Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chế độ ban cấp ruộng đất thời lê thánh tông và những tác động tới xã hội đại việ...

Tài liệu Chế độ ban cấp ruộng đất thời lê thánh tông và những tác động tới xã hội đại việt thế kỉ xv

.PDF
53
341
66

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN CHẾ ĐỘ BAN CẤP RUỘNG ĐẤT THỜI LÊ THÁNH TÔNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI XÃ HỘI ĐẠI VIỆT THẾ KỈ XV Thuộc nhóm ngành khoa học: Lịch sử Việt Nam Cổ trung đại Sơn La, tháng 05 năm 2017 TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN CHẾ ĐỘ BAN CẤP RUỘNG ĐẤT THỜI LÊ THÁNH TÔNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI XÃ HỘI ĐẠI VIỆT THẾ KỈ XV Thuộc nhóm ngành khoa học: Lịch sử Việt Nam Cổ trung đại Sinh viên thực hiện: Tạ Mỹ Giang Nam, Nữ: Nữ Dân tộc: Kinh Nguyễn Hoàng Hiệp Nam, Nữ: Nữ Dân tộc: Thái Hờ Thị Chia Nam, Nữ: Nữ Dân tộc: H’Mông Lò Thị Nưa Nam, Nữ: Nữ Dân tộc: Kháng Lớp: K55 ĐHSP Lịch sử Khoa: Sử - Địa Năm thứ : 3/ Số năm đào tạo: 4 Ngành học: Sư phạm Lịch sử Sinh viên chịu trách nhiệm chính: Tạ Mỹ Giang Người hướng dẫn: ThS. Trần Thị Phượng Sơn La, tháng 05 năm 2017 Lời cảm ơn! Với lòng biết ơn sâu sắc, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới ThS. Trần Thị Phƣợng. Người đã tận tình trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài này. Tôi xin gửi tới các thầy giáo, cô giáo trong tổ Lịch sử Việt Nam, Khoa Sử - Địa, phòng Đào tạo, Thư viện Trường Đại học Tây Bắc lời cảm ơn chân thành vì đã quan tâm, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành đề tài. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Bảo tàng, Thư viện các tỉnh Sơn La đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thu thập tài liệu nghiên cứu. Với thời gian nghiên cứu còn hạn chế, chắc chắn đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của quý thầy giáo, cô giáo và bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Sơn La, tháng 5 năm 2017 Tác giả đề tài: Tạ Mỹ Giang Nguyễn Hoàng Hiệp Hờ Thị Chia Lò Thị Nƣa MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài ...........................................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................3 3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................4 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu ...................................................................4 5. Đóng góp mới của đề tài ...............................................................................................5 6. Bố cục của đề tài ...........................................................................................................6 CHƢƠNG 1: ĐẠI VIỆT TRƢỚC CẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG ..............7 1.1. Quá trình xác lập vương triều Lê sơ ..........................................................................7 1.2. Tình hình chính trị .....................................................................................................8 1.3. Tình hình kinh tế ......................................................................................................10 1.4. Tình hình văn hóa, giáo dục ....................................................................................11 Tiểu kết chương 1 ...........................................................................................................12 CHƢƠNG 2: CHẾ ĐỘ BAN CẤP RUỘNG ĐẤT THỜI LÊ THÁNH TÔNG (1460 1497) ..............................................................................................................................................................13 2.1. Khái quát tình hình ruộng đất thời Lê sơ (1427 - 1460) .........................................13 2.2. Chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) ...............................16 Tiểu kết chương 2 ...........................................................................................................26 CHƢƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA CHẾ ĐỘ BAN CẤP RUỘNG ĐẤT THỜI LÊ THÁNH TÔNG TỚI XÃ HỘI ĐẠI VIỆT THẾ KỈ XV ...........................................27 3.1. Trong lĩnh vực kinh tế .............................................................................................27 3.2. Trong lĩnh vực chính trị - xã hội .............................................................................31 3.3. Trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục...........................................................................38 Tiểu kết chương 3 ...........................................................................................................42 KẾT LUẬN ....................................................................................................................43 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................45 PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Dưới chế độ phong kiến, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, nên tư liệu sản xuất căn bản là ruộng đất. Vì vậy, chế độ sở hữu ruộng đất là cơ sở của quan hệ sản xuất phong kiến. Và đương nhiên khi nghiên cứu về chế độ phong kiến thì trước hết phải nghiên cứu về chế độ sở hữu ruộng đất. Hơn nữa, bản thân vấn đề ruộng đất ở các thế kỉ trung đại Việt Nam tự nó mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng. Gần đây, giới sử học và xã hội học đang tập trung nghiên cứu lịch sử các nền văn minh, trong đó văn minh Đại Việt giữ một vị trí trọng yếu. Nó vừa là sự kế tục và nâng cao của nền văn minh sông Hồng nảy sinh từ những thế kỉ trước công nguyên, mang sắc thái đặc biệt, vừa là một trong những nguồn gốc của nền văn minh Việt Nam. Nền tảng của văn minh đó không phải cái gì khác là chế độ ruộng đất đương thời. Như vậy, chế độ sở hữu ruộng đất có ý nghĩa phương pháp luận trong việc nghiên cứu khái quát toàn bộ tiến trình phát triển của xã hội Việt Nam. Khi nghiên cứu trao đổi về vấn đề ruộng đất, đã nảy sinh hàng loạt những cách hiểu khác nhau về các thiết chế sở hữu ruộng đất, từ những hình thức sử dụng cho đến những mối quan hệ xã hội và xu thế phát triển. Những cách hiểu khác nhau đó đã làm cơ sở cho những quan niệm khác nhau về hình thái kinh tế - xã hội Việt Nam trước thế kỉ XIX và dĩ nhiên như vậy sẽ ảnh hưởng quan trọng đến việc nhận thức con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Tách vấn đề ruộng đất ra khỏi toàn bộ xã hội để nghiên cứu do đó góp phần làm sáng tỏ những điểm bất đồng cơ bản, từ đó tạo tiền đề cho một sự nghiên cứu khái quát đúng đắn và khoa học hơn là cần thiết. Chế độ sử hữu ruộng đất của các nhà nước quân chủ Việt Nam trong từng thời kỳ lịch sử có những đặc trưng riêng. Về cơ bản có hai loại sở hữu chính là: sở hữu nhà nước về công điền công thổ và sở hữu tư nhân. Một đặc trưng quan trọng của chế độ ruộng đất của nhiều nước phương Đông trong thời kỳ phong kiến về trước là chế độ sở hữu ruộng đất của nhà nước chiếm ưu thế. Có thể nói, sở hữu công về ruộng đất là cơ sở để tồn tại và phát triển của nhà nước phong kiến trong đó có Đại Việt. Quá trình phong kiến hóa ở Việt Nam là một quá trình lâu dài với những diễn biến phức tạp nhưng về cơ bản đến những năm 70 của thế kỉ XV sau cuộc cải cách hành chính Lê Thánh Tông (1460 - 1497), quá trình này đã được hoàn thiện với việc xác lập quan hệ sản xuất đặc trưng: quan hệ địa chủ - tá điền. Cơ sở dẫn đến sự hình 1 thành quan hệ bóc lột này đó chính là vấn đề ruộng đất. Hay nói cách khác, chính sách ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông có vai trò quan trọng trong việc xác lập chế độ phong kiến ở Việt Nam. Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề ruộng đất thời Lê sơ cũng như cải cách Lê Thánh Tông nhưng ở đây chúng tôi muốn đi sâu làm rõ chính sách ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông cũng như những tác động của chế độ ban cấp này tới xã hội Đại Việt thế kỉ XV. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông và những tác động tới xã hội Đại Việt thế kỉ XV” có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau: Về khoa học: + Góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm lý luận về chế độ ruộng đất Việt Nam thời kỳ cổ - trung đại. + Vẽ nên bức tranh toàn cảnh về bối cảnh xã hội Đại Việt thế kỉ XV. Đây chính là không gian tồn tại, phát triển của chế độ ruộng đất thời kì này. + Làm rõ nội dung chế độ ban cấp ruộng đất thời kì Lê Thánh Tông (1460 1497) thông qua chính sách lộc điền và quân điền. Từ đó có sự nhìn nhận, so sánh, đối chiếu với chính sách ruộng đất của các triều đại trước và sau đó. + Chỉ ra tác động của chế độ ruộng đất thời kì này tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Đại Việt trong thế kỉ XV. + Góp phần làm sáng tỏ sự phân hóa giai cấp trong xã hội trên cơ sở sự phân chia quyền lợi trong sở hữu ruộng đất. + Chỉ ra nguyên nhân sâu xa của các cuộc khởi nghĩa nông dân thời kì trung đại trong lịch sử Việt Nam đều xuất phát từ vấn đề ruộng đất. Đây là vấn đề cốt lõi đối với sự tồn tại và phát triển của một nhà nước phong kiến. Về thực tiễn: + Bổ sung nguồn tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy, học tập Học phần Lịch sử Việt Nam cổ - trung đại; chuyên đề Vấn đề ruộng đất trong lịch sử phong kiến Việt Nam; tiến hành làm đề tài, khóa luận tốt nghiệp cho sinh viên ở các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp. + Làm tài liệu để các nhà nghiên cứu có cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề ruộng đất, phong trào nông dân trong lịch sử Việt Nam thời trung đại. 2 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề ruộng đất trong xã hội Việt Nam cổ trung đại nói chung và các loại hình ruộng đất thời Lê sơ nói riêng. Trong một số công trình đã nghiên cứu và làm rõ chế độ sở hữu ruộng đất ở Việt Nam thời kì cổ - trung đại như: Tác giả Ngô Sĩ Liên (1968) với Đại Việt Sử ký Toàn thư, Tập I, NXB KHXH, Hà Nội. Trong tác phẩm này đã nhắc đến triều đại nhà Lê sơ trong quyển X. Đây là cơ sở để tác giả nghiên cứu bối cảnh, khung cảnh xã hội Đại Việt thời Lê sơ. Đặc biệt đây là nền tảng quan trọng để tác giả có thể tìm hiểu những vấn đề liên quan đến chế độ ruộng đất thời kì này. Trong cuốn Một số chuyên đề Lịch sử Việt Nam của Trần Bá Đệ, 2002, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác phẩm gồm 8 chuyên đề, đề cập đến một số nội dung cơ bản và chuyên sâu của Lịch sử Việt Nam thời Trung đại, Cận - Hiện đại. Trong đó chuyên đề hai: Những cuộc cải cách trong lịch sử Việt Nam thời Trung đại (từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIX), đã đề cập đến cuộc cải cách của Lê Thánh Tông. Tất cả những vấn đề liên quan đến bối cảnh lịch sử đẫn đến cuộc cải cách cũng như nội dung cải cách trên lĩnh vực ruộng đất của Lê Thánh Tông đều được làm rõ. Đây là cơ sở để tác giả có thể đi sâu tìm iểu nội dung chế độ ban cấp ruộng đất thời kì này. Lê Đức Tiết (2007), Lê Thánh Tông vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại, NXB Tư pháp, Hà Nội. Tác phẩm đã nói đến cuộc đời, sự nghiệp, vai trò của Lê Thánh Tông đối với vương triều Lê sơ và đặc biệt đã nói tới chính sách cải cách ruộng đất của Lê Thánh Tông trong thời trị vì của mình (1460 - 1497). Với Lưu Văn An (2008), Thể chế chính trị Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám dưới góc nhìn hiện đại, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. Đây là tài liệu bổ ích giúp tác giả có cái nhìn tương đối khái quát về Lịch sử chính trị của Việt Nam từ thời dựng nước đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tác phẩm này làm rõ khung cảnh xã hội Đại Việt thế kỷ XV, đặc biệt những vấn đề liên quan đến tổ chức chính trị - xã hội của nhà Lê sơ, từ đó cho thấy những ảnh hưởng của chế độ ruộng đất tới thiết chế xã hội thời kì này. Tác giả Trương Hữu Quýnh (2009), Chế độ ruộng đất và một số vấn đề lịch sử Việt Nam, NXB Thế Giới, Hà Nội. Đây là tài liệu quan trọng nhất đã khắc họa đầy đủ nội dung các loại hình ruộng đất, sự biến đổi của tình hình ruộng đất ở nước ta 3 trong thời kỳ trung đại từ thế kỷ XI - XVIII trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Tác phẩm này là nguồn tài liệu quý báu, cung cấp cho tác giả cái nhìn toàn cảnh về chế độ ruộng đất Việt Nam nói chung, Lê sơ nói riêng đặc biệt dưới thời trị vì của Lê Thánh Tông. Để từ đó tác giả có thể so sánh đối chiếu với chính sách ruộng đất của các triều đại khác, làm rõ tác động của chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông tới xã hội Đại Việt trên tất cả các lĩnh vực. Như vậy, các công trình trên đã đề cập đến vấn đề ruộng đất thời Lê sơ nói chung, chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông nói riêng ở nhiều khía cạnh khác nhau. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông và những tác động tới xã hội Đại Việt thế kỉ XV” làm vấn đề nghiên cứu. 3. Đối tƣợng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng Chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông và những tác động tới xã hội Đại Việt thế kỉ XV. 3.2. Phạm vi Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497). Về không gian: Với đề tài chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông và những tác động tới xã hội Đại Việt thế kỉ XV, tập trung nghiên cứu trong phạm vi không gian lãnh thổ Đại Việt bao gồm toàn bộ vùng Bắc Bộ - Bắc Trung Bộ - Duyên hải Nam Trung Bộ kéo dài đến đèo Cù Mông (gianh giới giữa hai tỉnh Bình Định, Phú Yên nay). Về nội dung: Đề tài tập trung làm rõ chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông, cũng như tác động của chế độ ban cấp ruộng đất này tới xã hội Đại Việt thế kỉ XV. 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông và tác động của nó tới xã hội Đại Việt thế kỉ XV. Đồng thời đề tài còn nêu lên tác động của chính sách đó tới lợi ích của nhà nước phong kiến, đời sống của các bộ phận trong xã hội, từ đó thấy được tác dụng và hạn chế của chính sách ruộng đất triều Lê sơ đối với công việc xây dựng và bảo vệ quốc gia Đại Việt. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu 4 4.1. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được hoàn thành trên cơ sở vận dụng chủ yếu các phương pháp đặc trưng của bộ môn khoa học lịch sử như: phương pháp miêu tả, phương pháp logic, phương pháp thống kê, so sánh, nghiên cứu liên ngành... 4.2. Nguồn tư liệu Nguồn tài liệu lưu trữ: Các tác phẩm, bài báo của các tác giả, tập thể các tác giả được công bố ở các Nhà xuất bản, Tạp chí... Đây là nguồn tài liệu quan trọng, là cơ sở để xây dựng nên đề tài, là nguồn tài liệu tham khảo, cung cấp cho chúng tôi thêm những thông tin về tình hình ruộng đất thời Lê sơ, đặc biệt là chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông để hoàn thành đề tài. 5. Đóng góp mới của đề tài Thứ nhất, góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm lý luận về chế độ ruộng đất Việt Nam nói chung thời kỳ cổ - trung đại nói riêng. Thứ hai, vẽ nên bức tranh toàn cảnh về bối cảnh xã hội Đại Việt thế kỉ XV. Đây chính là không gian tồn tại, phát triển của chế độ ruộng đất thời kì này. Từ bức tranh toàn cảnh ấy đề tài làm rõ nội dung chế độ ban cấp ruộng đất thời kì Lê Thánh Tông (1460 - 1497) thông qua chính sách lộc điền và quân điền. Từ đó có sự nhìn nhận, so sánh, đối chiếu với chính sách ruộng đất của các triều đại trước và sau đó. Thứ ba, góp phần làm sáng tỏ sự phân hóa giai cấp trong xã hội trên cơ sở sự phân chia quyền lợi trong sở hữu ruộng đất. Đồng thời chỉ ra nguyên nhân sâu xa của các cuộc khởi nghĩa nông dân thời kì trung đại trong lịch sử Việt Nam đều xuất phát từ vấn đề ruộng đất. Đây là vấn đề cốt lõi đối với sự tồn tại và phát triển của một nhà nước phong kiến. Thứ tư, bổ sung nguồn tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy, học tập Học phần Lịch sử Việt Nam cổ - trung đại; chuyên đề vấn đề ruộng đất trong xã hội phong kiến Việt Nam; tiến hành làm đề tài, khóa luận tốt nghiệp cho sinh viên ở các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp. Thứ năm, làm tài liệu để các nhà nghiên cứu có cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề ruộng đất, phong trào nông dân trong lịch sử Việt Nam thời trung đại. 5 6. Bố cục của đề tài Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài được kết cấu làm 3 chương: Chương 1: Đại Việt trước cải cách của Lê Thánh Tông Chương 2: Chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) Chương 3: Tác động của chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông tới xã hội Đại Việt thế kỷ XV 6 CHƢƠNG 1 ĐẠI VIỆT TRƢỚC CẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG 1.1. Quá trình xác lập vƣơng triều Lê sơ Cuối năm 1407, sau gần một năm dồn sức chiến đấu trong mối tương quan lực lượng không cân sức, cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhà Hồ thất bại. Từ đây phong kiến nhà Minh trực tiếp đô hộ nước ta. Cuộc xâm lược, đô hộ của nhà Minh đã làm cho xã hội Đại Việt truyền thống bị gián đoạn, đứt gãy. Mặc dù bị phong kiến phương Bắc nhiều lần xâm lược, đô hộ nhưng đầu thế kỉ XV, nhà Minh đã áp dụng chính sách đặc biệt nhằm mục tiêu “tẩy não” Đại Việt. Bên cạnh việc xâm lược, bóc lột nhà Minh còn thực hiện thủ đoạn tiêu hủy những giá trị văn hóa, văn hiến của Đại Việt, đốt sạch giấy tờ, sách vở, phá hủy các công trình, ra sức chiếm đoạt ruộng đất. Không cam chịu mất nước, nhân dân ta trên khắp mọi miền đã vùng lên chống lại chính quyền đô hộ. Từ trong bão lửa của phong trào đấu tranh yêu nước, cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi khởi phát ở đất Lam Sơn nhanh chóng phát triển thành phong trào giải phóng dân tộc lan rộng trên quy mô khắp cả nước. Sau 10 năm anh dũng chiến đấu (1418 - 1427), nghĩa quân Lam Sơn đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại chủ quyền đất nước, khôi phục nền độc lập dân tộc. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế tại điện Kính Thiên (Thăng Long), đặt niên hiệu là Thuận Thiên, khôi phục lại quốc hiệu Đại Việt, mở đầu triều đại Lê (thường được gọi là Hậu Lê để phân biệt với thời Tiền Lê của Lê Đại Hành) [11, Tr.319]. Từ khi hình thành, nhà Lê sơ đã xác lập cho mình một vị thế quan trọng bởi đây là vương triều ra đời sau cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vĩ đại. Sự tồn tại của Vương triều Lê sơ đã để lại những ảnh hưởng sâu sắc đối với tiến trình phát triển của lịch sử Đại Việt các thế kỉ về sau. Nhà Lê sơ thành lập là một trường hợp đặc biệt trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đây là vương triều thoát thai từ một cuộc khởi nghĩa toàn dân, thành phần tham gia rộng rãi. Nên ngay từ khi thành lập nhà Lê sơ muốn thực hiện chế độ quân chủ quý tộc hoàn toàn không được bởi ngai vàng của Lê Lợi “ngồi” lên năm 1427 được “đúc” bằng mồ hôi, xương máu của rất nhiều giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Tất cả đều hi sinh cho dân tộc và nhà Lê sơ. Dẫn tới đặc điểm, nhà Lê sơ ngay từ khi thành lập đã mở toang cánh cửa nhà nước và ngay từ đầu nền chính trị Lê sơ là nền chính trị đa tộc thay thế cho đơn 7 tộc trước đây. Trong triều đình có rất nhiều quyền lợi được chia sẻ cho nhiều dòng họ (có 221 công thần trong đó nhà Lê đứng đầu) gọi là giai đoạn đa tộc võ biền. “Các tướng lĩnh của nghĩa quân trước kia đều theo thứ bậc được phong chức, ban tước, trở thành những công thần, quan lại của triều đình phong kiến mới. Danh sách công thần khai quốc lên đến 221 người, chưa kể số người có học, ứng nghĩa vào những năm cuối của cuộc khởi nghĩa”. [17, Tr.148] Như vậy, quá trình xâm lược của nhà Minh đã làm đứt gãy mối quan hệ giữa làng xã với nhà nước, các thiết chế cổ truyền trong các làng xã bị phá tan tạo điều kiện cho nhà Lê sơ có thể dễ dàng thiết lập lại. 1.2. Tình hình chính trị Ngay từ khi thành lập nhà Lê sơ đã bắt tay vào việc xây dựng bộ máy nhà nước, củng cố quyền lực của giai cấp thống trị, giải quyết những hậu quả từ cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Minh. Chính vì vậy, vương triều Lê sơ đã tập trung xây dựng một bộ máy cai trị thống nhất từ trung ương đến địa phương; tiến hành ban thưởng cho các công thần theo sát Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Việc làm này là hết sức cần thiết nhằm tạo ra một hàng ngũ quan lại trung thành với triều đại mình. Về cơ bản mô hình bộ máy nhà nước Lê sơ vẫn được thiết lập theo thể chế quân chủ chuyên chế, đứng đầu là vua nắm mọi quyền hành. Bên dưới là hệ thống các cơ quan giúp việc cho nhà vua được thiết lập từ trung ương đến địa phương và ngày một hoàn chỉnh. Vào buổi đầu thời Lê sơ (từ Lê Thái Tổ đến Lê Nghi Dân (1428 - 1459), bộ máy nhà nước chưa được tổ chức một cách hoàn chỉnh, quyền lực của nhà vua vẫn bị san sẻ cho hệ thống quan lại đại thần đứng đầu là Tể tướng. Hệ thống quan lại đại thần giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình, tham góp ý kiến cùng vua bàn việc nước. Nhà vua phải thông qua bộ phận này mới làm việc được với các cơ quan ở chính quyền trung ương cũng như địa phương. Tuy nhiên, vào thời kì này trong bộ máy nhà nước, đặc biệt là chính quyền trung ương chưa được thiết lập hoàn chỉnh. Nếu như dưới thời Lý - Trần có đầy đủ 6 bộ thì buổi đầu Lê sơ chỉ bao gồm 2 bộ: bộ lại và bộ lễ. Các cơ quan hoàn toàn độc lập với nhau, chưa có sự quản lí, ràng buộc lẫn nhau một cách chặt chẽ. Quyền lực của nhà vua bị san sẻ quá nhiều bởi thành phần tham gia trong tổ chức bộ máy đầu triều Lê sơ 8 chủ yếu là những người tham gia trong khởi nghĩa Lam Sơn và có công lớn giúp Lê Lợi đánh tan quân Minh chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi đội ngũ quý tộc tôn thất như quan lại thời Lý - Trần, đây là điểm hết sức mới mẻ của triều đại Lê sơ so với các triều đại trước. Hay nói cách khác nhà Lê sơ buộc phải san sẻ quyền lợi của dòng họ mình cho nhiều thế lực khác nhau trong cả nước. Hơn thế nữa, nhà nước trung ương vẫn chưa kiểm soát chặt chẽ được các địa phương, đứng đầu các đạo ở cấp chính quyền địa phương là quan Hành Khiển - nắm mọi quyền lực. Đặc biệt ở cấp nhỏ nhất là các làng xã, nhà nước vẫn không kiểm soát được việc bầu các xã quan. Điều này khiến cho sự kết nối của Trung ương Hoàng đế với làng xã bị đứt gãy, nhà nước chưa với tay được vào các làng xã. Xuất phát từ những yếu kém, khuyết điểm trong mô hình bộ máy nhà nước thời kì đầu, năm 1460, ngay sau khi lên ngôi Lê Thánh Tông tiến hành cải tổ lại bộ máy hành chính nhằm xây dựng một nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền cao độ, đưa nhà vua lên vị trí tối thượng mà chưa vương triều nào trước đó có thể làm được. Thêm vào đó, Lê Thánh Tông lấy khoa cử làm hình thức tuyển chọn quan lại chủ yếu. Chính vì vậy, bộ máy nhà nước thời kì Lê Thánh Tông được gọi là mô hình nhà nước tập quyền quan liêu. Đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông, để duy trì bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả từ trung ương đến địa phương, để củng cố, ổn định đất nước, năm 1483, Lê Thánh Tông đã ban hành bộ “Quốc triều hình luật”. Đây là bộ luật mang đặc thù của pháp luật Đại Việt, phản ánh chân thực và sâu sắc tình trạng xã hội nước ta thế kỉ XV và sau này. Giống như các bộ luật trước kia dưới nhà Lý, Trần, bộ luật Hồng Đức cũng thể hiện tính giai cấp rõ ràng trong việc bảo vệ quyền thống trị của nhà nước trung ương tập quyền, bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến, bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và các nguyên tắc đạo đức phong kiến. Thêm vào đó, bộ luật này thể hiện tính dân tộc và nhân dân sâu sắc trong việc bảo vệ sức sản xuất nông nghiệp, xây dựng các công trình công cộng. Điểm mới nhất trong bộ luật này mà chưa từng có trong luật lệ Đại Việt trước kia đó là những đạo luật bênh vực bảo vệ người phụ nữ. Có thể nói: “Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, Luật Hồng Đức không những là bộ luật hoàn chỉnh nhất mà còn là bộ luật tiến bộ nhất của xã hội Việt Nam dưới thời phong kiến”. [14, Tr.142] Cùng với việc xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước, nhà Lê tập trung xây dựng quân 9 đội và quốc phòng. Đến cuối năm 1427, số quân lên đến 35 vạn người. Năm 1428, sau khi lên ngôi vua Thái Tổ cho 25 vạn quân về quê làm ruộng, chỉ giữ lại 10 vạn. Bài toán giải ngũ đặt ra đới với nhà Lê sơ, sau khi quân đội về quê, nhà nước phải tiến hành phân chia ruộng đất, trả lương bổng lộc cho họ. Vậy số ruộng đất này lấy từ đâu? Điều này buộc nhà Lê phải thi hành hàng loạt những biện pháp để phân chia lại ruộng đất trong cả nước, ổn định cơ sở tồn tại của nhà nước phong kiến. Bởi vậy, buổi đầu Lê sơ quân lính đều được chia ruộng đất công ở làng mình và thay phiên nhau về quê sản xuất để tự cấp. Nhà nước tiếp tục thực hiện chính sách “Ngụ binh ư nông” vốn được áp dụng từ thời Lý - Trần. Với mục đích vừa duy trì lực lượng quân đội, vừa duy trì lực lượng sản xuất, đồng thời thể hiện quyền lực của nhà nước trung ương trong việc can thiệp vào ruộng đất công làng xã. 1.3. Tình hình kinh tế Sau khi đánh thắng quân xâm lược Minh, nhà Lê sơ bắt tay xây dựng lại nền kinh tế Đại Việt bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Nông nghiệp, thủ công nghiệp được phục hồi, riêng ngoại thương bị chính sách “trọng nông ức thương” hạn chế nên không có điều kiện phát triển mạnh. Hệ thống đơn vị tiền tệ được điều chỉnh và áp dụng ổn định kể từ thời Lê Thánh Tông. Chế độ đô hộ của nhà Minh và cuộc chiến tranh giải phóng Tổ quốc đã tàn phá nghiêm trọng nền kinh tế nước ta vốn đã suy yếu trong những thập kỉ cuối Trần. Hai mươi năm dưới sự cai trị của quan quân xâm lược nhà Minh và 10 năm kháng chiến giành độc lập dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, ruộng đồng, đất đai bị bỏ hoang rất nhiều, trai tráng thì sung vào nghĩa quân đánh giặc, dân chúng thì phiêu bạt khắp nơi, nội tình đất nước rối ren, diện tích đất canh tác trong nước vẫn chưa được khôi phục. Đất nước trở lại độc lập, nhà nước và nhân dân với ý thức tự hào dân tộc sâu sắc đã hợp sức cùng nhau nhanh chóng khôi phục sản xuất, hàn gắn các vết thương chiến tranh với mục tiêu đưa nền kinh tế phát triển lên một giai đoạn mới ở thế kỉ XV. Để đảm bảo an toàn cho sản xuất, nhà Lê chú trọng chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng của xã hội, chú trọng đến công tác khai hoang phục hóa. Nhờ chính sách khai hoang, phục hóa mà tình trạng dân cư phiêu bạt, tha phương cầu thực xảy ra khắp đất nước được chấm dứt. Nhiều làng xóm cũ và hàng loạt làng xóm mới được thiết lập trong cả nước. 10 Nhà Lê rất chăm lo đến hệ thống thủy lợi, đê điều. Ở các đạo thừa tuyên đều có chức quan hà đê chuyên phối hợp với các quan phủ, huyện trông nom, sửa đắp đê điều và khuyến nông. Năm 1498, nhà nước ra quy định mỗi xã phải cử một xã trưởng chuyên trách việc đê điều và khuyến nông. Như vậy, chính sách trọng nông của nhà Lê thực sự đạt kết quả tốt. Đến nửa sau thế kỷ XV, diện tích sản xuất tăng, tăng thêm nguồn thu nhập của nhà nước, bộ phận nông dân tư hữu, tự do tăng lên, điều hòa mâu thuẫn giai cấp, ổn định xã hội, nền kinh tế nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi và phát triển. Để nhớ lại thời kì này nhân dân ca ngợi qua câu thơ: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn”. Sự phát triển của nông nghiệp đã tạo cơ sở cho các ngành thủ công nghiệp, thương nghiệp có điều kiện phát triển nhanh chóng. Quan hệ hàng hóa - tiền tệ được hình thành đã tác động vào xã hội, vào hệ thống quan lại, từng bước gây nên sự đổi thay trong chế độ chính trị và sự ổn định của đất nước. 1.4. Tình hình văn hóa, giáo dục Vào cuối thế XIV, đầu thế kỉ XV, cuộc cải cách của Hồ Quý Ly diễn ra với mục tiêu đưa Nho giáo lên vị trí thống trị thay thế Phật giáo trước kia trong xã hội Lý Trần. Tuy nhiên, những cải cách của Hồ Quý Ly đang diễn ra thì cuộc xâm lược của nhà Minh đã làm xã hội Đại Việt bị đứt gãy, công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly không thể hoàn thiện được. Năm 1428, nhà Lê sơ thành lập ra sức củng cố tư tưởng Nho giáo với mục tiêu thiết lập nhà nước quân chủ quan liêu. Ngay từ khi lên ngôi Hoàng đế, Lê Lợi đã hạ lệnh dựng lại Quốc Tử Giám ở kinh đô, mở trường ở các lộ, ban chiếu “cầu hiền”. Giáo dục được mở rộng cho mọi tầng lớp nhân dân. Các giáo quan được chọn lựa cẩn thận. Năm 1435, dưới triều Thái Tông, các giáo quan ở kinh đô và các lộ được tập hợp về kinh để khảo hạch, ai yếu kém thì bị sa thải. “Năm 1429, Thái Tổ mở khoa thi Minh Kinh ở kinh đô, cho phép mọi người có học đều được tham dự. Thái Tông cho các quan bàn định thể lệ thi cử, dự kiến đến năm 1438 mở khoa Hương ở địa phương, năm sau đó mở khoa thi Hội ở kinh đô. Từ đó cứ 3 năm mở một kì thi, ai đỗ thi Hội đều được phong là Tiến sĩ xuất thân. Lại định rõ nội dung của 4 kì thi. Tuy nhiên, phải đến năm 1442, nhà nước mới mở được khoa 11 thi Hội đầu tiên, lấy 33 người đỗ (trong đó Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Như Đỗ đỗ Bảng nhãn, Lương Như Hộc đỗ Thám hoa). Bên cạnh các kì thi Đại khoa này, nhà Lê cũng mở các khoa thi Lại viên với các môn toán và viết chữ”. [11, Tr.332] Thời kỳ đầu do quan lại của nhà Lê tuyển dụng chủ yếu là những người có công trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nên bộ phận trí thức Nho học hay trí thức quan liêu chưa phát triển. Mặc dù vậy, Lê Lợi đã chú ý tới việc tuyển dụng quan lại thông qua khoa cử cũng như nền giáo dục Nho học. Tuy nhiên, sau khoảng 30 năm hình thành, tồn tại và phát triển, bộ phận quan lại là những công thần trước kia đã không còn phù hợp với xu thế phát triển của đất nước. Do nhiều nguyên nhân khác nhau bộ phận này mất dần vị trí vai trò của mình đối với xã hội Đại Việt. Nhà Lê sơ, đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông buộc phải tìm kiếm một bộ phận khác trong xã hội có thể đảm đương trọng trách này và dĩ nhiên bộ phận trí thức Nho học theo tư tưởng Nho giáo được Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý đến. Thời kì Lê Thánh Tông vẫn tiếp tục phải thực hiện chính sách đa tộc nhưng là đa tộc văn trị hay “đa tộc nhân trị” thay thế cho “đa tộc võ biền” trước kia. Đồng thời với quá trình thay thế quyền lực chính trị trong hệ thống chính quyền thì bộ phận trí thức Nho học cũng dần nắm những địa vị kinh tế quan trọng. Điều này buộc Lê Thánh Tông phải ban hành hàng loạt chính sách ruộng đất mới để đáp ứng, thích ứng với sự thay đổi của lịch sử. Tiểu kết chƣơng 1 Như vậy, đến thế kỉ XV lịch sử dân tộc chứng kiến sự hình thành, phát triển của một vương triều mới, vương triều Lê sơ. Sự xuất hiện của nhà Lê sơ trong lịch sử với hàng loạt những biện pháp tích cực đã đánh dấu những chuyển biến quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội Đại Việt. Những chuyển biến này tạo cơ sở tiền đề quan trọng để đến thời đại Lê Thánh Tông có thể tiến hành cải cách trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là ruộng đất, đưa đến sự xác lập của chế độ phong kiến trong lịch sử dân tộc. 12 CHƢƠNG 2 CHẾ ĐỘ BAN CẤP RUỘNG ĐẤT THỜI LÊ THÁNH TÔNG (1460 - 1497) 2.1. Khái quát tình hình ruộng đất thời Lê sơ (1427 - 1460) Cuộc khủng hoảng xã hội Đại Việt cuối Trần chưa được giải quyết thì chiến tranh xâm lược của nhà Minh bùng nổ. Từ đầu năm 1407 cho đến cuối năm 1427, đất nước hầu như không lúc nào ngừng chiến tranh. Nền sản xuất bị tàn phá nghiêm trọng, ruộng đất bị bỏ hoang ở khắp mọi nơi. Những cuộc đàn áp man rợ của kẻ thù làm giảm hẳn số dân trong cả nước. Lực lượng sản xuất bị tàn phá nghiêm trọng. Quân xâm lược chiếm đất xây thành, dựng lũy và rào một số vùng làm binh đồn điền giao cho binh lính cày cấy theo chế độ "ba phần giữ thành, bảy phần đồn điền". Quan lại, tướng giặc cũng nhân đó ra sức cướp đoạt ruộng đất của nông dân rồi xin chỉ huy cấp lính cho chúng để làm người cày. Thiên tai, mất mùa đói kém liên tiếp xảy ra ở các năm 1407, 1409 và năm 1410 càng khiến cho ruộng đất hoang hóa tăng lên nhanh chóng. Mặt khác trong quá trình khởi nghĩa chống xâm lược, một số tướng lĩnh của nghĩa quân Lam Sơn như Trần Quỹ, Trần Quý Khoáng đã dùng uy thế của mình mà cướp đoạt ruộng đất của nhân dân, hành hạ bóc lột dân làng. Địa chủ địa phương, cường hào lí dịch cũng nhân tình thế loạn lạc mà cướp đoạt xâm chiếm ruộng đất của nhân dân hoặc những người li tán. Tình thế đó đã làm bùng nổ những cuộc đấu tranh quyết liệt của quần chúng nhân dân và hầu như những cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi đều là những cuộc khởi nghĩa biết xuất phát từ thực trạng của đất nước và nêu cao khẩu hiệu "vừa cày ruộng, vừa đánh giặc" như cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Chích, cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Phúc Trực, cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyên Hãn... Tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Rõ ràng vấn đề nông nghiệp đã trở thành vấn đề bức thiết mà nghĩa quân Lam Sơn phải giải quyết. Đặc biệt, cùng với quá trình giành thắng lợi của khởi nghĩa thì số lượng lớn nô tỳ được giải thoát khỏi chủ, tham gia vào cuộc khởi nghĩa. Hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội cấp thiết đặt ra: vấn đề ruộng đất, vấn đề nhân lực cho sản xuất nông nghiệp, vấn đề giải phóng nô tỳ và chung cho tất cả là vấn đề khôi phục sản xuất trong phạm vi cả nước. Nhà Lê ra đời sau một cuộc kháng chiến lâu dài và thắng lợi vẻ vang, không thể không đảm nhận sứ mệnh lịch sử to lớn, giải quyết toàn bộ các vấn đề xã hội đặt ra. 13 Khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn còn đang trong giai đoạn chiến đấu ác liệt với phần thắng lợi nghiêng về phía quân dân nhà Lê thì Lê Lợi đã ra lệnh thu thuế ruộng đất công để tích vào các kho và kêu gọi nhân dân phiêu tán trở về quê quán nhận lại ruộng cày cấy và dựng lại xóm làng. Theo ghi chép của Trương Hữu Quýnh: “Ngay từ năm 1427, khi còn bao vây thành Đông Quan (Thăng Long), Lê Lợi đã ra lệnh thu thuế ruộng đất công để tích trữ vào các kho và kêu gọi nhân dân phiêu tán trở về quê quán nhận lại ruộng đất cày cấy và xây dựng lại làng xóm. Ai không có điền sản thì nhà nước cho phép tự buôn bán để sống. Tiếp đó, ra lệnh tịch thu tài sản, ruộng đất của bọn ngụy quan và những kẻ chạy theo giặc” [12, Tr.177 - 178]. Những chính sách ban đầu này của Lê Lợi thể hiện tầm nhìn xa trông rộng và sự quan tâm đến đời sống dân chúng của một vị lãnh tụ tài ba. Ngay sau khi giành được chính quyền và lên ngôi vua, Lê Thái Tổ (1428 - 1433) đã thi hành hàng loạt chính sách nhằm tập trung lại toàn bộ số ruộng đất cỏ trong cả nước để phân chia và ban bố lại một cách hợp lí. Đến cuối năm đó nhà Lê sơ lại hạ lệnh cho các phủ huyện khám xét kiểm tra ruộng đất: “chỉ thị cho các phủ, huyện, trấn, lộ khám xét các bãi ruộng đất... cùng ruộng đất đã xung công của các thế gia và những người tuyệt tự và ruộng đất của những người đào ngũ” [8, Tr.297]. Đồng thời, nhà nước tiến hành tịch thu toàn bộ ruộng đất của quan lại nhà Minh, quan lại theo giặc, cùng với ruộng đất của các quý tộc Trần và toàn bộ số ruộng đất bị hoang hóa, ruộng chùa đều được xung làm ruộng công. Lê Thái Tổ còn hạ lệnh cho cả nước làm sổ ruộng, sổ đinh. Trên cơ sở đó, nhà nước chủ động phân phối ruộng đất. Ruộng đất được phân chia làm 2 loại: ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước, ruộng đất tư hữu. Ruộng thuộc quyền sở hữu nhà nước là rất lớn, nắm trong tay số ruộng đất này nhà Lê sơ đã nuôi sống bộ máy quan lại đồ sộ mà không phải dựa vào thu thuế ruộng đất tư... Nhà Lê đã khẳng định quyền sở hữu tối cao của mình với lãnh thổ quốc gia. Đầu năm 1429, nhà Lê đã nắm trong tay một số ruộng đất lớn trong nước, cùng số đinh ghi được là 700 suất, tổng diện tích ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước đã tăng lên và chắc chắn đã chiếm ưu thế trong tổng diện tích của cả nước. Nhà nước trung ương có điều kiện thuận lợi để thi hành một số chính sách cần thiết, phù hợp với lợi ích của giai cấp mình, giải quyết các vấn đề do lịch sử đặt ra. 14 Trên cơ sở tình hình ruộng đất mới, trên cơ sở các tập sổ ruộng mới hoàn thành, nhà Lê đã ban hành một chính sách ban thưởng ruộng đất rộng rãi và thống nhất lại cách phân chia ruộng công ở các làng xã, nhằm giải quyết triệt để vấn đề nhân công cho nông nghiệp. Theo ghi chép của Trương Hữu Quýnh phong thưởng ruộng đất được tiến hành theo hai cách: “hoặc là nhà nước dựa vào các sở ruộng mới lập xong, tính các khu đất công cho đủ số lượng mà cấp, hoặc là nhà nước cho phép các công thần được tự mình lựa chọn vùng đất phong thưởng. Diện tích ruộng đất phong thưởng cho từng người là từ 400 - 500 mẫu. Tuy nhiên đối với một số trường hợp đặc biệt, diện tích ruộng đất ban cấp có thể xê xích ít nhiều” [12, Tr.181]. Nguồn gốc của nhà Lê thực hiện chính sách phong thưởng ruộng đất cho các công thần (hay chính sách huân điền). Ruộng đất phong thưởng nói chung là ruộng của các họ tuyệt tự trong chiến tranh, ruộng bỏ hóa, đất hoang có thể khai khẩn được. Theo ghi chép của Trương Hữu Quýnh: “đây không phải là ruộng công hiện canh đã thành thuế lệ” [12, Tr.183], nghĩa là nhà nước không lấy ruộng đất công đang được cày cấy và chịu thuế để phong thưởng cho các công thần. Tất nhiên, trong khi sung công, ruộng đất của thế gia và nhân dân tuyệt tự, sử dụng nó vào việc phong thưởng, nhà Lê đã dùng quyền sở hữu tối cao của mình để cướp đoạt số ruộng đất mà nông dân, nông nô, nô tì đã nhân lúc chủ tuyệt tự mà biến thành tài sản riêng. Song, phần lớn số ruộng còn lại là ruộng đất bỏ hoang hóa. Như vậy, chính sách phong thưởng của nhà Lê cũng đạt được những kết quả quan trọng, đặc biệt trong vấn đề ổn định, khôi phục sản xuất sau chiến tranh. Tuy nhiên, đến giai đoạn sau số lượng các công thần suy giảm nhanh chóng. Những người có công với công cuộc xác lập của vương triều Lê sơ thời kỳ đầu đã không còn nhiều. Điều này buộc nhà Lê sơ phải thay đổi cách thức tuyển dụng trong bộ máy chính quyền từ công thần chuyển sang tri thức Nho học. Cùng với quá trình đó, chế độ phân phong ruộng đất của nhà nước phong kiến buộc phải có sự thay đổi. Ruộng đất dùng để ban thưởng ở giai đoạn sau thì chủ yếu gồm 2 loại: ruộng công (quan điền) và ruộng ngoài sổ thuế, đất hoang khai khẩn được. Chính sách phong thưởng ruộng đất như vậy không thể không động chạm đến ruộng đất mới khai hoang được của những nông dân nghèo, lưu tán. Vả lại, khi cho phép viên quan “được phong cấp tự tìm lấy, tâu lên” [12, Tr.188], nhà nước đã khẳng định cho mình quyền cướp đoạt ruộng đất của nhân dân. Dĩ nhiên, đó là một biểu hiện của quyền sở hữu tối cao của nhà nước về toàn bộ lãnh thổ trong nước. Song chính sách phong thưởng này không còn có ý nghĩa tích cực như chính sách trước. 15 Tóm lại, với chính sách phong thưởng ruộng đất cho các công thần ở buổi đầu thời Lê đã góp phần quan trọng vào việc khôi phục sản xuất nông nghiệp thì càng về sau chính sách phong thưởng chủ yếu là sự phân chia nguồn thu đại tô, sự phân chia quyền lợi, trên cơ sở bóc lột nhân dân lao động của nhà nước phong kiến cùng với hệ thống quan lại, và mở rộng diện tích của giai cấp địa chủ trong nước. Dĩ nhiên, đối với bộ phận ruộng đất này, nhà nước vẫn giữ quyền sở hữu. Mặc dù tính chất chiếm hữu của các công thần là thế nghiệp, nhà nước có thể giữ nguyên, giảm bớt hay tước đoạt hoàn toàn những ruộng đất phong thưởng này. Chế độ phong cấp ruộng đất thế nghiệp đã củng cố chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, góp phần tạo điều kiện cho sở hữu tư nhân phát triển. Con đường tư hữu hóa ruộng phong thưởng dần dần trở thành quy luật tất yếu. 2.2. Chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) 2.2.1. Chế độ lộc điền Khác hẳn với các triều Lý - Trần, nhà Lê thực hiện chính sách lộc điền, đem ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước ban cấp cho tầng lớp quan lại cao cấp. Trong số ruộng công, một bộ phận được đem phong thưởng cho các công thần, ban cho các quý tộc và quan lại, gọi là lộc điền. Các thân vương, hoàng tộc có thể được cấp tới 2000 mẫu ruộng (500 mẫu trong đó là đất tập ấm thừa kế); các quan chính nhất phẩm được cấp 200 mẫu ruộng (trong đó 20 mẫu là đất tập ấm thừa kế). Thời Hậu Lê, chế độ bổng lộc này chính thức được ban hành vào năm 1477, đời Lê Thánh Tông gồm cả ruộng đất như một hình thức lương bổng qua tô tức. Đối tượng được cấp Năm 1471, Lê Thánh Tông ra dụ “Hiệu định quan chế” nhằm cải tổ lại bộ máy quan liêu, củng cố nền chính trị quân chủ trung ương tập quyền. Sau đó, năm 1477, Lê Thánh Tông quy định chế độ bổng lộc cho quan lại, quý tộc, quan liêu từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất đều được cấp một số tiền bổng hàng năm tính theo phẩm cấp. Thể lệ cấp tiền bổng hàng năm này được ghi chép trong các sách Kiến văn tiểu lục (Lê Quý Đôn), Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Khâm định Việt sư thông giám cương mục, được cấp một số đất làm vườn; những quý tộc quan lại cao cấp từ tước bá trở lên được cấp một số thực hộ; còn ruộng đất thì quý tộc, quan lại cao cấp do Nhà nước trực tiếp cấp gọi là lộc điền, quan lại cấp dưới thì được cấp công điền ở xã thôn như ruộng khẩu phần nhưng nhiều hơn các tầng lớp người dân. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan