Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chi phí lưu thông và những biện pháp giảm chi phí lưu thông...

Tài liệu Chi phí lưu thông và những biện pháp giảm chi phí lưu thông

.DOC
85
124
90

Mô tả:

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 LỜI MỞ ĐẦU Trong thời kỳ kinh tế hội nhập như ngày nay, Việt Nam ta lại mới ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã mở ra nhiều cơ hội song cũng là thách thức to lớn cho nền kinh tế Việt Nam. Đứng trong nền kinh tế, khu vực DNNQD với ưu điểm linh hoạt, năng động, gọn nhẹ đóng một vai trò hết sức quan trọng vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động của các DNNQD còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là vấn đề thiếu vốn và hạn chế về khả năng tiếp cận vốn của các tổ chức tài chính trung gian trong đó có các NHTM. Trên cơ sơ nghiên cứu lý thuyết và thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT Mỹ Hào đã giúp em nhận thức được rất nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động ngân hàng đặc biệt là hoạt động tín dụng và các tác động tích cực của nó đến sự phát triển của các thành phần kinh tế trong đó có các DNNQD, họ là đối tượng đang cần được quan tâm phát triển để có thể phát triển lớn mạnh, có ưu thế cạnh tranh trong nền kinh tế hội nhập này. Nhận thức được sự quan trọng của nguồn vốn đối với các DNNQD và nhu cầu phân phối vốn hiệu quả của các NHTM, em đã quyết định nghiên cứu và chọn đề tài: “Mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Mỹ Hào” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Hoạt động tín dụng và mở rộng tín dụng của NHTM. Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNo&PTNT Mỹ Hào. Chương 3: Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNo&PTNT Mỹ Hào. II.NỘI DUNG 1 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 CHƯƠNG 1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ MỞ RỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM) 1.1. Hoạt động tín dụng của NHTM. 1.1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của tín dụng Ngân Hàng. 1.1.1.1. Khái niệm tín dụng và hoạt động tín dụng trong Ngân Hàng. Có nhiều cách hiểu về thuật ngữ “tín dụng” bởi nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển cao hơn trước và môi trường kinh tế tồn tại nhiều mối quan hệ tài chính từ đó cũng có nhiều khái niệm về tín dụng. Tuy vậy, theo một cách chung nhất ta có thể hiểu: “Tín dụng là một quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (hình thái tiền tệ hay hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu với những điều kiện mà hai bên thoả thuận với nhau”. Như vậy để xuất hiện quan hệ tín dụng thì phải có sự tham gia của hai chủ thể, một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong thời gian nhất định, đồng thời nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời gian đã thoả thuận. Trong Ngân Hàng thì hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng (theo Luật các tổ chức tín dụng nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam). Như vậy ngân hàng là chủ thể có tiền hoặc tài sản để chuyển giao. Cũng theo Luật các tổ chức tín dụng thì: Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có 2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác. 1.1.1.2. Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng. Có 3 đặc trưng cơ bản để ta có thể nhận diện ra quan hệ tín dụng đó là yếu tố lòng tin, tính thời hạn và tính hoàn trả. 1.1.1.2.1.Yếu tố lòng tin Lòng tin là một yếu tố trừ tượng, nhưng là một yếu tố vô cùng quan trọng để tạo nên quan hệ tín dụng, nó là điều kiện cần thiết bao trùm quan hệ tín dụng và nếu không có niềm tin thì quan hệ tín dụng không thể được hình thành. Bản chất của tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng mà không chuyển giao quyền sở hữu từ người sở hữu sang người sử dụng bởi vậy yếu tố lòng tin là không thể thiếu. Người có tài sản giao quyền sử dụng cho người khác phải cảm thấy tin tưởng, tin vào ý muốn hoàn trả và khả năng hoàn trả của người sử dụng. Ngược lại, người có nhu cầu sử dụng tài sản cũng phải có niềm tin vào khả năng đáp ứng yêu cầu của người sở hữu. Tuy nhiên lòng tin của người có tài sản là quan trọng hơn bởi lẽ trong quan hệ tín dụng rủi ro và phần thiệt hại rủi ro hoàn toàn là do người có tài sản gánh chịu. Bản thân từ tín dụng xuất phát từ tiếng la-tinh “credittum” có nghĩa là “sự giao phó” hay “sự tín nhiệm”. Nghiên cứu khái niệm tín dụng cũng cho ta thấy tín dụng là sự thoả thuận có hứa hẹn thời gian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện “mức tín nhiệm” hay “lòng tin” của người cho vay vào người đi vay. 1.1.1.2.2.Tính thời hạn và tính hoàn trả Hàng hoá dù là tiền hay hiện vật khi được đem ra trao đổi đều có giá trị và giá trị sử dụng vì vậy mới có quyền sở hữu và quyền sử dụng. Trong quan hệ mua bán thông thường, sau khi quan hệ mua bán hoàn thành người mua có cả quyền sở hữu và quyền sử dụng của hàng hoá. Trong quan hệ tín dụng lại 3 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 khác, người có hàng hoá chỉ bán giá trị (quyền) sử dụng mà không bán đi giá trị quyền sở hữu của mình. Bởi vậy mà sau một thời gian khai thác giá trị sử dụng (tính thời hạn) người sử dụng phải hoàn trả toàn bộ giá trị hàng hóa và rất ít khi không kèm theokhoản lợi tức hợp lý kèm theo như cam kết đã giao ước với người sở hữu hàng hoá. Xét trong hoạt động của các NHTM, ngân hàng và khách hàng khi chuyển giao một khoản vay đều có một hợp đồng tín dụng được ký kết. Tính thời hạn thể hiện qua thời gian chuyển giao bởi vậy mới có tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn, tín dụng dài hạn. Tính hoàn trả được biểu hiện qua việc khách hàng phải hoàn trả cho ngân hàng khoản vay và một phần giá trị thể hiện giá trị tăng thêm của khoản vay. 1.1.2. Phân loại tín dụng. Hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất cho Ngân Hàng song nó cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất trong các hoạt động của ngân hàng. Bởi vậy để dễ dàng và tiện lợi trong quản lý người ta phân chia tín dụng theo nhiều tiêu chí khác nhau: 1.1.2.1.Phân loại theo thời gian. Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành: *. Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu động. *. Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm (có ngân hàng quy định trung hạn tới 7 năm) tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn. 4 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 *.Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm (hoặc trên 7 năm) tài trợ cho công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu. Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. 1.1.2.2. Phân loại theo hình thức tài trợ. Theo hình thức tài trợ tín dụng được chia thành cho vay, chiết khấu thương phiếu, cho thuê và bảo lãnh *. Cho vay là hình thức Ngân Hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Đây là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng được định lượng theo 2 chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kì và dư nợ cuối kỳ. *. Chiết khấu thương phiếu là hình thức Ngân Hàng ứng trước tiền cho khách hàng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân Hàng để sở hữu một thương phiếu (hoặc một giấy nợ) chưa đến hạn. *. Cho thuê là việc Ngân Hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho Ngân Hàng. *. Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Ngân Hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh được ghi vào tài sản ngoại bảng. Phần bảo lãnh Ngân Hàng phải thực hiện chi trả ghi vào tài sản nội bảng. 1.1.2.3. Phân loại theo hình thức đảm bảo. Theo tiêu chí này tín dụng được chia thành tín dụng có đảm bảo và tín dụng không có đảm bảo: *. Tín dụng có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố: Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng Ngân Hàng đều có đảm bảo nhưng Ngân Hàng chỉ ghi 5 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 vào hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà Ngân Hàng có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ. Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dụng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho Ngân Hàng. *. Tín dụng không cần đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín làm ăn thường xuyên có lãi, tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản vay theo chỉ thị của Chính Phủ, tổ chức tài chính lớn…cũng không cần tài sản đảm bảo. 1.1.2.4. Phân loại theo rủi ro. Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Cách phân loại này giúp Ngân Hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín dụng, dự trù quỹ cho các khản tín dụng rủi ro cao, đánh giá chất lượng tín dụng. *. Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao. *.Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính… *. Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời gian ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn… *. Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì… 1.1.2.5. Phân loại khác. Các cách phân loại khác như:  Phân loại theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp…) 6 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368  Phân loại theo đối tượng tín dụng (Tài sản lưu động, tài sản cố định)  Phân loại theo mục đích (Sản xuất, tiêu dùng…) Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. 1.1.3. Vai trò của tín dụng đối với sự phát triển của Ngân Hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Đối với khách hàng: tín dụng thoả mãn được các yêu cầu hợp lý của khách hàng về khối lượng tín dụng cung cấp, đa dạng hoá các hình thức và loại hình tín dụng cũng như các loại hình dịch vụ bảo lãnh. Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: hoạt động tín dụng đáp ứng được các yêu cầu bức xúc về vốn cho nền kinh tế, là kênh dẫn vốn gián tiếp đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc chuyển dịch một khối lượng lớn các nguồn lực tài chính, trợ giúp ngân sách Nhà nước thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đối với NHTM: Tín dụng luôn được coi là mặt trận hàng đầu, là khâu then chốt và chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. 1.2. Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1.2.1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế 1.2.1.1. Khái niệm doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong nền kinh tế nhiều thành phần như ở nước ta hiện nay có rất nhiều các loại hình doanh nghiệp song song tồn tại và phát triển, và để dễ dàng trong quản lý người ta chia các doanh nghiệp thành các nhóm khác nhau theo 7 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 các tiêu chí khác nhau. Theo khu vực kinh tế và hình thức sở hữu thì các doanh nghiệp được chia thành 3 loại: Khu vực doanh nghiệp quốc doanh hay DNNN là các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà Nước, các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài gọi là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, còn lại là các doanh nghiệp thuộc khu vực DNNQD. Trước đây, trong nền kinh tế bao cấp, kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta chỉ là kinh tế tập thể với hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Từ sau năm 1986, khi nền kinh tế thị trường nước ta bắt đầu hình thành và phát triển, khu vưc kinh tế ngoài quốc doanh mới thực sự hình thành, các DNNQD mới có tính chất tư hữu rõ rệt. Sự tư hữu được thể hiện ở chỗ nền kinh tế xuất hiện rất nhiều các DNNQD thuộc sở hữu của một cá nhân hoặc của một nhóm người có vốn và tài sản đầu tư vào doanh nghiệp, có quyền quản lý và điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. DNNQD bao gồm các loại hình doanh nghiệp sau: Công ty TNHH có hai thành viên trở lên: Là doanh nghiệp trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã cam kết. Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên không vượt quá 50. Công ty TNHH một thành viên: Là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điệu lệ của doanh nghiệp. Công ty hợp danh: Là doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu công ty cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung. Thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình 8 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm trên phần vốn góp của mình vào công ty. Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Công ty cổ phần:Là doanh nghiệp mà vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông,số cổ đông tối thiểu là và không giới hạn số lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn góp vào doanh nghiệp. 1.2.1.2. Đặc điểm và thực trạng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. 1.2.1.2.1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh mang tính chất tư hữu. Hình thức sở hữu của các DNNQD là sở hữu tư nhân (một cá nhân cụ thể) hoặc sở hữu hỗn hợp (đồng sở hữu của một nhóm người). Song chủ yếu là hình thức sở hữu hỗn hợp. Biểu hiện của nó trong nền kinh tế chính là sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty TNHH 2 thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh, và các hợp tác xã. 1.2.1.2.2. Số lượng các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tăng nhanh. 9 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Năm 1986 khi nền kinh tế chuyển mình, các DNNQD chủ yếu tồn tại ở hình thức hợp tác xã và tốc độ tăng trưởng thấp. Năm 1991, Nhà Nước ta có chính sách mở cửa nền kinh tế, đây mới là mốc thời gian đánh dấu sự tăng trưởng vượt bậc của các DNNQD cả về số luợng và chất lượng. Năm 1991 cả nước mới có khoảng trên 400 DNNQD thì đến năm 1999 số lượng các DNNQD đã là 30500 doanh nghiệp (tốc độ tăng bình quân của các DNNQD là 30%/ năm). Năm 2000, sau khi các luật về đăng ký kinh doanh được ban hành và sửa đổi như: Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Ðầu tư trực tiếp của nước ngoài, Luật Hợp tác xã và đặc biệt là Luật Doanh nghiệp đã đi vào cuộc sống, hoạt động trong khu vực doanh nghiệp có nhiều thay đổi, môi trường thông thoáng hơn, sản xuất kinh doanh sôi động hơn, số lượng các DNNQD từ đó mà tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 2000 mới có 35.004 doanh nghiệp, đến 2005 đã lên đến 105.569 doanh nghiệp, như vậy trung bình mỗi năm tăng 14.113 doanh nghiệp (tỷ lệ tăng vào khoảng 28% mỗi năm). Hiện nay nước ta có khoảng 200.000 DNNQD với tổng số vốn lên đến hàng trăm nghìn tỷ đồng là những chứng minh thuyết phục cho khẳng định số lượng các DNNQD ngày càng tăng nhanh. 1.2.1.2.3. Quy mô sản xuất, vốn,lao động nhỏ. Hiện nay, số lượng DNNQD chiếm 93,13% nhưng đây lại là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Qua điều tra cho thấy tính bình quân năm 1991 trung bình mỗi DNNQD có 8 lao động đến năm 2000 cũng chỉ tăng lên là 20 lao động,đến năm 2006 bình quân một DNNQD chỉ có là 32 lao động với số vốn đạt 7 tỷ đồng/1 doanh nghiệp. Đây là con số rất thấp so với chỉ tiêu phân loại về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo tiêu chuẩn doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có dưới 300 lao động và vốn tối đa 10 tỷ đồng. So với tiêu chí này thì có tới có tới 96,81% doanh nghiệp trên cả nước thuộc nhóm nhỏ và vừa. Thậm chí số 10 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 41,8%, doanh nghiệp có 1 - 5 tỷ tiền vốn chiếm 37,03%, doanh nghiệp có 5 - 10 tỷ đồng tiền vốn chỉ chiếm 8,18%. Như vậy, doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và phần lớn số đó là các doanh nghiệp trong khu vực ngoài quốc doanh. 1.2.1.2.4. Thiếu vốn và khả năng huy động còn hạn chế. Vốn hoạt động của doanh nghiệp được lấy từ hai nguồn: Vốn chủ sở hữu và vốn vay. Với quy mô nhỏ, nguồn vốn chủ sở hữu chủ yếu tập trung vào mua sắm trang thiết bị, đất đai, nhà xưởng …nói chung là hình thành tài sản cố định, tạo tiền đề cho doanh nghiệp đi vào hoạt động, từ đó khả năng thanh toán của doanh nghiệp bị hạn chế, vốn tài trợ cho tài sản lưu động không còn nhiều. Các biện pháp làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp như trích từ lợi nhuận kinh doanh thì phải đợi sau một thời gian kinh doanh hiệu quả, thường là sau khi đi vào hoạt động một thời gian tương đối dài; hoặc doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, huy động vốn từ các cổ đông xong với quy mô nhỏ và uy tín không cao thì khả năng doanh nghiệp có thể huy động được vốn từ hình thức này là rất thấp, không khả thi. Doanh nghiệp có thể tài trợ cho tài sản lưu động, tài trợ cho các dự án của mình bằng phương thức đi vay. Doanh nghiệp có thể có nhiều chủ nợ xong có lẽ ở bất kì doanh nghiệp nào chủ nợ lớn nhất vẫn là các NHTM. Trên thực tế, hầu hết các DNNQD đều cho rằng, vay vốn ngân hàng rất khó khăn với nhiều thủ tục như thế chấp, bảo lãnh…Trong khi đó, phần lớn DNNQD có vốn chủ sở hữu rất thấp, ít có tài sản thế chấp, cầm cố, lại không có người bảo lãnh, khả năng lập dự án, phương án sản xuất kinh doanh còn thiếu sức thuyết phục, trình độ quản lý hạn chế, báo cáo tài chính không đủ độ tin cậy…Thêm nữa, ngân hàng lại quá “cầu toàn” trong việc xác định tài sản thế chấp và chặt chẽ các thủ tục nhằm tránh rủi ro xảy ra. Vì vậy vấn đề về vốn luôn là vấn đề 11 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 khó khăn, vấn đề thiếu vốn luôn tồn tại trong quá trình hoạt động của DNNQD, làm vấn đề thiếu vốn trở thành đặc trưng của các DNNQD. 1.2.1.2.5. Lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất đa dạng. DNNQD với số lượng đông đảo, là thành phần kinh tế năng động, ra đời và phát triển đã tham gia hầu hết vào các lĩnh vực kinh doanh trong nền kinh tế: Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp, xây dựng, thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng, vận tải, bưu chính, viễn thông, và các ngành dịch vụ khác…Song một điều dễ nhận thấy là phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, còn các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, khai thác thì chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Điều này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm quy mô nhỏ và thiếu vốn chỉ cho phép họ đầu tư vào những ngành nghề có khả năng quay vòng vốn nhanh, cần ít vốn. Các lĩnh vực như xây dựng, ngân hàng, khai thác… không những cần một lượng vốn lớn mà còn đòi hỏi trình độ quản lý, kinh doanh, phân tích thị trường…chỉ dành cho những doanh nghiệp lớn, có tiềm lực mạnh về tài chính như khu vực doanh nghiệp nhà nước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và một phần nhỏ cho khu vực ngoài quốc doanh. 1.2.1.2.6. Công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý kinh tế, tổ chức sản xuất kinh doanh có nhiều hạn chế, sản phẩm thiếu sức cạnh tranh. Trong suốt quá trình hoạt động của mình có những doanh nghiệp chỉ mua sắm trang thiết bị, công cụ lao động một lần mà chưa chắc đó đã là công nghệ tiên tiến. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xong với điều kiện kinh doanh nhỏ, vốn ít không cho phép họ có khả năng thay đổi công nghệ, tiếp cận khoa học công nghệ mới. Trong khi môi trường kinh doanh ngày càng khốc liệt đòi hỏi trình độ người quản lý,phải có khả năng tổ chức kinh doanh nắm bắt nhu cầu, nhạy 12 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 cảm với sự thay đổi của thị trường ; đòi hỏi người lao động phải có tay nghề, có trình độc chuyên môn thì các doanh nghiệp nhỏ lại rất hạn chế về điều này. Tất cả dẫn tới sản phẩm làm ra bị hạn chế về chất lượng, mẫu mã, chủng loại, không có chỗ đứng trên thị trường mà nói chung là thiếu sức cạnh tranh. Vấn đề về vốn trở thành bức xúc nhất trong hoạt động và ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của doanh nghiệp. Bởi vậy các tổ chức kinh tế trong đó có các NHTM càng cần thiết phải mở rộng cho vay các DNNQD, giúp đỡ các DNNQD mở rộng và phát triển. 1.2.1.3. Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường. Đóng vai trò là thành phần kinh tế năng động, ngày nay DNNQD là không thể thiếu trong nền kinh tế. Sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không chỉ là vấn đề phát triển của nền kinh tế mà nó còn giải quyết hang loạt các vấn đề xã hội. Trước hết đó là vấn đề việc làm cho người lao động, mỗi năm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển, mở rộng tuyển thêm lao động, các doanh nghiệp mới ra đời đã thu hút hàng trăm nghìn lao động từ các khu vực khác, nhiều nhất là người lao động trong khu vực nông nghiệp. Người lao động được cải thiện thu nhập, ổn định cuộc sống, nâng cao trình độ dân trí, góp phần làm ổn định kinh tế xã hội. Thêm vào đó, Ngân Sách Nhà Nước được bổ sung một khoản thu lớn từ thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập của các doanh nghiệp(DNNQD đã đóng góp 40% GDP của cả nước), Nhà Nước có thêm khoản thu, thêm điều kiện để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các hoạt động xã hội công cộng (y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo...) Giải quyết các vấn đề xã hội đã là vai trò to lớn xong vai trò không thể thiếu của các DNNQD còn thể hiện ở trong nền kinh tế thị trường. Với lợi thế 13 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 nhỏ lẻ, số lượng đông đảo, các DNNQD đã khai thác triệt để mọi tiềm năng của đất nước, khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, thu hút vốn dân cư, khai thác tài nguyên thiên nhiên phân tán ở các địa phương, vai trò đặc biệt của DNNQD thể hiện ở các khía cạnh sau: Thứ nhất, khu vực các DNNQD là một bộ phận cấu thành nên chỉnh thể các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế, góp phần xây dựng và hoàn thiện lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Thứ hai, DNNQD cùng với các doanh nghiệp thuộc khu vực khác tăng trưởng và phát triển là yếu tố quyết định đến tăng trưởng cao và ổn định nền kinh tế trong những năm qua. Bởi các doanh nghiệp là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế, các DNNQD thì chiếm tới 93,13% số lượng các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Lợi ích cao hơn mà tăng trưởng doanh nghiệp nói chung và DNNQD đem lại là tạo ra khối lượng hàng hoá và dịch vụ lớn hơn, phong phú hơn, chất lượng tốt hơn, thay thế được nhiều mặt hàng phải nhập khẩu, góp phần quan trọng cải thiện và nâng cao mức tiêu dùng trong nước và tăng xuất khẩu, đó cũng là yếu tố giữ cho nền kinh tế ổn định và phát triển những năm qua. Thứ ba, DNNQD phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế quốc dân và trong nội bộ ngành. DNNQD phát triển đa dạng gồm nhiều thành phần, điển hình là các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn tuy còn nhỏ nhưng phát triển nhanh và rộng khắp ở các ngành và các địa phương trong cả nước, loại hình kinh tế tập thể đang được khôi phục và có bước phát triển mới. DNNQD và các doanh nghiệp khác phát triển nhanh trong tất cả các ngành và ở khắp các địa phương đã tạo ra cơ hội phân công lại lao động giữa các khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản và sản xuất kinh doanh nhỏ của hộ gia đình là khu vực lao động có năng suất thấp, thu nhập không cao, chiếm số đông, thiếu việc làm sang khu 14 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 vực doanh nghiệp, nhất là các donh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ có năng suất cao và thu nhập khá hơn. Thứ tư, DNNQD phát triển làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường, thúc đẩy các doanh nghiệp khác làm ăn hiệu quả. Thật vậy, khi các DNNQD phát triển đã làm nền kinh tế xuất hiện nhiều sản phẩm cạnh tranh giành giật thị trường, muốn tồn tại và phát triển bắt buộc các doanh nghiệp phải đổi mới, phải cải tiến sản phẩm, sản phẩm phải có tính ưu việt hơn mới không bị loại khỏi nền kinh tế thị trường. Thứ năm, các DNNQD lấp đầy những chỗ trống mà DNNN để lại. Do nguồn lực của nhà nước có hạn, lực lượng kinh tế của nhà nước trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước không thể tham gia được vào trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Mặt khác, do sự làm ăn thua lỗ , trì trệ của các DNNN trong một quá trình dài, đòi hỏi phải có sự cải cách xu hướng như: cổ phần hoá, tập trung vào những lĩnh vực then chốt có hiệu quả ma tư nhân không muốn hoặc không thể làm được và những lĩnh vực có tính chất chiến lược quốc gia. Sự thu hẹp lĩnh vực hoạt động của DNNN đã tạo ra một khoảng trống về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh dịch vụ cho các DNNQD hoạt động. 1.2.1.4. Ưu điểm và hạn chế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1.2.1.4.1.Ưu điểm. Thứ nhất, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận cao nhất: Một DNNN có thể hoạt động vì nhiều mục tiêu do tính chất công hữu, phục vụ cho lợi ích xã hội của nó. Ở DNNQD thì khác, việc xác lập sở hữu tư nhân, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với lợi ích người lao động và quyền lợi của người làm chủ nên tính sinh lợi được đặt lên cao. Tính chất công việc gắn liền với lợi ích nên không còn hiện tượng quan liêu, bao cấp, thiếu trách nhiệm như ở DNNN. 15 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Thứ hai, DNNQD tập trung những nguồn lực nhỏ lẻ, có khả năng tận dụng triệt để mọi lợi thế kinh doanh, khai thác tối đa mọi nguồn lực như: vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên, những nguyên vật liệu đầu vào sẵn có, thị trường tại chỗ... Mặc dù trình độ khoa học công nghệ không được đánh giá cao như DNNN, song họ biết tận dụng một cách tối đa khả năng của các loại thiết bị máy móc hiện có để phát triển sản xuất. Trong hoạt động của mình các DNNQD lại luôn phải cạnh tranh với các DNNN có nhiều lợi thế nên DNNQD luôn phải tận dụng mọi lợi thế nhỏ nhất để tạo ra tính vượt trội của mình. Thứ ba, hiệu quả sử dụng vốn ở các DNNQD cao, đó cũng là do đặc điểm của ngành nghề tham gia kinh doanh của các doanh nghiệp này, kinh doanh ở các lĩnh vực cần ít vốn, vòng quay vốn ngắn, thêm nữa là khả năng huy động vốn lại khó khăn nên số vốn hiện có được sử dụng một cách triệt để, đúng mục tiêu tạo ra khả năng sinh lời tối đa có thể. Thứ tư, các DNNQD thường có bộ máy quản lý, tổ chức kinh doanh gọn nhẹ. Chính vì quy mô nhỏ và hoạt động luôn tới tính hiệu quả cao nhưng lại ở mức chi phí thấp nhất có thể nên bộ máy quản lý, tổ chức kinh doanh trong doanh nghiệp luôn được tinh giản ở mức thấp nhất có thể .Mặt khác cũng xuất phát từ ngành nghề kinh doanh thường là những ngành đơn giản, dễ quản lý, có chu kỳ kinh doanh ngắn, các quyết định nhanh chóng được đưa ra trong thời gian ngắn bởi vậy họ không cần đến bộ máy cồng kềnh mà chỉ cần một bộ máy gọn nhẹ thích hợp. Thứ năm, DNNQD có tính linh động cao, thích ứng nhanh với những biến động của nền kinh tế. Với quy mô nhỏ, dễ dàng tận dụng, khai thác thị trường nhỏ lẻ, dễ dàng chuyển hướng kinh doanh khi chính sách của nhà nước thay đổi, hay nhu cầu thị trường thay đổi hay lĩnh vực kinh doanh họ đang theo đuổi không phù hợp với tiềm lực sẵn có của doanh nghiệp. Với lợi thế 16 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 bát sát địa phương, địa bàn doanh nghiệp luôn tận dụng được các thị trường nhỏ lẻ là một kênh phân phối hiệu quả. 1.2.1.4.2. Hạn chế Thứ nhất, hạn chế về quy mô vốn đầu tư: Hiện nay quy mô vốn đầu tư đang là rào cản lớn nhất ngăn cản các DNNQD phát triển. Bởi vốn ban đầu thì nhỏ, uy tín thấp, ít tài sản đảm bảo điều đó lại làm cho khả năng huy động vốn khó khăn, đó là một cái vòng luẩn quẩn trong thời gian hoạt động ban đầu của doanh nghiệp. Thứ hai, hạn chế về trình độ khoa học công nghệ: Xuất phát từ hạn chế về vốn thế nên các DNNQD tập trung chủ yếu vào những ngành nghề đòi hỏi ít vốn, chu kỳ kinh doanh ngắn, khả năng thu hồi vốn cao, không đòi hỏi công nghệ phức tạp. Với lượng vốn ít ỏi có được phân bổ vào mọi hoạt động từ quản lý đến sản xuất kinh doanh, DNNQD cũng không có điều kiện để đầu tư vào những máy móc hiện đại công nghệ cao chi phí tốn kém. Trình độ người lao động thấp cũng là một trong những lý do làm cho nhiều DNNQN còn ngần ngại khi đầu tư vào những dây truyền sản xuất công nghệ cao. Do đó, nhiều doanh nghiệp đã cố gắng tận dụng những thiết bị máy móc cũ để sản xuất nhằm giảm chi phí đầu tư phù hợp với lĩnh vực kinh doanh và trình độ lao động của mình. Thứ ba, hạn chế về trình độ quản lý và chất lượng lao động: Vấn đề tồn tại ở các doanh nghiệp nhỏ mà hầu hết là các DNNQD đó là trình độ tay nghề của các lao động chưa cao, đặc biệt là trình độ quản lý nói chung còn hạn chế do ít được đào tạo căn bản hoặc không qua trường lớp đào tạo. Vì thế, nó chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Điều này cũng lý giải vì sao một số doanh nghiệp trong thị trường khi làm ăn nhỏ thì có hiệu quả và rất phát đạt, nhưng sau khi chuyển sang kinh doanh lớn, mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường thì lại thua lỗ, thậm chí dẫn đến hậu quả phá sản. Bởi khi 17 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thì cũng đòi hỏi người quản lý phải có trình độ cao và chặt chẽ, người lao động cũng phải được nâng cao về trình độ tay nghề sản phẩm mới có thể đưa sản phẩm tiêu thụ được trên thị trường rộng lớn hơn đưa tới thành công cho doanh nghiệp. Thứ tư, hạn chế về trình độ của người quản lý dẫn tới cơ chế quản lý tài chính của các DNNQD chưa theo kịp những yêu cầu cao của nền kinh tế thị trường hiện đại như việc áp dụng đầy đủ, minh bạch các báo cáo tài chính, hệ thống kế toán chồng chéo chưa có sự thống nhất rất khó cho việc kiểm tra kiểm soát của các đơn vị liên quan. Thứ năm, các DNNQD hoạt động thường ít tự giác tuân thủ pháp luật. Việc phạm luật, lách luật, chạy theo lợi nhuận bất chấp luật còn xảy ra phổ biến. Trên thực tê có rất nhiều các doanh nghiệp hạch toán lợi nhuận trên sổ sách thấp hơn rất nhiều lợi nhuận có được trên thực tế nhằm giảm nghĩa vụ đóng thuế của mình với Nhà Nước. 1.2.2. Sự cần thiết của việc hình thành và phát triển tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 1.2.2.1. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thứ nhất, tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các doanh nghiệp, giúp bổ sung vốn lưu động và vốn cố định còn thiếu, đáp ứng nhu cầu phát triển của DNNQD, giúp các DNNQD duy trì hoạt động liên tục. Tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế kể cả là những doanh nghiệp có đủ vốn tự có để tham gia hoạt động sản xuất kinh đều sử dụng vốn nợ để tài trợ cho các hoạt động của mình bởi vì điều đó không những làm tăng khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn làm giảm chi phí vốn. Vốn vay vừa có thể bổ sung lượng vốn còn thiếu cho doanh nghiệp mà không làm mất đi quyền kiểm soát và điều hàng của người sở hữu 18 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 doanh nghiệp. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp sử dụng vốn nợ quá nhiều sẽ làm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán vì vậy doanh nghiệp cần tính toán để cân đối vốn chủ sở hữu và vốn nợ sao cho đảm bảo cơ cấu vốn hợp lý. Thứ hai, các ngân hàng thương mại phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả, cho phép doanh nghiệp khai thác sử dụng tài sản trong một thời gian nhất định xong gắn với trách nhiệm hoàn trả lãi và gốc trong một thời gian nhất định nào đó đã buộc người kinh doanh phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Người đi vay phải tính toán chi phí sản xuất, tốc độ quay vòng vốn để sao cho khi hết hạn thời hạn vay có đủ vốn và lãi để trả ngân hàng và một phần lợi nhuận cho mình. Với điều kiện ràng buộc về lãi xuất, thời gian và mục đích khi vay, người vay hiểu rõ trách nhiệm của họ trong việc sử dụng vốn vay và phải thúc đẩy sản xuất kinh doanh của mình sao cho đạt hiệu quả cao nhất qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy sự ra đời, phát triển của các DNNQD bởi lẽ tín dụng ngân hàng nguồn hỗ trợ nguồn vốn đặc biệt cho doanh nghiệp, là nguồn vốn doanh nghiệp có thể chiếm dụng được giúp doanh nghiệp có vốn để sau khi thành lập đi đến và phát triển. Thứ tư, tín dụng Ngân Hàng góp phần tạo điều kiện tiếp thu khoa học công nghệ. Ngân hàng cho vay không chỉ căn cứ vào tài sản đảm bảo mà còn căn cứ vào phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Công nghệ là một yếu tố quan trọng để giúp cho phương án sản xuất kinh doanh đảm bảo sự chắc chắn thành công . Thứ năm, tín dụng ngân hàng góp phần điều chỉnh chiến lược kinh tế, thúc đẩy các DNNQD phát triển đúng hướng, chống lạm phát, tạo môi trường kinh tế ổn định. 1.2.2.2. Sự cần vốn từ phía doanh nghiệp. 19 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Trong suốt quá trình từ khi thành lập đến khi đi vào sản xuất kinh doanh rồi phát triển của bất kỳ doanh nghiệp nào đều cần phải có vốn đầu tư. Vốn để mua sắm tài sản cố định, vốn để thuê lao động, vốn để mua hàng hoá, nguyên vật liệu đầu vào phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh, và vốn cũng là để duy trì liên tục của doanh nghiệp, tăng vốn là điều kiện tiên quyết nếu doanh nghiệp muốn phát triển. Khác với các doanh nghiệp nhà nước vốn được tài trợ bổ sung từ ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải tự huy động nguồn vốn từ nội lực bản thân mình mà điều này thì luôn có giới hạn. Trong thời kỳ kinh tế mở phát triển như ngày nay, các doanh nghiệp đều muốn mở rộng phát triển mình, nên nhu cầu về vốn ngày càng lớn và trở nên bức xúc. Có nhiều cách để huy động được nguồn vốn để tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp lớn có thể huy động bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu, dùng uy tín và tài sản đảm bảo đủ lớn để vay được vốn từ nhiều nguồn khác nhau, xong số doanh nghiệp này tồn tại trong nền kinh tế không nhiều. Các DNNQD chiếm phần đông số lượng doanh nghiệp song chủ yếu ở dạng vừa và nhỏ. Họ cũng có các công cụ huy động vốn song có lẽ phổ biến nhất là vay vốn tại các trung gian tài chính mà cụ thể là các ngân hàng thương mại. Thực tế cho thấy không một doanh nghiệp nào tồn tại và phát triển mà không có quan hệ tín dụng vay- trả từ các NHTM. Nhà nước ta đang có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển thế nên ngày càng có nhiều các DNNQD được thành lập và đi vào hoạt động . Thêm vào đó là chủ trương cổ phần hoá DNNN, chuyển một bộ phận các DNNN sang hoạt động như các DNNQD tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho các DNNQD. Chính vì thế nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất của DNNQD không ngừng tăng lên. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan