Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật việt nam hiện hành...

Tài liệu Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật việt nam hiện hành

.DOC
25
347
131

Mô tả:

1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định quan trọng của pháp luật hôn nhân và gia đình. Ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay đã có nhiều quy định về chế độ tài sản của vợ chồng. Thực hiện và áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng góp phần vào sự ổn định các quan hệ hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được của pháp luật điều chỉnh vấn đề tài sản của vợ chồng, quá trình thực hiện và áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng cho thấy còn có những bất cập và vướng mắc. Nguyên nhân có nhiều, trong đó cần kể đến một số quy định về chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ mới chỉ dừng lại ở tính chất định khung, văn bản hướng dẫn còn thiếu, chưa cụ thể, chưa theo kịp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Với đề tài: “Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam hiện hành”, tiểu luận làm rõ hơn những quy định của pháp luật điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng; cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định về chế độ tài sản của vợ chồng và đưa ra những điểm hợp lý hay không hợp lý. Từ đó, tiểu luận đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Với đề tài: “Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam hiện hành” trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này. Bên cạnh những văn bản hướng dẫn áp dụng luật HN&GĐ, mới chỉ có một số bài viết trên các Tạp chí luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí nhà nước và pháp luật nghiên cứu, đề xuất kiến nghị một số vấn đề liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. Tại các cơ sở đào tạo luật học ở nước ta thì đã có một số khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật hoặc luận án cao học luật nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng như là: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, Luận án Tiến sĩ, 2005); Xác định chế độ tài sản của vợ chồng - một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Nguyễn Hồng Hải, Luận văn Thạc sĩ, 2002); Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 - Thành tựu, vướng mắc và hướng hoàn thiện (Trần Thị Thuỳ Liên, Luận văn Thạc sĩ, 2012). Bên cạnh nội dung cơ bản của các quy định của luật HN&GĐ về chế độ tài sản của vợ chồng, nguyên tắc và căn cứ xác định tài sản của vợ chồng đã có một số giáo trình và những cuốn sách tham khảo tiêu biểu phải nói đến là: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2008); Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Nguyễn Ngọc Điện, Nxb Trẻ, 2004). Ngoài ra còn có các bài viết trên các báo, tạp chí có thể kể đến một số bài như: Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (Nguyễn Phương Lan, 2002, Tạp chí Luật học, số 6); Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong 2 thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hôn nhân gia đình hiện hành (Nguyễn Hồng Hải, 2003, Tạp chí Luật học, số 5). Nói đến chế độ tài sản của vợ chồng thì đã có nhiều công trình nghiên cứu với kết quả khác nhau có những công trình nghiên cứu ở mức độ sâu rộng cũng có những công trình nghiên cứu ở diện chung, chỉ dừng lại ở việc giải thích nội dung các điều của luật HN&GĐ quy định về vấn đề tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên cho dù các công trình này đã có những thành công với nội dung ưu việt, tiên tiến nhưng cũng còn nhiều vấn đề không bắt kịp nhịp sống xã hội hiện nay, có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống vợ chồng, đặc biệt là vấn đề tài sản. Vì vậy tiểu luận đi vào nghiên cứu một cách toàn diện, có tính hệ thống về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam hiện hành. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Chế độ tài sản của vợ chồng luôn là vấn đề được xã hội quan tâm và được quy định cụ thể trong luật hôn nhân và gia đình vì vậy mục đích của đề tài là phân tích, đánh giá việc áp dụng pháp luật đồng thời nhận dạng những thuận lợi cũng như những khó khăn, hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng, trên cơ sở đó chỉ ra những điểm còn chưa phù hợp của luật thực định và của quá trình áp dụng luật vào thực tiễn. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng. Với mục đích trên, tiểu luận xác định những nhiệm vụ cơ bản sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng. - Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng: Chế độ tài sản theo luật định và chế độ tài sản theo thỏa thuận. - Tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng qua việc công nhận sự thỏa thuận của vợ chồng trong giải quyết các tranh chấp về tài sản và tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng tại các Văn phòng công chứng thông qua hoạt động công chứng các hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng. - Trên cơ sở phân tích nội dung và thực tiễn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tiểu luận kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng dưới góc độ pháp luật và áp dụng pháp luật. 4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu: Tiểu luận tập chung nghiên cứu chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Phạm vi nghiên cứu: - Nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam về chế độ tài sản của vợ chồng, trong đó tập trung chủ yếu vào chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định và chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuân được quy định trong Luật HN&GĐ hiện hành và một số văn bản pháp luật khác có liên quan. 3 - Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Trong quá trình nghiên cứu Tôi đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để làm rõ đề tài chế độ tài sản của vợ chồng đó là phương pháp: - Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu chế độ tài sản của vợ chồng thông qua các thời kỳ ở Việt Nam. - Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn đề liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng và khái quát những nội dung cơ bản được nghiên cứu trong tiểu luận. - Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây của Việt Nam cụ thể là luật HN&GĐ 2014 với luật HN&GĐ năm 2000. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Ý nghĩa khoa học: Với đề tài này sau khi hoàn thành, Tôi hy vọng rằng, những kiến thức khoa học được nghiên cứu tìm hiểu trong tiểu luận sẽ được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các bạn đọc trong quá trình học tập, những công tác nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật ở nước ta, đặt biệt đối với chuyên ngành luật hôn nhân và gia đình. Gía trị ứng dụng: Nội dung của tiểu luận có ý nghĩa thiết thực cho mọi cá nhân, gia đình, xã hội đặc biệt là cho các cặp vợ chồng tìm hiểu các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng biết được cơ sở pháp lý tạo lập các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ cụ thể của vợ, chồng đối với những loại tài sản này; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản của vợ chồng... Từ đó, góp phần thực hiện pháp luật, xây dựng một gia đình dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc, bền vững. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của tiểu luận gồm hai chương như sau: Chương 1: Khái quát chung về chế độ tài sản của vợ chồng trong luật hôn nhân gia đình hiện hành Chương 2: Chế độ tài sản của vợ chồng, thực trạng và một số kiến nghị về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam hiện hành. 4 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH HIỆN HÀNH 1.1. Khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng Gia đình là tế bào của xã hội, thể hiện tính chất và kết cấu của xã hội. Trog xã hội có giai cấp, nhà nước luôn được pháp luật điều chỉnh các quan hệ hôn nhân gia đình, xây dựng mô hình phù hợp với thiết chế xã hội. Gia đình có vị trí, vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Chế độ tài sản của vợ chồng được dự liệu xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự phát triển của xã hội, do tính chất, mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập, chế độ tài sản của vợ chồng được quy định phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá của đất nước. Các nhà làm luật đã quan tâm xây dựng các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những chế định quan trọng, cơ bản nhất của pháp luật hôn nhân và gia đình.Vì vậy, “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ và chồng theo luật định”1 1.2. Đặc điểm, ý nghĩa về chế độ tài sản của vợ chồng Đặc điểm: Có bốn đặc điểm - Thứ nhất: Chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này phải có đầy đủ năng lực chủ thể và phải tuân thủ các điều kiện kết hôn được quy định trong pháp luật HN&GĐ. - Thứ hai: Quy định về chế độ tài sản của vợ chồng nhằm bảo đảm quyền lợi của gia đình; tạo điều kiện để vợ chồng chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. - Thứ ba: Chế độ tài sản của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân. - Thứ tư: Chế độ tài sản của vợ chồng cũng mang những đặc thù riêng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể, như quyền định đoạt tài sản bị hạn chế trong một số trường hợp (ví dụ, nếu tài sản riêng đang là nguồn sống duy nhất của cả gia đình, khi định đoạt liên quan đến tài sản này thì phải có thoả thuận của hai vợ chồng). Ý nghĩa: - Chế độ tài sản của vợ chồng với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật về hôn nhân và gia đình. Nhìn vào chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật của Nhà nước, người ta có thể nhận biết được trình độ phát triển của các điều kiện 1 Nguyễn Văn Cừ. Chế độ tài sản của vợ và chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, trang 8 5 kinh tế - xã hội (tính khách quan) và ý chí của Nhà nước thể hiện bản chất của chế độ xã hội đó (tính chủ quan). - Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật có ý nghĩa nhằm xác định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình. - Việc phân định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng của chế độ tài sản còn nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với các loại tài sản của vợ chồng. Đó là cơ sở pháp lý để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và với những người khác trong thực tế. 1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam qua các thời kì lịch sử 1.3.1. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam thời phong kiến đến năm 2001 Từ 1954 - 1975 do đất nước bị chia cắt làm hai miền, ở miền Nam thời kỳ này áp dụng ba văn bản luật được chế độ nguỵ quyền Sài Gòn ban hành. Trong đó, Luật gia đình ngày 2/1/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm đã dự liệu chế độ cộng đồng toàn sản giữa vợ chồng, còn Sắc luật số 15/64 và Bộ luật Dân Sự năm 1972 dự liệu chế độ cộng đồng động sản và tạo sản.2 Trong thời kỳ pháp thuộc chế độ tài sản của vợ chồng được quy định và áp dụng trong Bộ luật dân sự Bắc kỳ năm 1931 và Bộ luật dân sự Trung kỳ năm 1936 là chế độ cộng đồng toàn sản. Còn ở miền Nam, Tập dân luật Giản yếu Nam kỳ năm 1883 không dự liệu cụ thể về chế độ tài sản của vợ chồng, nên được áp dụng theo án lệ, cho đến ngày ra đời Luật gia đình ngày 2/1/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm. Cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, tính tất yếu khách quan đòi hỏi phải có hệ thống quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quy định dần hoàn thiện và phù hợp với đời sống kinh tế, xã hội. Từ đó mà luật HN&GĐ có những quy định cụ thể về chế độ tài sản của vợ chồng năm 1959, 1986 lần lượt ra đời. “Chế độ tài sản của vợ và chồng mà luật HN&GĐ năm 1986 quy định đã tạo ra một môi trường pháp lý đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng; đảm bảo sự tự do của vợ chồng khi tham gia các giao dịch ngoài xã hội cũng như xác định rõ trách nhiệm, khả năng thanh toán của vợ chồng và bảo vệ quyền lợi của những người khác khi tham gia giao dịch. Mặc khác, đó còn là căn cứ pháp lý để các cấp tòa án giải quyết thấu đáo, công bằng những vụ việc tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng”3. 2 3 Luận văn thạc sĩ Lã thị Tuyền, chế độ tài sản của vợ chồng trong luật hôn nhân và gia đình http://luatsuquangthai.vn/mot-so-y-kien-ve-quyen-so-huu-tai-san-cua-vo-chong-184-a3id 6 1.3.2. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2015 Qua các điều kiện kinh tế - xã hội và thực tế các quan hệ HN&GĐ, theo thời gian, Nhà nước ta ban hành các văn bản pháp luật về HN&GĐ, quy định về chế độ tài sản của vợ chồng; từ chỗ chưa quy định cụ thể, đến dần hoàn thiện và phù hợp với đời sống kinh tế, xã hội, có tính khả thi cao. Kế thừa và phát huy Luật HN&GĐ năm 1986 ,luật HN&GĐ năm 2000 ra đời quy định cụ thể về chế độ tài sản của vợ chồng, trong đó, vợ chồng có quyền bình đẳng khi thực hiện quyền sở hữu và định đoạt tài sản chung. 1.3.3. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam từ năm 2015 đến nay Vừa qua chính phủ ban hành Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình. Trong đó, Nghị định bổ sung một số quy định mới về chế độ tài sản của vợ chồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có nhiều điểm mới so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, trong đó có điểm mới về chế độ tài sản của vợ chồng. Cụ thể, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 bổ sung quy định về các nguyên tắc chung trong áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng, trong đó vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Quy định chi tiết nội dung này, Nghị định 126/2014/NĐ-CP bổ sung một số quy định cụ thể về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định và chế độ tài sản theo thỏa thuận. Hiện nay, Việt Nam đã ghi nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận: Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thoả thuận4. Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận thì thoả thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn. Tiếp đó pháp luật cũng quy định: Vợ, chồng có quyền sửa đổi, bổ sung nội dung thoả thuận về chế độ tài sản. Việc ghi nhận nội dung này thể hiện sự thông thoáng, hạn chế quy định cứng nhắc của pháp luật, tạo điều kiện để vợ, chồng có thể tham gia vào các giao dịch dân sự, kinh tế vì lợi ích chung của gia đình. 1.4. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng 1.4.1. Chế độ tài sản theo thỏa thuận 1.4.1.1. Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng 4 Khoản 1, Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình 7 Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận (hay còn gọi là chế độ tài sản ước định) là chế định không còn xa lạ trong hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình của nhiều nước trên thế giới. Trên cơ sở tiếp thu và kế thừa các quy định của Luật HN&GĐ năm 1959, năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000. Về chế độ tài sản của vợ chồng, Luật HN & GĐ năm 2000 chỉ công nhận chế độ tài sản theo pháp định, chế độ tài sản này được áp dụng cho mọi quan hệ hôn nhân được pháp luật công nhận. Nhằm khắc phục những thiếu sót, hạn chế trong quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 nói chung và quy định về chế độ tài sản vợ chồng nói riêng, Luật HN&GĐ năm 2014 trên cơ sở sửa đổi các quy định cũ và bổ sung thêm một số quy định mới. Trong số các điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014, lần đầu tiên chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được chính thức ghi nhận trong pháp luật HN&GĐ của nước ta 5. Như vậy, theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 không còn tồn tại một chế độ tài sản duy nhất được công nhận là chế độ tài sản theo luật định mà hiện nay còn ghi nhận thêm chế độ tài sản theo thỏa thuận. Đây là quy định mang tính đột phá, đổi mới, tạo điều kiện cho vợ chồng tự do thỏa thuận, quyết định và tự định đoạt đối với tài sản của mình trước khi kết hôn cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi bên. Mặc dù chế độ tài sản theo thỏa thuận đã được nhiều nước áp dụng trong thực tế, nhưng đến nay vẫn còn có những quan điểm khác nhau liên quan đến loại chế định này. “Nhiều ý kiến cho rằng không gì giết chết sự lãng mạn vợ chồng bằng hôn ước. Đối với các cặp đôi thật sự yêu thương nhau, hôn nhân là để gắn bó, chia sẻ mọi thứ quý giá như cuộc sống, thân thể, con cái… chứ không chỉ là tiền bạc. Mặt khác, nếu hai người vô tư đến với nhau không nghĩ ngợi đến hôn ước thì nhiều khả năng cuộc hôn nhân sẽ hạnh phúc và lâu bền hơn”6. Tuy nhiên, có quan điểm ngược lại khi cho rằng hôn ước hạn chế ly hôn vì nó giúp các cặp vợ chồng vượt qua bất đồng về tài chính ngay từ đầu; nói chuyện tiền bạc trước hôn nhân không phải dễ nhưng lại giúp tránh được rắc rối về sau, đồng thời giúp hạn chế các tổn thương về tài chính và cả cảm xúc mà một cuộc ly hôn (nếu buộc phải xảy ra) mang lại. Bên cạnh đó, có nhiều ý kiến cũng khuyên rằng những người có tài sản lớn và lập gia đình lần hai trở đi nên lập hôn ước và một người cần cân nhắc lập hôn ước trước khi kết hôn nếu sở hữu một cơ sở kinh doanh, bất động sản, dự đoán sẽ có một khoản thừa kế trong tương lai, thu nhập cao hơn nhiều so với người kia, có con từ các cuộc hôn nhân trước, có cha mẹ già phải nuôi dưỡng. Như vậy, việc lựa chọn và xác lập chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là quyền của vợ, chồng được pháp luật hôn nhân gia đình ghi nhận tại khoản 1 Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2014. Chế độ tài sản của vợ chồng luật định không còn là chế độ tài sản duy nhất, đầu tiên được ưu tiên áp dụng cho quan hệ tài sản giữa vợ, chồng mà là giải pháp dự phòng được áp dụng trong trường hợp vợ chồng không lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc có thỏa thuận về chế độ tài sản nhưng thỏa 5 Luật sư Hoàng Thị Khánh Linh, chế độ tài sản theo thỏa thuận của luật hôn nhân gia đình http://lsvn.vn/nghien-cuu-trao-doi/phan-tich-nghien-cuu/che-do-tai-san-cua-vo-chong-theo-thoa-thuan24166.html 6 8 thuận này bị Tòa án tuyên bố vô hiệu theo quy định của Luật HN&GĐ (Điều 7 Nghị định số 126/2014/NĐ - CP). 1.4.1.2. Điều kiện về hình thức Theo quy định tại Điều 47 Luật HN&GĐ năm 2014 thì thỏa thuận xác lập chế độ tài sản vợ chồng phải tuân thủ những điều kiện về mặt hình thức. Cụ thể như sau: “Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn”. Về hình thức, thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng là sự thể hiện ý chí, nguyện vọng, quyền lợi cũng như trách nhiệm của vợ, chồng về vấn đề tài sản, do đó thỏa thuận này phải được vợ, chồng lập thành văn bản và phải được công chứng hoặc chứng thực. Thỏa thuận chỉ được lập bằng văn bản và có chữ ký của hai vợ chồng là chưa đủ, vì xét về mặt pháp lý văn bản này được lập trên cơ sở sự thỏa thuận, thỏa thuận này có được thực hiện hay không phụ thuộc vào sự tự nguyện tôn trọng và trách nhiệm của các bên. Nếu các bên không muốn, không thực hiện đúng những nội dung đã thỏa thuận thì không ai có thể ép buộc được họ vì không có cơ sở. Xét về mặt hình thức, nếu không công chứng hoặc chứng thực thì thỏa thuận đó không phù hợp với quy định của pháp luật và bị coi là không có giá trị do sai về hình thức. Do vậy, việc thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng được lập bằng văn bản và có công chứng hoặc chứng thực sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền lợi của vợ, chồng cũng như đảm bảo cho vợ, chồng có trách nhiệm thực hiện đúng những nội dung đã thỏa thuận, hạn chế các tranh chấp xảy ra liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng trong thực tế. 1.4.1.3. Điều kiện về nội dung Về nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, theo quy định tại Điều 48 Luật HN&GĐ gồm có những nội dung sau: 1. Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản bao gồm: a) Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; b) Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình; c) Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản; d) Nội dung khác có liên quan. 2. Khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này và quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định. 9 Theo đó, những điều kiện về mặt nội dung của thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm: Thứ nhất, xác định tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận; những tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng. Trong văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, trước hết vợ, chồng cần xác định rõ những tài sản nào là tài sản riêng của mỗi bên và những tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng. Vì khi xác định được phạm vi các loại tài sản, quyền sở hữu của mỗi bên thì vợ, chồng sẽ thỏa thuận và thống nhất được với nhau các quyền cũng như nghĩa vụ đối với từng loại tài sản. Cụ thể hơn về vấn đề xác định tài sản của vợ chồng trong nội dung thỏa thuận, khoản 1 Điều 15 Nghị định số 126/2014/NĐ – CP đã quy định như sau: “1. Trường hợp lựa chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì vợ chồng có thể thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong các nội dung sau đây: a) Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; b) Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung; c) Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó; d) Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.” Như vậy, khi xác định về nội dung thỏa thuận, vợ, chồng có thể xác định theo các nội dung sau: nếu giữa vợ và chồng có tài sản thì tài sản của vợ, chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng; giữa vợ và chồng không có tài sản riêng (tất cả tài sản có được trước và trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung); giữa vợ và chồng không có tài sản chung (tất cả tài sản có được trước và trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản riêng); hoặc được xác định theo thỏa thuận khác của vợ, chồng (ví dụ xác định hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là tài sản chung). Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trên cơ sở xác định nội dung về tài sản trong thỏa thuận trước đó vợ và chồng thỏa thuận về các quyền của mỗi bên đối với tài sản chung, tài sản riêng cũng như những nghĩa vụ riêng, nghĩa vụ chung về tài sản hai bên phải gánh chịu và những nhu cầu thiết yếu của gia đình sẽ được đảm bảo bằng tài sản chung hay tài sản riêng. Bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình là nghĩa vụ của vợ, chồng; trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận tài sản bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình là tài sản chung nhưng tài sản chung không đủ thì vợ, chồng cần thỏa thuận việc có đóng góp tài sản riêng của mỗi bên và đóng góp bao nhiêu vào tài sản chung để đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho gia đình. 10 Thứ ba, điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản. Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng được lập trước khi kết hôn và có hiệu lực kể từ ngày vợ, chồng thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo trình tự, điều kiện và quy định của pháp luật. Xuất phát từ nhu cầu của mỗi bên, vợ chồng có thể thỏa thuận các điều kiện được đưa ra khi chấm dứt chế độ tài sản theo thỏa thuận và xác định trong những trường hợp nào một bên hoặc cả hai bên vợ chồng có quyền yêu cầu chấm dứt chế độ tài sản này. Khi chấm dứt chế độ tài sản theo thỏa thuận, tài sản sẽ được chia cho vợ chồng theo thủ tục (thỏa thuận hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết) theo thỏa thuận của vợ chồng và nguyên tắc chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản đó. Về nguyên tắc tài sản có thể chia theo cách thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân hoặc theo nguyên tắc phân chia khác do hai vợ chồng tự thỏa thuận thống nhất với nhau. Và khi có tranh chấp xảy ra, việc giải quyết tranh chấp được ưu tiên áp dụng theo thỏa thuận của vợ chồng. Thứ tư, ngoài những nội dung chủ yếu nêu trên, trong nội dung của thỏa thuận vợ, chồng có thể thỏa thuận những nội dung khác (ví dụ như vấn đề cấp dưỡng cho cha, mẹ, con …) liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mỗi bên. Về tính hợp pháp của nội dung thỏa thuận chế độ tài sản vợ chồng. “Thỏa thuận về tài sản của vợ, chồng phải phù hợp với quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 về nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; quy định về giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của gia đình và các giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà. Các quy định này được áp dụng không phụ thuộc vào chế độ tài sản mà vợ chồng đã lựa chọn là chế độ tài sản theo thỏa thuận hay chế độ tài sản luật định và nếu trong thỏa thuận vi phạm các quy định trên thì người có quyền, lợi ích liên quan đến thỏa thuận đó có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận vô hiệu theo quy định pháp luật. Là những quy tắc chung được áp dụng cho mọi trường hợp nhằm bảo đảm quyền, lợi ích của gia đình, quyền lợi chính đáng của các bên liên quan, của vợ, chồng và ổn định trật tự về quan hệ tài sản của vợ chồng trong xã hội; quy định này cũng góp phần ngăn chặn những hành vi có mục đích không lành mạnh của vợ, chồng”7. Không phải trong mọi trường hợp những nội dung cơ bản đều được vợ, chồng thỏa thuận đầy đủ trong văn bản. Có những vấn đề quan trọng nhưng có thể chưa trải qua thực tế nên vợ chồng không thể dự liệu được, hoặc có những trường hợp vấn đề đã được vợ, chồng thỏa thuận nhưng thỏa thuận này mang tính chung chung, không rõ ràng thì khi giải quyết tranh chấp sẽ không áp dụng theo nội dung trong thỏa thuận mà ưu tiên áp dụng dẫn chiếu các quy định về nguyên tắc chung của chế độ tài sản vợ chồng (các điều 29,30,31,32 luật HN&GĐ) và các quy định tương ứng của chế độ tài sản luật định (khoản 2 Điều 48 Luật HN&GĐ năm 2014). 1.4.1.4. Thỏa thuận về chế độ tài sản vô hiệu 7 Hoàng Thị Khánh Linh, Bình luận khoa học về chế độ tài sản theo thỏa thuân giữa vợ chồng 11 Khoản 1 Điều 50 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “1. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan; b) Vi phạm một trong các quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này; c) Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.” Trong thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, pháp luật đã quy định rõ hình thức, nội dung cũng như điều kiện có hiệu lực của văn bản thỏa thuận 8. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, nếu được xác lập mới phải được lập trước khi kết hôn, được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật và có hiệu lực kể từ ngày đăng ký kết hôn; nếu thỏa thuận được sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung sau khi đã kết hôn thì vợ chồng được sửa đổi, bổ sung trong thời kỳ hôn nhân và thỏa thuận sửa đổi, bổ sung đó có hiệu lực kể từ ngày văn bản thỏa thuận sửa đổi, bổ sung được công chứng hoặc chứng thực. Khi xây dựng Luật HN&GĐ năm 2014, nhà làm luật đã xây dựng các nguyên tắc áp dụng cho chế độ tài sản của vợ chồng. Đây là những nguyên tắc chủ đạo, mang tính nền tảng và định hướng được áp dụng không phụ thuộc vào chế độ tài sản mà vợ chồng lựa chọn (chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc chế độ tài sản luật định). Trong trường hợp một số vấn đề trong nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng chưa được thỏa thuận hoặc thỏa thuận chưa rõ ràng sẽ được áp dụng theo các quy định của nguyên tắc này (tại các điều 29, 30, 31, 32) của Luật HN&GĐ 2014 và các quy định tương ứng của chế độ tài sản luật định. Nguyên tắc này được ưu tiên dẫn chiếu áp dụng trong trường hợp phát sinh tranh chấp liên quan đến vấn đề tài sản của vợ chồng nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ, chồng cũng như các thành viên trong gia đình; bảo vệ và củng cố mục tiêu xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, ấm no, hạnh phúc theo tinh thần của Luật HN&GĐ, chủ trương của Đảng và Nhà nước, nguyện vọng và nhân dân. Chỉ cần thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vi phạm một trong các quy định về nguyên tắc chung của chế độ tài sản của vợ chồng thì thỏa thuận đó bị coi là vô hiệu. Ngoài ra, để bảo vợ quyền, lợi ích chính đáng; quyền được cấp dưỡng, nuôi dưỡng; quyền được thừa kế của cha, mẹ, con và các thành viên khác trong gia đình, khi vợ chồng xác lập thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng thì nội dung của thỏa thuận phải đảm bảo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng; đảm bảo quyền được hưởng di sản thừa kế của cha, mẹ, con và các thành viên khác trong gia đình. 8 Điều 6, Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành 12 Pháp luật cũng quy định, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Theo quy định trên thì bất kỳ người nào cũng có quyền được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật. Do vậy, thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng sẽ bị vô hiệu nếu nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình. Với quy định trên, pháp luật tạo điều kiện cho phép vợ chồng tự do thỏa thuận định đoạt tài sản của mình nhưng vẫn phải đảm bảo các nghĩa vụ về tài sản mà vợ chồng phải gánh chịu với người thứ ba và các thành viên trong gia đình. Quy định này cũng góp phần ngăn chặn những thỏa thuận được vợ chồng xác lập nhằm mục đích không lành mạnh, trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ dân sự làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người có liên quan; góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng được pháp luật công nhận của cha, mẹ, con và của các thành viên khác trong gia đình. 1.4.1.5. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong giao dịch với người thứ ba Trong giao dịch với người thứ ba, có những loại tài sản đặc thù không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng theo quy định của pháp luật như tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán hay động sản do một bên chiếm hữu. Theo quy định của pháp luật trong giao dịch với người thứ ba ngay tình vợ, chồng đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó. Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó. Trong trường hợp vợ, chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận để áp dụng trong quan hệ tài sản của vợ chồng, khi thực hiện giao dịch với người thứ ba, họ sẽ không thể biết hoặc vẫn lầm tưởng rằng chế độ tài sản của vợ, chồng trong giao dịch với mình là chế độ tài sản luật định, từ đó vẫn lựa chọn thực hiện những giao dịch gây bất lợi cho mình. Do đó, để minh bạch hóa thông tin, khả năng tài chính của vợ, chồng cũng như bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba trong giao dịch với vợ, chồng khi vợ chồng lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận mà xác lập, thực hiện giao dịch với người thứ ba, vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan.9 Trong giao dịch dân sự, người thứ ba ngay tình được hiểu là người chiếm hữu không có căn cứ pháp lý đối với tài sản nhưng không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật. Theo quy định tại Điều 138 Bộ luật Dân Sự thì quyền lợi của người thứ ba ngay tình được pháp luật bảo vệ trong hai trường hợp. Thứ nhất, khi giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người 9 Điều 16, Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định một số điều và biện pháp thi hành luật hôn nhân và gia đình 13 thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp chủ sở hữu đòi lại tài sản theo quy định của pháp luật. Thứ hai, khi người thứ ba ngay tình nhận được bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa. Như vậy, trong trường hợp vợ, chồng lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận thì khi giao dịch với người thứ ba, vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp các thông tin liên quan cho người thứ ba biết. Trường hợp người thứ ba không biết, vẫn xác lập giao dịch, giao dịch bị vô hiệu vì bất kỳ lý do gì do vợ, chồng vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật thì quyền lợi của người thứ ba ngay tình vẫn được pháp luật ưu tiên bảo vệ. 1.4.1.6. Sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng Khoản 1 Điều 49 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định rõ: “Vợ, chồng có quyền sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản”. Thỏa thuận hôn ước xác lập chế độ tài sản của vợ chồng phải được lập trước khi kết hôn, chỉ có hiệu lực từ thời điểm kết hôn và mang tính ổn định cao. Về thời điểm thực hiện việc sửa đổi, trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của chế độ tài sản đó hoặc áp dụng chế độ tài sản luật định. Mặc dù thỏa thuận hôn ước mang tính ổn định cao, nhưng pháp luật vẫn cho phép vợ chồng được sửa đổi kể cả khi vợ chồng đã kết hôn nhằm đảm bảo quyền lợi liên quan đến tài sản của vợ chồng, đảm bảo quyền tự do thỏa thuận của vợ chồng được pháp luật bảo vệ. Về thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng, không giống như thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng là có hiệu lực kể từ ngày đăng ký kết hôn mà không phải từ ngày công chứng hoặc chứng thực; thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật. Về hậu quả pháp lý của việc sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng, việc sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng không làm chấm dứt thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng mà chỉ làm thay đổi một số nội dung theo thỏa thuận của vợ chồng trước đó. Cũng giống như khi xác lập mới thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng, trong trường hợp vợ chồng có xác lập giao dịch với người thứ ba thì khi vợ, chồng sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận vợ, chồng vẫn phải đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cung cấp cho người thứ ba biết những thông tin liên quan; nếu vợ, chồng vi phạm nghĩa vụ này thì quyền lợi của người thứ ba vẫn được pháp luật bảo vệ theo quy định của Bộ luật Dân Sự. Bên cạnh đó, để tránh tình trạng vợ, chồng lợi dụng việc sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa 14 vụ dân sự, sau khi thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng được sửa đổi, bổ sung thì các quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm việc sửa đổi, bổ sung chế độ tài sản của vợ chồng có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Như vậy, dù thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng được xác lập mới hay được sửa đổi, bổ sung thì nó cũng chỉ làm thay đổi các quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản của vợ, chồng theo thỏa thuận mà không làm thay đổi quyền cũng như các nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng đối với bên thứ ba có liên quan. 1.5. Chế độ tài sản theo luật định 1.5.1. Tài sản chung của vợ chồng “Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu từ trước về căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với từng loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức thanh toán liên quan đến các khoản nợ chung hay nợ riêng của vợ chồng. Chế độ tài sản này được tất cả các nước dự liệu trong hệ thống pháp luật của mình nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản của vợ chồng”10. Tại Điều 33 luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: 1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật hôn nhân gia đình; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. 2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. 3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng được xác lập trong thời kỳ hôn nhân: Về nguyên tắc, những tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. sở hữu chung hợp nhất theo quy định của pháp luật cụ thể được quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 được hiểu là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung. 10 http://lsvn.vn/nghien-cuu-trao-doi/phan-tich-nghien-cuu/che-do-tai-san-cua-vo-chong-theo-luat-dinh ( ngày truy cập 15/09/2017) 15 Theo quy định tại Điều 38 luật hôn nhân gia đình năm 2014, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật hôn nhân và gia đình; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 của Luật hôn nhân và gia đình. “ Luật hôn nhân và gia đình hiện hành cho phép vợ, chồng hoặc hai vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nếu việc chia tài sản không làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc không nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản; nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức; nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước; nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Việc chia tài sản chung không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba”11. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn: Theo quy định tại Điều 59 luật HN&GĐ năm 2014 chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện theo nguyên tắc cơ bản là chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau: - Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; + Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập. + Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập. + Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. + Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức 11 http://luatannam.vn/tin-tuc/che-do-tai-san-cua-vo-chong-theo-luat-dinh( ngày truy cập 20/09/2017) 16 đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. + Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. +Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều 59 của Luật hôn nhân gia đình. -“Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn (Điều 62 – Luật Hôn nhân & Gia đình 2014) + Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó. + Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau: (i) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật Hôn nhân gia đình. Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng; (ii) Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại Điều 59 của Luật Hôn nhân Gia đình (iii) Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 của Luật Hôn nhân gia đình; (iv) Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai. + Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 của Luật hôn nhân gia đình.”12 Tuỳ từng vụ việc cụ thể, theo quy định của pháp luật mà Toà án quyết định việc chia tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn, bảo đảm quyền lợi chính đáng của các đương sự, nhất là quyền lợi chính đáng của người vợ và con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống bản thân. Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về nguyên tắc chia tài sản chung, tạo cơ sở pháp lý khi giải quyết việc phân chia tài sản, theo đó Điều 66 luật hôn nhân và gia đình quy định: “Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung 12 http://tongdaituvanluat.vn/tu-van-chia-tai-san-chung-cua-vo-chong-sau-ly-hon ( ngày truy cập 19/09/2017) 17 của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế”. Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm những tài sản mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung: Xuất phát từ thực tế cuộc sống về hôn nhân và gia đình và những tranh chấp về tài sản của vợ chồng. Pháp luật ghi nhận việc thoả thuận của các bên trên nguyên tắc quyền tự định đoạt, giữa vợ và chồng có thể thoả thuận tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng và tài sản nào là tài sản riêng của vợ, chồng. Việc nhập hay không nhập tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng vào khối tài sản chung của vợ chồng có thể mặc nhiên hoặc được thoả thuận bằng văn bản. Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành quy định nguyên tắc suy đoán về nguồn gốc tài sản của vợ chồng, bảo đảm quyền tự định đoạt của vợ chồng về tài sản và bảo đảm tính công bằng, hợp lý khi giải quyết tranh chấp: Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung. 1.5.2. Tài sản riêng của vợ chồng Tại Điều 43 luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: 1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. 2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có từ trước khi kết hôn. Việc ghi nhận vợ, chồng có tài sản riêng đã bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, chồng về tài sản. Nguồn gốc tài sản riêng của vợ, chồng gồm những tài sản mà mỗi bên đã có từ trước khi kết hôn. Những tài sản này thuộc quyền sở hữu riêng của mỗi bên và được pháp luật thừa nhận, bảo hộ; Những tài sản này không phải do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, không chịu sự tác động bởi tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân và lợi ích chung của gia đình. Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân.Những tài sản này không do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân mà được định đoạt bởi ý chí của chủ sở hữu. Quy định này nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt của các chủ sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật về chuyển dịch tài sản của mình cho bên vợ, chồng được hưởng. Bên cạnh đó “luật HN&GĐ năm 2014 đã bỏ căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng là “đồ dùng, tư trang cá nhân”. Điều này xuất phát từ nhu cầu giải quyết 18 những bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật đối với căn cứ không phù hợp nêu trên. Bởi vì, theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 thì cứ hãy là dồ dùng tư trang cá nhân là thuộc tài sản riêng của vợ, chồng mà không có quy định nào hạn chế giá trị tài sản, không quy định loại tài sản nào được xem là đồ dùng, tư trang cá nhân thuộc sở hữu riêng; đồng thời pháp luật cũng không xem xét nguồn gốc hình thành đồ dùng tư trang là từ tài sản chung hay riêng. Do đó, có thể hiểu người nào (vợ hoặc chồng) quản lý, sử dụng tài sản đó sẽ được xác định là tài sản riêng của người đó. Với quy định như vậy rõ ràng là không phù hợp, vô tình đã tạo khe hở cho vợ hoặc chồng chuyển dịch trái phép tài sản chung sang tài sản riêng, gây thiệt hại cho bên còn lại”13. Ngoài ra, xuất phát từ văn hóa truyền thống của người Việt trong việc tặng, cho con cái các loại tư trang vào ngày cưới, văn hóa cất giữ tiền bạc thông qua các loại tư trang; vì vậy, thiết nghĩ các món trang sức trong trường hợp này được ghi nhận như một sự tích lũy của cải vật chất của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, mang thuộc tính “tiền tệ”, như một phương thức cất giữ, tiết kiệm tài sản chung của gia đình. Do đó, việc pháp luật HNGĐ bỏ căn cứ nêu trên là hoàn toàn phù hợp, tiến bộ. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm những tài sản mà vợ, chồng được chia khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: Theo quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật HN&GĐ năm 2014 đã dự liệu về hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; những tài sản mà vợ, chồng được chia, kể cả hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản riêng được chia, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng.  Kết luận chương 1 Từ khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa và lịch sử hình thành chế độ tài sản của vợ chồng qua các thời kì trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tiểu luận đã phân tích đánh giá về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Trong đó có hai chế độ mà tiểu luận tập chung làm rõ đó là: Chế 13 Phan Vạn Quốc, VKSND huyện Vân Canh, những điểm tiến bộ về chế định tài sản riêng của vợ chồng theo luật HN&GĐ năm 2014 19 độ tài sản của vợ chồng theo luật định và chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Qua những phân tích trên cho thấy tài sản vợ chồng là một trong những nội dung quan trọng của luật hôn nhân và gia đình. Sau khi kết hôn, xuất hiện sự phức tạp trong việc xác định tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng cũng như các lợi ích và các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với khối tài sản này 14. Tài sản giữa vợ chồng khi đó bao gồm khối tài sản được người vợ hoặc người chồng tạo lập trước thời kỳ hôn nhân, khối tài sản được vợ chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân, khối tài sản được tặng cho riêng, được tặng cho chung và các hoa lợi lợi tức phát sinh từ các khối tài sản này. Khác với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, mặc dù thừa nhận chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận là cần thiết và đem lại nhiều lợi ích nhưng chỉ qui định duy nhất một chế độ tài sản vợ chồng theo pháp luật. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 tại Điều 28 qui định hai cách thức xác lập chế độ tài sản của vợ chồng đó là vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Chương 2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 2.1. Thực trạng áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành 14 Ban truyền thông, bình luận về chế độ tài sản của vợ chồng trong luật hôn nhân và gia đình hiện hành 20 2.1.2. Công nhận sự thỏa thuận của vợ chồng trong giải quyết các tranh chấp về tài sản Trên thực tế Tòa án nhân dân các cấp đã vận dụng sự tôn trọng và thừa nhận sự thỏa thuận của vợ chồng là căn cứ giải quyết các tranh chấp đầu tiên đạt hiệu quả rất tốt. Tuy nhiên từ quy định mang tính nguyên tắc trên, trong thực tiễn áp dụng phát sinh hai quan điểm: “Thứ nhất, có quan điểm cho rằng khi vợ chồng không có tranh chấp về tài sản chung, họ tự thỏa thuận thì Tòa án không có nghĩa vụ phải xác minh, điều tra, định giá mà đơn thuần chỉ căn cứ vào lời khai của các đương sự để giải quyết chia theo pháp định hoặc chia theo thỏa thuận. Ngược lại có quan điểm cho là Tòa án luôn tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, nhưng vẫn tiến hành xác minh, điều tra tính phù hợp pháp luật và đạo đức của thỏa thuận đó”15. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, do chú trọng sự thỏa thuận của vợ chồng mà đã công nhận những thỏa thuận bất thường như thỏa thuận có liên quan đến tài sản thuộc sở hữu của người khác, tài sản vợ chồng chưa có căn cứ xác lập quyền sở hữu. Có vụ việc cho thấy Tòa án công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong khi họ đang vay nợ của rất nhiều người, gây ra sự phản ứng và khiếu kiện kéo dài của các chủ nợ. Từ thực tế trên một vấn đề đặt ra là Tòa án cũng không biết tài sản chung của vợ chồng là bao nhiêu, ở đâu và có nguồn gốc hợp pháp không để chia cho đúng nếu các đương sự không khai về tài sản chung. Theo quy định của pháp luật hiện hành, Tòa án chỉ có trách nhiệm điều tra, xác minh khi các đương sự có yêu cầu phân chia tài sản. Nhưng theo quan điểm của tôi Tòa án có quyền điều tra, xác minh lại thỏa thuận của các đương sự khi thỏa thuận đó có sự lừa dối, cưỡng ép hay liên quan đến tài sản có tranh chấp hay thực hiện thỏa thuận để trốn tránh đến nghĩa vụ tài sản. Đồng thời cần có sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cá nhân, tổ chức cung cấp thông tin, chứng cứ để chứng minh thỏa thuận là hợp pháp. 2.1.3. Áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng thông qua hoạt động công chứng tại các Văn phòng công chứng Luật HN&GĐ năm 2014 cũng dự liệu đến những trường hợp vợ chồng lạm dụng quyền của mình trong việc chia tài sản chung có thể gây hậu quả xấu, xâm phạm đến lợi ích hợp pháp khác được pháp luật bảo vệ. Nếu vợ chồng đã thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhưng sau đó có chứng cứ cho rằng việc chia tài sản đó là nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản thì việc chia tài sản đó không được pháp luật công nhận. Theo quy định của pháp luật, khi tham gia vào giao dịch dân sự đối với tài sản chung của vợ chồng đều phải có sự thoả thuận và đồng ý của cả vợ và chồng. Nếu một bên vợ hoặc chồng không thể hiện sự đồng ý thì giao dịch dân sự đó là bất hợp pháp, bị coi là vô hiệu. Đối với các giao dịch dân sự do một bên vợ hoặc chồng thực hiện, thì vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới khi giao dịch đó là hợp pháp và nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế có không ít trường hợp một 15 Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000- Đinh Thị Mai Phương, Nxb Chính trị Quốc gia năm 2004
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan