánh Thán khi bàn đến tiểu thuyết qua lời bình, cách khen việc khắc họa nhân vật trong “Thủy hử” có thể thấy ông đã nhấn mạnh vai trò của chi tiết trong việc khắc họa nhân vật tiểu thuyết. Khi nói về nhân vật Tây Môn Khánh, Kim Thánh Thán đã khen cái tài của Thi Nại Am như sau: “Tây Môn Khánh mấy phen xoay chuyển, khéo về đổi thay, khéo về cần gấp, khéo về lạnh lùng, khéo về thong thả, khéo về muốn ngay, khéo về phá đi, khéo về mượn lại, khéo về đón lấy, khéo về đẩy ra…thực là một thiên gấm màu hoa, rõ ra văn tự” [39, tr.137] Ở phương Tây, các nhà nghiên cứu cũng đã quan tâm đến chi tiết nghệ thuật từ rất sớm, chúng ta có thể đề cập đến một số ý kiến tiêu biểu. Hê Ghen trong cuốn Mĩ học, khi bàn về văn học ông xem chi tiết như “con mắt” trổ những cửa sổ để người ta nhìn vào nhân vật. Ông nói:“Nghệ thuật biến hình tượng với tất cả các điểm bề ngoài nhìn thấy được của nó thành con mắt, tạo thành kho chứa Trang 2 tâm hồn” [58, tr.103]. Nhà văn L.Tôn-xtôi, trong cuốn nhật kí năm 1853 của mình, khi bình luận về văn xuôi Puskin có viết: “Văn xuôi Puskin cũ rồi, không phải do bút pháp mà do cách kể chuyện. Đúng là giờ đây trong khuynh hướng mới, sự quan tâm đến chi tiết tình cảm đang thay thế dần sự quan tâm đến các biến cố, truyện của Puskin trần trụi thế nào ấy.” [44, tr. 213]. Như vậy, rõ ràng với Tôn-xtôi chi tiết có vai trò quan trọng tạo nên sức hấp dẫn hơn các biến cố. Văn hào vĩ đại người Nga Macxim Gorki từng phát biểu: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. K.G.Paustovky khẳng định: “Không có chi tiết thì tác phẩm không sống được”; “Ý nghĩa của chi tiết là ở chỗ, theo lời nhà văn Puskin sao cho cái “vặt vãnh” không dễ nhận thấy trở thành cái to lớn, lấp lánh trước mặt mọi người” [51, tr. 113]. Trong cuốn Những bậc thầy văn chương thế giới – Tư tưởng và quan niệm do tác giả Lê Huy Hòa biên soạn, nhà văn Sopenhauer khi nói về bút pháp có đoạn viết: “Việc viết văn theo lối kiến trúc sư xây nhà cửa, người này trước khi bắt tay vào công việc, phác họa đồ hình và nghĩ tới nghĩ lui tới những chi tiết nhỏ nhặt nhất.” [24, tr. 336]. Vậy, viết văn cũng giống như xây nhà chi tiết chính là những viên gạch để xây nên ngôi nhà đó. Ở nước ta, vấn đề chi tiết nghệ thuật đã được bàn đến nhiều trong các công trình lý luận văn học. Chúng ta có thể kể ra các công trình tiêu biểu sau: cuốn Lý luận văn học của nhóm tác giả Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa, Thành Thế Thái Bình do Phương Lựu chủ biên xuất bản năm 1985, có đề cập đến chi tiết như là một phương tiện đầu tiên trong việc xây dựng nhân vật văn học. Khi bàn về nhân vật và tính cách các tác giả cuốn Lý luận văn học (1998), Nxb Giáo dục cũng đã khẳng định:“Nhân vật và tính cách là những yếu tố thuộc về nội dung, nhưng các biện pháp thể hiện làm sao cho Trang 3 chúng thật sinh động, hấp dẫn lại thuộc về hình thức của tác phẩm. Trước hết, phương tiện cơ bản để thực hiện các biện pháp đó là chi tiết – những nét cụ thể mà nhà văn sử dụng để miêu tả ngoại hình, nội tâm, hành động của nhân vật, cũng như cảnh vật, sự kiện có liên quan đến nhân vật đó. Đan dệt hàng loạt chi tiết với nhau mới được một bức tranh ngôn ngữ có thể tạo nên ấn tượng tương đối xác định về nhân vật. Các chi tiết được sắp xếp bố trí chặt chẽ, không thừa không thiếu, có một quá trình phát triển Logic – nghĩa là chúng liên quan với nhau một cách tất yếu.” [17, tr. 134]. Trong cuốn Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ của nhóm tác giả Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương xuất bản năm 1999, cũng nói đến việc phân tích bình giảng phải tìm ra các chi tiết “đắc địa” để không rơi vào khuynh hướng tự biện, biến bài giảng của mình thành sự thuyết minh cho luận điểm có sẵn. Công trình này cũng đã điểm qua vai trò của chi tiết trong tiếp nhận văn học. Ngoài ra vấn đề này còn được đề cập trong một số bài viết như:“Một số kinh nghiệm” của Nguyễn Công Hoan được Vương Trí Nhàn sưu tầm trong cuốn Sổ tay viết truyện ngắn (2001), Nxb tác phẩm mới, tác giả quan niệm:“Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng một thái độ với cách đặt câu dùng tiếng có cân nhắc. Muốn truyện là truyện ngắn, chỉ nên lấy một ý chính làm chủ cho truyện. Những chi tiết trong truyện xoay quanh chủ đề ấy không có chi tiết nào thừa, rườm rà, miên man” [48, tr.19]. Vấn đề chi tiết trong truyện ngắn cũng được nhiều tác giả, bạn đọc và các nhà nghiên cứu quan tâm. Nhà văn Sê khốp nói: Các chi tiết được lựa chọn đưa vào truyện ngắn phải độc đáo, giàu ý nghĩa nghệ thuật.Truyện ngắn hay không thể có những chi tiết vô bổ. Nhà giáo Nguyễn Đăng Mạnh, trong cuộc tọa đàm về cuốn sách Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa có nói: Trang 4 “Ở truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như những nhãn tự trong thơ vậy” [47]. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học có nhận xét: “Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết” [20, tr. 277, 278] Nhà văn Ma Văn Kháng khi nói về kết cấu của truyện cũng có đề cập đến chi tiết. Ông cho rằng: “Toàn truyện phải là một cái vòng khép kín, không dài quá, không ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào. Khi đã vào truyện, cái xà tích của một cô gái hay một chút ánh trăng thượng tuần cũng phải có ý nghĩa, cái nọ nương tựa cái kia, chi tiết này soi rọi cho chi tiết khác.”[78, tr. 101]. Như vậy chi tiết nằm trong kết cấu tác phẩm, làm nên giá trị về nội dung tác phẩm, có nguyên tắc phản ánh nhất định. Các ý kiến xoay quanh chi tiết được trở đi trở lại nhiều trong các bài viết như: “Chi tiết nghệ thuật và cảm nhận chi tiết nghệ thuật trong văn chương” của Hà Thị Hoài Phương, đăng trên trang http://caohocvan16qnu.blogspot.com/. Trần Xuân Toàn “Chi tiết nghệ thuật trong truyện rất ngắn” đăng trên trang: http://xuantoan.Vnwblogs.com. “Chi tiết nghệ thuật” của Hoàng Thu Giang, trên trang http://www.baomoi.com. Các công trình này đã làm tăng thêm các nhận xét vai trò của chi tiết trong tác phẩm văn học liên quan đến tài năng sáng tạo của nhà văn và giá trị nghệ thuật trong mỗi tác phẩm văn chương. 2.2.“Tam quốc diễn nghĩa” và những công trình nghiên cứu ở Việt Nam. Như trên đã nói, “Tam quốc diễn nghĩa” là một trong “Tứ đại danh tác” của văn học cổ điển Trung Quốc, có sức ảnh hưởng lâu dài và rộng với văn học thế giới. Ở Việt Nam, “Tam quốc diễn nghĩa” đã được nhiều nhà nghiên cứu Trang 5 quan tâm ở nhiều phương diện khác nhau nhưng mục đích cuối cùng vẫn là tìm ra giá trị riêng, độc đáo của tác phẩm. Tiêu biểu là các nhà nghiên cứu: Nguyễn Khắc Phi, Lương Duy Thứ, Trần Xuân Đề, Lê Thời Tân, Trần Lê Bảo, Việt Chương, Lê Huy Tiêu, mỗi tác giả đều góp thêm ý kiến về vai trò của chi tiết nghệ thuật đã làm cho các tác phẩm văn học cổ điển Trung Hoa sống động hơn. Trong “Giáo trình Văn học Trung Quốc” tập 2 của Nguyễn Khắc Phi và Lương Duy Thứ- Nxb Giáo dục, 1998 đã nêu khái quát về giá trị nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật của “Tam quốc diễn nghĩa”. Các tác giả đã đề cập đến quan điểm tư tưởng của La Quán Trung khi xây dựng các nhân vật trong tác phẩm, hiện thực xã hội Trung Hoa và nguyện vọng, ước mơ của nhân dân thời bấy giờ thông qua miêu tả một số nhân vật như: Tào Tháo, Lưu Bị, Khổng Minh, Quan Công, Trương Phi – là những nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm, nêu rõ những tích cực và hạn chế trong tính cách của nhân vật. Ở các tài liệu khác như: “Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ Trung Quốc” của Lương Duy Thứ, “Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc” của Trần Xuân Đề; “Luận bàn Tam quốc” của Mao Tôn Cương ... các tác giả đã dành một dung lượng lớn đi sâu miêu tả đặc điểm tính cách của các nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm là: Lưu Bị, Tào Tháo, Khổng Minh, Quan Công, Trương Phi. Đồng thời các tác giả cũng không quên đề cập đến những thành công và hạn chế của tác giả bộ tiểu thuyết này trong việc miêu tả các nhân vật. Tác giả Lê Huy Tiêu với hai bài báo: Thử so sánh thi pháp của “Tam quốc diễn nghĩa” và “Thuỷ hử truyện” trong Tạp chí Văn học, số 2/1996 và Vấn đề trọng dụng người có đức có tài trong “Tam Quốc diễn nghĩa” trong Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 5/1996. Tác giả đã chỉ ra một số quan niệm và bút pháp nghệ thuật độc đáo của nhà văn La Quán Trung. Trang 6 Tác giả Trần Lê Bảo, “Đặc điểm kết cấu Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung”, Luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội 1993, đã cho thấy nghệ thuật tổ chức tác phẩm của nhà văn, tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm thông qua nhiều chi tiết. Tác giả Lê Thời Tân cũng có nhiều bài viết về “Tam quốc diễn nghĩa” được công bố trên các tạp chí khoa học. Ông quan tâm đến: Vấn đề tác giả “Tam quốc diễn nghĩa”; “Diễn biến của sách Tam quốc diễn nghĩa”; “Tam quốc lịch sử và diễn nghĩa hay diễn nghĩa lịch sử”; “Tự sự chính sử và tự sự tiểu thuyết: Đọc lại hình tượng Quan Công”. Từ góc độ loại hình nghệ thuật tác giả đã làm rõ thêm kết cấu tác phẩm của La Quán Trung. Bên cạnh những công trình tiêu biểu kể trên còn có không ít các luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp đại học lấy “Tam quốc diễn nghĩa” làm đề tài. Chúng tôi có thể điểm lược một số đề tài sau: Luận văn thạc sĩ: “Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thống chí”, năm 2004 của Nguyễn Thị Thuần, Đại học Quốc gia; luận văn thạc sĩ: “Hoàng Lê nhất thống chí và Tam quốc diễn nghĩa những điểm tương đồng và khác biệt”, năm 2006 của Hoàng Thị Tú Uyên, Đại học Sư phạm Vinh. Các khóa luận: “Hình tượng nhân vật Tào Tháo và Quan Vũ trong Tam quốc diễn nghĩa từ góc nhìn văn hóa”, năm 2012 của Huỳnh Bảo Yến, Đại học Sư phạm Cần Thơ; Hoàng Thị Minh Tâm, Đại học Vinh với đề tài: “Thế giới nhân vật trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung.”, năm 2006; Trần Nguyên Hạnh: “Người kể chuyện trong Tam quốc diễn nghĩa từ góc nhìn tự sự học hiện đại”, in trong Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 17 năm 2009. Trang 7 Tóm lại, qua khảo sát chúng tôi thấy, chưa có một công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống những chi tiết nghệ thuật trong “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung. Việc nghiên cứu chi tiết nghệ thuật trong“Tam quốc diễn nghĩa” chúng tôi hi vọng sẽ góp phần khám phá được nhiều hơn vẻ đẹp của bộ tiểu thuyết này nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy“Tam quốc diễn nghĩa” và các tác phẩm tự sự khác trong nhà trường phổ thông. 3. Mục đích nghiên cứu. Chúng tôi sẽ tập trung vào các vấn đề cụ thể như sau: Làm rõ khái niệm chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn học, vị trí, chức năng của chi tiết nghệ thuật gắn đặc điểm thể loại tiểu thuyết. Từ việc tìm hiểu chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm “Tam quốc diễn nghĩa” theo hướng khai thác chi tiết nghệ thuật và ý nghĩa của nó trong từng mối quan hệ cụ thể như: chi tiết gắn với quan niệm nghệ thuật về thế giới nhân vật trong tác phẩm; chi tiết trong quan hệ với thể loại tác phẩm, từ đó, đưa ra những đánh giá về nghệ thuật tạo lập chi tiết của tác giả. 4. Đối tượng nghiên cứu. Chúng tôi tập trung vào các chi nghệ thuật tiết tiêu biểu trong bộ tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa”. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi có liên hệ với một số tiểu thuyết khác để làm rõ nội dung nghiên cứu của mình. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. Từ góc nhìn của lí luận văn học, chúng tôi sẽ làm rõ thêm giá trị của những chi tiết nghệ thuật tiểu biểu trong tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa” của nhà văn La Quán Trung. Chỉ ra những thành công và hạn chế của ông trong quá trình xây dựng tác phẩm và thể hiện nội dung tư tưởng của tác giả qua hệ thống chi tiết nghệ thuật. Trang 8 6. Phương pháp nghiên cứu. Chúng tôi chủ trương phối hợp đồng bộ các phương pháp sau: Phương pháp tập hợp, hệ thống: trên cơ sở khảo sát, thống kê, phân loại các chi tiết từ đó hệ thống thành những luận điểm chính. Phương pháp phân tích, khái quát: Sau khi đã tập hợp chúng tôi phân tích và khái quát thành những nhận định riêng. Phương pháp so sánh: Trong quá trình phân tích tác phẩm chúng tôi có so sánh với việc sử dụng chi tiết trong các tiểu thuyết khác, từ đó rút ra những kết luận riêng. Phương pháp liên ngành: Trong quá trình khảo sát, khi cần thiết chúng tôi sẽ liên hệ chi tiết nghệ thuật trong tiểu thuyết của La Quán Trung với các môn nghệ thuật khác, để làm sáng tỏ giá trị chi tiết nghệ thuật đối với kết cấu và các phương thức biểu hiện nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. 7. Đóng góp của luận văn. Đây là công trình đầu tiên nêu vấn đề: “Chi tiết nghệ thuật trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung” từ nhiều góc nhìn khác nhau ở một tác phẩm tự sự lớn trong quá khứ; góp thêm ý kiến khẳng định vai trò của chi tiết nghệ thuật đối với việc hình thành nên các giá trị nội dung và hình thức của tác phẩm văn học. Đề xuất hướng tiếp cận chi tiết nghệ thuật trong các tác phẩm văn học, giúp cho việc nghiên cứu thể loại tự sự nói chung và tiểu thuyết nói riêng được tốt hơn. 8. Cấu trúc luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn của chúng tôi được triển khai thành ba chương: Chương I. Chi tiết nghệ thuật trong sáng tác và tiếp nhận văn học. Trang 9 Chương II. Đặc điểm chi tiết nghệ thuật trong “Tam quốc diễn nghĩa” Chương III. Phương thức xây dựng chi tiết nghệ thuật trong “Tam quốc diễn nghĩa.” Chương I CHI TIẾT NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC VÀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC 1. Khái niệm chi tiết và chi tiết nghệ thuật. 1.1. Khái niệm chi tiết. Chi tiết là một khái niệm quen thuộc được dùng trong cuộc sống hàng ngày, để chỉ các yếu tố nằm trong chỉnh thể nào đó. Theo Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên), Nxb Đà Nẵng, 2003, trang 152 thì chi tiết là: “Phần rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng… là thành phần riêng rẽ hoặc tổ hợp đơn giản nhất của chúng có thể tháo lắp được, như đinh ốc, trục, bánh xe, vv…trong máy móc, thiết bị. Chi tiết máy.”. Như vậy, trong đời sống hàng ngày, từ “chi tiết” được hiểu và dùng như là một thành tố, một bộ phận nhỏ của một sự việc, tổng thể. Chi tiết được hiểu như là một thành phần thuộc về cấu tạo của một sự vật, hiện tượng trong đời sống. 1.2. Khái niệm về chi tiết nghệ thuật. Trong văn học, theo định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, chi tiết nghệ thuật là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng” [20, tr. 51]. Cũng theo nhóm tác giả này thì: “Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ Trang 10 của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với “quan niệm nghệ thuật” về thế giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định” [20, tr. 51] Như vậy, chi tiết nghệ thuật được xem như linh hồn của một văn bản nghệ thuật. Muốn hiểu, nắm chắc văn bản, phải hiểu rõ chi tiết nghệ thuật. Khái niệm chi tiết được đặt ra nhằm phân biệt với tổng thể nhưng nó không tách rời tổng thể. Sự hòa hợp giữa chi tiết và tổng thể sẽ tạo thành chỉnh thể. Chi tiết nghệ thuật được xem là thành tố nhỏ trong một chỉnh thể nghệ thuật. Từ những quan niệm về chi tiết nghệ thuật trên, chúng tôi cho rằng: Tìm hiểu chi tiết nghệ thuật trong “Tam quốc diễn nghĩa” cần quan tâm đến những phương diện cụ thể sau: Thứ nhất, cần phân biệt chi tiết với các khái niệm khác như: hình ảnh, tình tiết, điểm sáng thẩm mĩ của tác phẩm, vì chúng đều là các thành tố nhỏ trong một chỉnh thể nghệ thuật. Thứ hai, chi tiết nghệ thuật có những vai trò cơ bản sau: Làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lý, thể hiện tư tưởng của tác giả trong tác phẩm, hoặc gắn với quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người, với truyền thống văn hóa nghệ thuật nhất định. Thứ ba, việc tạo lập, sắp xếp các chi tiết nghệ thuật như là một yếu tố hình thức biểu hiện nội dung bằng những thủ pháp cụ thể góp phần thể hiện tài năng, bản lĩnh sáng tạo mang dấu ấn cá nhân của nhà văn. Chi tiết trong tác phẩm nghệ thuật vô cùng phong phú, đa dạng nhưng không phải chi tiết nào cũng được coi là chi tiết nghệ thuật. Muốn biết được chi Trang 11 tiết nào có tính nghệ thuật chúng ta phải căn cứ vào vị trí, vai trò của nó trong việc thể hiện tư tưởng, tình cảm, bút pháp nghệ thuật của nhà văn. Trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao có rất nhiều chi tiết nhưng chỉ có vài chi tiết có ý nghĩa nghệ thuật như: cái lò gạch cũ, chi tiết bát cháo hành, tiếng chửi của Chí Phèo, chi tiết Chí Phèo đòi lương thiện trước khi hạ gục kẻ tàn ác: “Tao muốn làm người lương thiện!”. Những chi tiết nghệ thuật ấy sẽ quy tụ các yếu tố khác trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố chứa đựng nhiều ý nghĩa bên trong. Chúng làm nên sự độc đáo, mới lạ cho tác phẩm. Chi tiết bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao là một chi tiết độc đáo. Bát cháo hành là hình ảnh giản dị, quen thuộc với người dân lao động. Nhưng đi vào tác phẩm của Nam Cao, hình ảnh ấy đã trở thành một chi tiết chứa đựng tư tưởng, tình cảm nhân văn cao đẹp, nó đánh thức nhân tính còn ẩn khuất trong hình hài của con quỷ dữ làng Vũ Đại, nó cho thấy tình người còn lung linh toả sáng trong xã hội đầy tăm tối xấu xa. Những chi tiết nghệ thuật đắt giá sẽ làm nên giá trị vượt xa hơn nhiều so với cái nó mô tả. Ví như: Chi tiết “chiếc lá” nhỏ nhoi trên tường trong truyện của O.Henry đã làm nên giá trị vĩnh cửu của thiên truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng”, chi tiết bàn tay Tnú trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành…; chi tiết “cái thẻ sưu” của người chết là anh Hợi trong tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Chi tiết nghệ thuật phải là những yếu tố có sức gợi cảm sâu xa, làm nên cái thần thái riêng của tác phẩm, làm cho tác phẩm có sức lay động lòng người, vượt qua thời gian mà có giá trị dài lâu. Người đọc có thể dễ dàng nhận biết những chi tiết nghệ thuật vì chúng xuất hiện với tần suất lớn trong tác phẩm, chúng được lặp đi lặp lại nên dễ tác động Trang 12 tới sự chú ý của người đọc ví dụ như tiếng chửi của Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo, bàn tay Tnú trong “Rừng xà nu”…Hay có khi đó là những chi tiết chỉ xuất hiện một lần nhưng tạo ấn tượng sâu sắc bởi sự mới lạ nên thu hút sự chú ý và suy nghĩ của người đọc như chi tiết “một dòng nước mắt lấp lánh bò trên hai hõm má đã xám đen lại” của nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, gợi lên sự bất hạnh và đau khổ triền miên của kẻ sống nô lệ. Chi tiết nghệ thuật có vai trò rất quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật. Chúng là những biểu hiện rõ nét nhất về tư tưởng, tâm hồn nhân cách và khả năng sáng tạo của nhà văn. Với người đọc, chi tiết nghệ thuật sẽ là những điểm nhấn, tạo những ấn tượng sâu sắc khó phai trong tâm trí. Quá trình tiếp nhận tác phẩm văn chương, việc xác định được những chi tiết nghệ thuật sẽ giúp cho quá trình cảm thụ, lĩnh hội tác phẩm văn học đi đúng hướng, đúng trọng tâm. 2. Phân biệt chi tiết nghệ thuật với hình ảnh, tình tiết nghệ thuật và điểm sáng thẩm mĩ. 2.1. Chi tiết nghệ thuật và hình ảnh Chi tiết nghệ thuật không phải hình ảnh thuần túy, đặt trong quan hệ giữa chúng với nhau, ta thấy chi tiết nghệ thuật là yếu tố góp phần cấu tạo nên hình ảnh mang tính khái quát. Một hình ảnh muốn chân thực, gợi cảm, sống động phải nhờ vào các chi tiết nghệ thuật. Hình ảnh là một bức tranh phong phú mô tả sự tồn tại của một sự vật hiện tượng nào đó ngoài đời sống được chuyển vào tác phẩm nghệ thuật qua ngòi bút nhà văn. Nó đảm bảo tính chân thật, đáng tin. Hình ảnh đảm bảo đặc điểm về loại gắn với tên gọi cụ thể: cái lò gạch, người nông dân, con trâu, đống rơm, con gà. Chi tiết lại tạo nên sự khác biệt của một Trang 13 hình ảnh này với một hình ảnh khác cùng loại. Khi chúng ta nói tới hình ảnh dòng sông trong văn chương tức là nói đến muôn vàn dòng sông khác nhau trong mỗi tác phẩm. Cái làm nên sự khác biệt giữa muôn vàn dòng sông ấy chính là chi tiết nghệ thuật. Chi tiết nghệ thuật tạo nên nét riêng biệt độc đáo đồng thời gửi vào đó ý thức, quan niệm, điểm nhìn của tác giả. Con sông Hương là hình ảnh xuất hiện rất nhiều trong văn chương, việc tạo dựng con sông này với những chi tiết khác nhau đã tạo nên dấu ấn riêng để phân biệt chính dòng sông ấy trong tác phẩm này với tác phẩm khác. Trong thơ của Vũ Dung: “Một lần anh đến Huế thơ Gặp cô gái đẹp say mơ giấc nồng Sông Hương quyến rũ lạ lùng Em choàng tỉnh giấc ngượng ngùng nhìn tôi” Câu thơ cuối là một chi tiết nghệ thuật, rõ ràng với chi tiết này sông Hương quả thực đã trở thành một con người có tâm hồn, có hành động. Cách nhìn ấy, khiến dòng sông trở thành một cô gái duyên dáng, bẽn lẽn, tình tứ trong cái nhìn say đắm tình yêu của tác giả. Cũng chính dòng sông ấy, qua bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại trở thành một dòng sông với tính cách vô cùng phong phú, đa dạng. Lúc nó là “cô gái Digan tự do, phóng khoáng, man dại.”; khi mang vẻ đẹp “dịu dàng trí tuệ”; lúc lại “như điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế.”… Trang 14 Chi tiết nghệ thuật bao giờ cũng cô đọng, hàm súc, thể hiện sức sáng tạo của nhà văn. Trong bài thơ Đò Lèn (Nguyễn Duy) gồm 6 khổ, tác giả viết về một tuổi thơ nghèo khó bên cạnh người bà tần tảo. Hệ thống chi tiết cảnh vật được nhà thơ liệt kê gồm: cống Na, đồng Quan, ga Lèn, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền cây Thị, đền Sòng..., giúp người đọc hình dung về diện mạo một miền quê với những cảnh trí rất dân dã, gần gũi, quen thuộc. Quan trọng hơn, nó giúp Nguyễn Duy thể hiện sâu sắc thân phận người bà: Đó là thân phận con sâu cái kiến, thân phận thảo dân, mang sắc thái dân đen, đối lập với Tiên Phật, Thánh thần... Bài thơ nói về sự ân hận, sự trưởng thành muộn màng của người cháu. Sống bên bà nhưng vô tâm với nỗi khổ của bà, sống bằng sự chăm sóc, yêu thương vất vả của bà mà cháu không hề biết. “Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực Giữa bà tôi và Tiên Phật thánh thần” Đó là cái tâm cảm của người cháu đã sống rất thực với cuộc đời. Nó chi phối đến mạch tâm sự mang màu sắc triết luận. Nhìn ở góc độ tình cảm, đó là quá trình rời khỏi niềm tin ngây thơ dành cho thánh thần để đến với tình thương dành cho người bà, từ đối tượng mơ hồ đến đối tượng thực. Đôi khi người ta phải trả giá cho những bài học vô cùng đắt. Khi biết yêu thương thì bà đã mất rồi. Nhìn từ góc độ đời sống, đó là cuộc rời bỏ những đối tượng không xứng đáng để đến với đối tượng xứng đáng hơn. Chính người dân kia mới làm nên hiện thực đời sống. Chi tiết “hư, thực” đã nói lên tâm trạng của tác giả, rời bỏ thế giới của đức tin đơn thuần để đến với hiện thực cuộc đời gần gũi, đáng yêu hơn. Trang 15 Chi tiết nghệ thuật trong thơ nhiều khi là một tín hiệu. Giải mã chi tiết nghệ thuật tức là nắm được ý đồ nghệ thuật, ý đồ tư tưởng của nhà thơ. Chỉ qua một vài con chữ trong Truyện Kiều, như chữ “tót” (Ghế trên ngồi tót sỗ sàng), chữ “cò kè” (Cò kè bớt một thêm hai) mà thi hào Nguyễn Du đã lật tẩy chân dung một con buôn, vô học, thô lỗ của nhân vật Mã Giám Sinh. Một chữ “lẻn” làm lộ ra một tính cách mờ ám, lén lút, tráo trở… của Sở Khanh. Chỉ với hai chữ “mặt sắt” đã gọi ra một chân dung tính cách lạnh lùng, hiểm độc, tàn nhẫn và bỉ ổi của Hồ Tôn Hiến… Các chữ “tót”, “cò kè”,“lẻn”, “mặt sắt” đặt trong các câu thơ là những chi tiết đắt giá làm nổi lên hồn cốt nhân vật. So với hình ảnh, chi tiết nghệ thuật mang nghĩa đa dạng, phong phú hơn. Có chi tiết nghệ thuật tham gia vào cấu thành hình ảnh nhưng cũng có chi tiết không tham gia vào cấu tạo hình ảnh chẳng hạn một chỗ ngắt câu, một từ, một âm thanh, một màu sắc. Có những hình ảnh được chuyển hóa thành chi tiết nghệ thuật khi hình ảnh đó xuất hiện trong một tác phẩm nhiều lần nhằm chuyển tải một thông điệp nào đó vượt ra khỏi sự biểu hiện hình thức của nó được người viết kí thác vào đó một ẩn ý mà người đọc bằng thực tế năng lực của mình tri nhận thấy. 2.2. Chi tiết và tình tiết trong tác phẩm văn học. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả cho rằng: “Tình tiết còn được gọi là trường đoạn. Diễn biến của cốt truyện, đơn vị của hành động trong tác phẩm tự sự, kịch, thể hiện một sự việc xẩy ra trong một khoảng thời gian, không gian có thể xác định được. Tình tiết không nhất thiết hợp với yếu tố cốt truyện, một yếu tố cốt truyện có thể được trình bày qua nhiều tình tiết. Sắp xếp các tình tiết trong trần thuật là một yêu cầu quan trọng của kết cấu, trong kịch Trang 16 tình tiết ứng với lớp với cảnh” [20, tr. 277]. Như vậy, tình tiết là những vấn đề có tính quy mô liên quan đến cục diện của toàn tác phẩm. Chi tiết chỉ là những mảnh vỡ trong cuộc sống được chuyển vào tác phẩm mà thôi. Chi tiết không phải là tình tiết mà là yếu tố nhỏ cấu thành nên hình tượng nghệ thuật. Chi tiết tham gia vào hầu như tất cả các quá trình tạo dựng hình tượng nghệ thuật, từ thế giới nghệ thuật, cốt truyện, sự kiện, tình tiết, nhân vật v.v... Còn tình tiết là các sự kiện, các biến cố, các quan hệ góp phần thúc đẩy sự phát triển của tính cách nhân vật và sự phát triển của cốt truyện. Xét theo ý nghĩa này thì tình tiết chủ yếu tồn tại trong tác phẩm có cốt truyện như tự sự và kịch. Một tình tiết có thể bao gồm nhiều chi tiết, nhưng trong nhiều trường hợp có chi tiết cũng mang ý nghĩa như một tình tiết. Tình tiết góp phần xây dựng cốt truyện. Tình tiết bao giờ cũng bám vào cốt truyện và trong từng hoàn cảnh cụ thể. Có thể hiểu tình tiết tạo nên sự vận động của tác phẩm, sự liên kết, soi sáng lẫn nhau. Chính nhờ hệ thống tình tiết mà cốt truyện được hình thành. Ví dụ ở truyện cổ tích Cây Khế, cốt truyện xoay quanh triết lí thiện ác, “tham thì thâm”…Câu chuyện xảy ra trong gia đình (anh – em). Kết cục là người thật thà nhân hậu (thiện) thắng kẻ tham lam độc ác nhờ vào nhân tố thứ ba đó là một thứ quyền lực siêu trần thế (chim thần). Cốt truyện được xây dựng bằng các tình tiết: + Người anh: Tham lam, giành hết tài sản, chỉ để cho em một cây khế. + Người em: thật thà, nhân hậu (có phần thụ động). + Phượng hoàng đến ăn khế  người em van xin  phượng hoàng trả bằng vàng  may túi ba gang  trở nên giàu có. Trang 17 + Vợ chồng người anh nổi máu tham  đổi gia tài để lấy cây khế  Phượng hoàng lại đến ăn  may túi 6 gang  ra đảo thần  trở về bị chết chìm giữa biển cả. Những tình tiết này có tính vững bền nếu thay đổi tình tiết hoặc lược bỏ đi thì không còn cốt truyện nữa. Tính bền vững của tình tiết hoàn toàn khác với tính chất động của các chi tiết. Trong tác phẩm người ta có thể lược bỏ một số chi tiết phụ trợ hoặc thay đổi một số chi tiết mà không làm cho cốt truyện mất đi. Nhưng điều quan trọng là phải nhận ra vị trí của từng bộ phận, từng chi tiết, đâu là chi tiết chủ công, đâu là chi tiết phụ trợ. Có những chi tiết mà không có nó thì giá trị của tác phẩm sẽ giảm đi rõ rệt như chi tiết Tào Tháo “giả trúng phong”, “giết cả nhà Lã Bá Sa”, “cắt tóc thay đầu” trong “Tam Quốc diễn nghĩa”… thiếu các chi tiết này sẽ không nổi rõ được chân dung gian giảo độc ác của Tào Tháo. Trong khi các chi tiết phụ trợ, có thay đi cũng không ảnh hưởng gì đáng kể. Trong truyện, có chi tiết có thể là một tình tiết của cốt truyện. Ví dụ, chi tiết nhân vật Nhĩ trong Bến quê của Nguyễn Minh Châu khi cận kề với cái chết đã thiết tha mong muốn đứa con trai của mình xuống đò để sang cái bến bên kia sông gần nhà – nơi mà suốt cả cuộc đời anh chưa một lần đặt chân đến. Nhưng cậu con trai vì ham chơi nên đã không thực hiện được tâm nguyện của anh để rồi “Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo, hoặc chùng chình”. Và “cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm say mê pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn.” của một con người trước cái chết đang cập kề mà chưa biết thế nào là “bến quê”! Chi tiết này trở thành một tình tiết quan trọng trong cốt truyện. Nó đẩy câu chuyện đến những tình huống và kết thúc bất ngờ, qua đó người học rút ra được giá trị nhân Trang 18 sinh của tác phẩm. Hay chi tiết Mị cởi trói cho A Phủ trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài cũng đồng thời là một tình tiết vv…Chi tiết đó có vai trò thay đổi tình huống truyện: Được cởi trói, A Phủ sẽ làm gì? Đi đâu? Tương lai phía trước của anh sẽ ra sao ? …Rất cần lời giải đáp. 2.3. Chi tiết nghệ thuật và điểm sáng thẩm mĩ. Chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm văn học tồn tại dưới nhiều hình thức có thể là hình ảnh, âm thanh, sắc màu, câu văn, câu thơ. Chúng được dụng công, được trau chuốt, vì thế chúng tạo nên những vẻ đẹp của tác phẩm góp phần xây dựng vẻ đẹp cho hình tượng nghệ thuật. Chúng là biểu hiện của sự sáng tạo trong hình thức nghệ thuật riêng biệt của tác phẩm. Chúng hội tụ nhiều ý nghĩa của tác phẩm. Chúng là đầu mối của những mạch thẩm mĩ trong tác phẩm. Sẽ có nhiều người nghĩ rằng chi tiết nghệ thuật đặc sắc chính là điểm sáng thẩm mĩ, nhưng có ý kiến cho hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau. Thực chất chúng có những nét tương đồng và khác biệt. Chúng ta nói, điểm sáng thẩm mĩ trong tác phẩm văn học chính là chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Nhưng không nói, chi tiết nghệ thuật đặc sắc là điểm sáng thẩm mĩ. Điểm sáng thẩm mĩ chính là chi tiết nghệ thuật nhưng phải là chi tiết nghệ thuật nổi trội nhất, độc đáo nhất, ấn tượng nhất trong số những chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Điểm sáng thẩm mĩ là những chi tiết hội tụ cái hay, cái đẹp ở cả phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Trong khi đó chi tiết nghệ thuật đặc sắc có thể chỉ đặc sắc ở phương diện nội dung hoặc đặc sắc ở phương diện hình thức nghệ thuật. Điểm sáng thẩm mĩ còn có khả năng tập trung biểu hiện nội dung tư tưởng của toàn tác phẩm. Điểm sáng thẩm mĩ là một vẻ đẹp, một ánh sáng rực rỡ, nổi bật nhất trong tác phẩm. Nếu trong tác phẩm chi tiết nghệ thuật được dụng công, được trau chuốt Trang 19 thì điểm sáng thẩm mĩ là những yếu tố nghệ thuật được trau chuốt nhiều nhất, được dụng công nhiều nhất. Chúng được gọi bằng những cái tên như thần tự, nhãn tự, nhãn cú. Chúng chính là linh hồn, thần thái của tác phẩm. Điểm sáng thẩm mĩ làm nên cái thần của tác phẩm. Nó thường hội tụ những đặc điểm như: sự súc tích, cô đọng, sự nổi bật, ấn tượng. Điểm sáng thẩm mĩ là nơi thể hiện rõ nét nhất ý đồ nghệ thuật của nhà văn, nơi tập trung nhất tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Điểm sáng thẩm mĩ là nơi trí tuệ và cảm xúc của tác giả thăng hoa, đem lại những ấn tượng sâu sắc nhất trong tâm trí người đọc. Chẳng hạn bài thơ Chiều tối của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều chi tiết nghệ thuật, nhưng điểm sáng thẩm mỹ của tác phẩm chính là chữ “hồng”. Một chữ “ hồng”, đã làm toát lên vẻ đẹp của cả bài thơ, sáng rõ tư tưởng, cảm xúc của tác giả và soi sáng các chi tiết nghệ thuật còn lại của tác phẩm như “cánh chim, áng mây, cô gái xóm núi”. Chữ “hồng” đã giúp hình tượng thơ vận động khoẻ khoắn, từ buồn đến vui, từ ánh chiều âm u đến ánh lửa rực sáng, ấm áp, nó gắn kết yếu tố cổ điển và hiện đại. Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã bình chữ “hồng” đó như sau: “Với một chữ hồng, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối… Chữ “hồng” trong nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là “con mắt thơ” hoặc là nhãn tự, nó sáng bừng lên, nó cân lại, chỉ một chữ thôi, với hai mươi bảy chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng nữa…” [49, tr. 404]. Chữ “hồng” cho thấy tinh thần lạc quan yêu đời của một tâm hồn luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Điểm sáng thẩm mĩ còn khác chi tiết nghệ thuật đặc sắc ở chỗ, chi tiết nghệ thuật đặc sắc thường xuất hiện ở trong một tác phẩm văn chương có giá trị. Tuy nhiên, không phải tác phẩm có giá trị nào cũng có điểm sáng thẩm mĩ. Nếu chi Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan