LỜIMỞĐẦU:
Nền kinh tế của đất nước ta đang trên đà phát triển, từ
nền kinh tế bao cấp nhà nước hỗ trợ toàn bộ chí
phíđầu tư, lỗđâu nhà nước chịu toàn bộ thì giờđây đất
nước ta đang phát triển lên nên kinh tế thị trường, cơ
chế thị trường nhiều thành phần, tự do kinh doanh, tư
do phát triển. Chính vì vậy đất nước đã có sự thay đổi
đáng kể, chúng ta có thể nhin thấy một bộ mặt mới
của đất nước. Bên mặt thuận lợi thúc đẩy phát triển
kinh tế của nền kinh tế thị trường thì cũng có không ít
nhưng khó khăn, nhưng tiêu cực phát sinh trong nền
kinh tế và một trong những khó khăn mà nhà nước ta
đang phảI đương đầu đó là tình trạng thất nghiệp của
sinh viên sau khi ra trường ngày càng tăng trong cơ
chế thị trường ngay nay vấn đề ma gần như không
xảy ra trong thời kì bao cấp.
Đất nước càng phát triển bao nhiêu ngoài những công
nghệ hiện đại phục vụ cho kinh doanh sản xuất thì
một trong những yếu tố quyết định sự phát triển của
1
đất nước là lượng lao động, trong nền kinh tế thị
trường ngày nay lực lượng lao động là những sinh
viên dược đào tạo trong các trường đại học, cao
đẳng…là lực lượng trẻ của đất nước rất năng động và
có năng lực trong công việc. Chính vì vậy sinh viên
là nguồn nhân lực rất quan trọng chúng ta cần biết
cách sử dụng một cách hợp lý và hiệu quả nhất.
Nhưng tình trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra
trường hiện nay ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước. Vậy câu hỏi đặt ra của
những nhà quản lý, của dất nước là nguyên nhân vì
saodẫn tới tình trạng đó? Phải chăng là do:
- Do quá trình đào tạo của các trường đại học còn
nhiều mặt chưa được.
- Do những chính sách của nhà nước chưa hợp lý
lắm trong việc sử dụng lao động.
- Do những suy nghĩ của sinh viên và gia đình
luôn muốn trụ tại thành phố mà không muốn
công tác ở vùng sâu vùng xa.
2
- Do sinh viên ra trường ngày càng nhiều mà nhu
cầu lao động chỉ có giới hạn.
Tình trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra
trường được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác
nhau, nhiều cách nhìn khác nhau, quan điểm khác
nhau. Vì vậy mọi người chưa có sự nhìn nhận vấn
đề một cách toàn diện, tổng thể mà chỉ nhìn mọt
cách phiến diện. Do vậy, bài tiểu luận của em sẽ
cho mọi người một cái nhìn toàn diện về vấn đềđể
có thể giải thích vàđưa ra một số phương pháp
giải quyết vấn đề này.
3
CHƯƠNG
NGUYÊN
I:
THỰC
TRẠNG
NHÂN
CƠ
VÀ
BẢN
NHỮNG
CỦA
HIỆNTƯỢNGTHẤTNGHIỆPCỦASINHVIÊNSAU
KHIRATRƯỜNG
I. THỰC TRẠNG THẤT NGHIỆP CỦA SINH
VIÊN SAU KHI RA TRƯỜNG
Đất nước ta đang trên đà phát triển , hội nhập với
những chính sách mở của giao lưu hợp tác với các
4
nước trontg khu vực cũng như trên toàn thế giới, từ
nền kinh tế bao câp tập trung đất nước không phát
triển đi lên được, người giỏi có năng lực không được
trọng dụng không có khả năng phát triển phát huy
năng lực thì giờđây đất nước đã chuyển sang nền
kinh tế thị trường nhiều thành phần, tự do kinh
doanh, tự do cạnh tranh phát triển phát huy được rất
nhiều mặt tích cực đặc biệt là ta đã nhìn thấy được
một bộ mặt mới của đất nước. Cóđược điều đó thì sự
cố gắng vươn lên của lớp thanh niênmớilà rất quan
trọng để có thểđáp ứng nhu cầu , đòi hỏingày càng
cao của công việc, của nền kinh tế thị trường. Sự phát
triển mở rộng, hội nhập kinh tế thị trường đã thực sự
mang lại những cơ hội làm việc cho những sinh viên
năng động, đầy năng động, linh hoạt. Những sinh
viên ra trường không phải ai cũng có thểđáp ứng nhu
cầu của công việc , dẫn tới tình trạng thất nghiệp
vàđây chính là vấn đề mà xã hội , nhà nước quan tâm.
5
Trong thời kỳ bao cấp tỷ lệ học đại học, cao đẳng…
còn rất ít nên tình trạng thất nghiệp hầu như không có
nhưng trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay các
trường đại học, cao đẳng, đào tạo nghề mọc lên rất
nhiều nhằm đáp ứng nhu cầu lao động có kỹ năng,
kinh nghiệm. Theo nguồn tin trên Internet cho biet vo
trên 200 trương đại học, cao đẳng cho thấy tỷ lệ sinh
viên tốt nghiệp ra trường hằng năm rất nhiều , điều
đó cho thấy tỷ lệvới việc sinh viên thât nghiệprất cao.
Và con số mới nhất của viện kinh tế phát triển thìsinh
viên khối kinh tế ra trường thất nghiệp 80% hoặc làm
việc trái ngành nghề.
Trong cơ chế thị trường ngày nay , về phía sinh viên
bên cạnh những sinh viên ra trường có dủ năng lực
đểđáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các nhà tuyển
dụng và những sinh viên có người thân xin việc hộ
thì bên cạnh đó là những sinh viên ra trường phải tự
xin việc chật vật chạy đôn chạy đáo tìm việc làm qua
báo chí, tivi truyền thông, qua những trung tâm giới
6
thiệu việc làm……. . Do sinh viên ra trường ngày
càng nhiều mà khối lượng công việc khan hiếm có
giới hạn mà nhiều trung tâm giới thiệu việc làm “ma”
mọc ra rất nhiều thuêđịa điểm được vài ba bữa để lừa
đảo , thu phụ phí của những người đi xin việc rồi biến
mất dẫn tối tình trạng sinh viên vùa bị mất , vừa
không tìm được việc làm chán nản rồi chấp nhận làm
trái ngành nghề hoặc làm bất cứ việc gì miễn là có
thu nhập.
Hiện nay sinh viên ra trường ngày càng nhiều xong tỷ
lệ thất nghiệp lại vẫn cao, có phải tất cả là do công
việc có giới hạn đãđủ nhân lực không cần người
nữa?Vậy mà các nhà tuyển dụng lao động vẫn “than
thở “ rằng họ thiếu nguồn nhân lực thiêú những
người có kinh nghiệm và năng lực thật sự và năng
động trong công việc . Và một thực trạng thật đáng
buồn hiện nay những sinh viên ra trường đi xin việc
tại các công ty đều thấy rất khó khăn vì không đáp
ứng đủ những yêu cầu mà nhà tuyển dụng đưa ra.
7
Vây một câu hỏi chúng ta cân đặt ra :phải chăng do
công việc ít ỏi hay do sựđòi hỏi khó tính của các nhà
tuyển dụng hay tình trạng học không đến nơi đến
chốn của sinh viên khi còn ngồi trên ghế nhà trường
hay quá trình đào tạo của các trường đại học còn
nhiều mặt chưa được tốt?
Đất nước càng ngày càng đi lên phát triển lên một
tầm cao mới. Như vậy nhu cầu đòi hỏi của công việc
không chỉ dừng ởđây mà sựđòi hỏi còn phải cao hơn
nữa , nếu vậy sinh viên của đất nước ta có thểđáp ứng
được không?Tình trạng thất nghiệp có còn tăng hay
không?Một câu hỏi được đặt ra cho các nhà nước,
cho các nhà tuyển dụng và cho các nhà giáo dục-đào
tạo hiện nay. Và chính phủđã có những biện pháp
gìđể giải quyết vấn đề trên?
II.
QUÁ
TRÌNH
ĐÀO
TẠO
CỦA
CÁC
TRƯỜNGĐẠIHỌC.
1. VỀ CƠ CẤU –TỔ CHỨC ĐÀO TẠO SINH VIÊN
TRONG TRƯỜNGĐH
8
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng thất
nghiệp của sinh viên sau khi ra trường nhưdo ảnh
hưởng của nền kinh tế thị trường hay do một phần
chính sách của nhà nước hay do bản thân của sinh
viên , những suy nghĩ của gia đình sinh viên những
người đang được đào tào trong các trường đại học,
cao đẳng……Nhưng chúng ta không thể không nhắc
tới một phần trách nhiệm của nhàđào tạo , những
người đãđào tạo ra nguồn lao động trẻ hiện nay và
trong tương lai.
Các trường đại học , cao đẳng, trung tâm dạy
nghề……đa phần đãđược xây dựngcách đây mấy
chục năm do vậy cơ sở hạ tầng thì cũ kỹ, lạc hậu,
thiếu thốn làm ảnh hưởng rất nhiều tới quá trình đào
tạo của các trường . Mặt khác hiện nay khi đất nước
đang trên đà phát triển mạnh mẽ, hội nhập giao lưu
thì các chương trình đào tạo của các trường đại học ở
nước ta được đánh giá trên thế giới là còn quá lạc
hậu, chưa bám sát vào thực tế, lý thuyết quá nhiều mà
9
thực hành không được là bao dẫn tới tình trạng sinh
viên ra trường lý thuyết thì thuộc làu làu nhưng khi
bắt tay vào thực tế thì còn rấtnon kém, không có sự
linh hoạt nên ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của
nền kinh tế. Do đâu dẫn tới tình trạng đó? Phải chăng
do trang thiết bị, cơ sở hạ tầng để phục vụ cho quá
trình học tập của sinh viên còn quá nghèo nàn , thiếu
thốn, lac hậu, không phát huy được hết khả năng tư
duy sáng tạo của sinh viên.
Trong khi đất nước đang phát triẻn cả về kinh tế-xã
hội , trong năm 2007 (27/11/2007) đất nước ta đã gia
nhập WTO, mở cửa nền kinh tế. Chính vì vậy khối
lượng sinh viên dồn vào khối kinh tế quá nhiều dẫn
tới tình trạng 90% sinh viên ra trường trong khối kinh
tế không có việc làm. Trong khi đất nước ta đang rất
cần đến những đội ngũkỹ sư về kỹ thuạt, công nghệ,
xây dựng cơ bản thì nguồn cung cấp từ phía đào tạo
chưa đáp ứng được hết nhu cầu , dẫn đến cán cân về
cơ cấu tổ chức bị lệch, không cân bằng. Một phần
10
trách nhiệm là do nhàđào tạo chưa nắm được nhu cầu
thực tế về nguồn nhân lực , không có thông tin đầy
đủ cho sinh viên về việc chọn ngành nghề cho phù
hợp với bản thân, với sự phát triển của đất nước để
tránh hiện tượng hiện nay rất nhiều học sinh, sinh
viên chọn ngành nghề theo cảm ứng thấy hay hay
thích là học không tính đến mục đích học về phục vụ
cho tương lai và khả năng xin việc sau khi ra trường.
Việt Namđào tạo một khối lượng lớn cử nhân nhưng
không thành tri thức. VD cay đắng nhất là mỗi năm
hàng nghìn tri thức trẻ bước vào bộ máy hành chính .
Nhưng nền hành chính công bao nhiêu năm tiếp tục
trì trệ, lạc hậu . Đội ngũ cán bộ công chức đang bị coi
là khâu yếu nhất trongtiến trình cải cách hành chính.
Đào tạo tri thức trẻ thực chất làđào tạo hai con người
trong một. Một người tri thức và một người chuyên
gia. Nền giáo dục hiện nay chưa đặt ra mục tiêu rõ
ràng, không có quá trình đào tạo vàđó là nguyên nhân
nhiều người thợ không ra thợ, thầy không ra thầy.
11
Vàđây chính là vấn đề thứ hai chúng ta cần quan tâm
tới:Chất lượng đào tạo của các trường đại học hiện
nay như thế nào?
2.
CHẤT
LƯỢNGĐÀOTẠOSINHVIÊNCỦACÁCTRƯỜNGĐ
H, CĐ
Việt Nam hiện nay đang cần một nguồn lực tri thức
trình độ cao để xác định một hình tháI kinh tế mới
cao hơn , hoàn thiện hơn và hiệu quả hơn đó chính là
nền kinh tế tri thức. Với yêu cầu này, nếu chất xám
của tri thức nhạt mầu thì cũng coi đó là một nguyên
nhân dẫn tới thất nghiệp. Chính vì vậy chất lượng đào
tạo tại các trường đang là mối quan tâm của rất nhiều
người.
Trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện
nay thì chất lượng đào tạo và thực tế nhu cầu đòi hỏi
của công việc với sinh viên còn một khoảng cách quá
xa. Những gì trường đại học, cao đẳng đào tạo sinh
12
viên và những gì sinh viên học được , tiếp thu được
vẫn chưa thểđáp ứng được nhu cầu của khối lượng
công việc ngày càng cao của nền kinh tế thị trường.
Một phần do cơ sở trang thiết bị vật chất phục vụ cho
giảng dạy và học tập còn thiếu thốn , nghèo nàn quá
nhiều so với thực tế dẫn tới tình trạng học không
thểđi đôi với hành . Chính vì vậy trên thế giới hiện
nay qua sự phát triển của đất nước và qua những cuộc
thi quốc gia, qua sự giao lưu kinh tế chính tri, văn
hoá sinh viên Việt Nam được thế giơi đánh giá rất
giỏi về lý thuyết nhưng thực hành thì còn non kém ,
chính vì vậy không thể phát huy được hết khả năng tư
duy sang tạo của sinh viên.
Một tình trạng cũng khá phổ biến xảy ra ở hầu hết tất
cả các trường đại học, cao đẳng ở tại những giảng
đường giáo viên ở trên cứ giảng dạy còn sinh viên ở
dưới làm gì thì làm , ngủ trong giờ, nói chuyện riêng,
nghe nhạc……nhiều giáo viên không cần quan tâm
xem sinh viên có học bài không hay có tiếp thu được
13
gì hay không? để rồi chữ thầy lại trả lại cho thầy dẫn
tới nghiệp vj chuyên môn non kém không làm được
việc. Và một thực trạng cũng đáng buồn vẫn đang
xảy ra tại các trường đại học, cao đẳng……là tình
trạng “chùa thầy”còn xảy ra khá phổ biến , đi thầy đi
côđể giới hạn đề thi , coi thi lỏng lẻo , chấm bài cho
điểm cao. Chính vì vậy mà kết quả trên bảng điểm
sau khi ra trường của sinh viên hiện nay không phản
ánh một cách chính xác , trung thực được khả năng ,
năng lực thực tế của sinh viên, không khuyến khích
sự tư duy phát triển , khả năng sáng tạo . Chính vì
vậy màđó là một trong những nguyên nhân cơ bản ở
ngay bên trong các trường đại học, cao đẳng…vì sao
sinh viên ra trường lại có tỷ lệ thất nghiệp cao như
vậy?phải chăng quá trình học không chon chu, chăm
chỉ thì ra trường không làm được việc không đáp ứng
được nhu cầu ngày càng cao của công việc.
Mặt khác, do xã hội ngày một phát triển với tốc độ
cao, một luồng mạnh mẽ nhanh chóng vì vậy phương
14
thức sản xuất cũng phải thay đổi theo để phù hợp với
sự phát triển. Khi phương thức sản xuất thay đổi theo
tốc độ phát triển của xã hội thì nó cũng đòi hỏi sự
thay đổi của lực lượng sản xuất đặc biệt vấn đề ta cần
đề cập đến là nguồn lao dộng có năng lực nhưng lực
lượng này lại không bắt kịp theo sự phát triển của
phương thức sản xuất. Lý do vì sao lại như vậy? Do
cơ cấu –tổ chức –chất lượng đào tạo không bắt kịp sự
thay đổi này, nó bị tụt hậu hơn , do đó cán cân không
cân bằng, đồng bộ giữa quá trình đào tạo và thực tế
yêu cầu công việc làm cho sinh viên sau khi ra trường
không đủ khả năng đáp ứng đòi hỏi của các nhà tuyển
dụng lao động.
Tại một số nước nền giáo dục rất hiện đại, phát triển
như Mỹ, Pháp, Anh…. thì sinh viên khi mới học hết
năm thứ ba họ có thểđi làmtại các cơ quan , doanh
nghiệp theo đúng ngành nghề mà họđược đào tạo , có
thể phát triển hết khả năng sáng tạo , vận dụng thành
thạo những gì họđược học và họ còn học thêm các
15
khoá học về ngoại ngữ, tin học để củng cố nguồn
kiến thức của mình. Vàở nước ta hiện nay các trung
tâm dạy ngoại ngữ, tin học mọc ra rất nhiều với
những giảng viên nước ngoài cũng có một số trung
tâm rất có tiếng và uy tín như Anh Ngữ LonDon,
Apollo, ……nhưng phần lớn sinh viên sau khi học
lượng kiến thức cũng không được củng cố là bao
nhiêu.
Vì sự phát triển của khoa học-kỹ thuật ngày càng cao
nên công việc cũng đòi hỏi đội ngũ lao động có trình
độ, năng lực. Điều này đòi hỏi ngành GD-ĐT phải
đưa ra phương pháp đào tạo mới và những giải pháp
để cải thiện chất lượng đào tạo trong các trường đại
học, cao đẳng…. .
III. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN KHÁC DẪN TỚI
TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP
1. TỪ PHÍA NỀN KINH TẾ-XÃ HỘI
16
Những năm về trước nước ta vẫn còn thực hiện chếđộ
chính sách bao cấp thì thực trạng thất nghiệp của sinh
viên sau khi ra trường hầu như là không có. Ngày đó
sinh viên đi học đại học còn rất ít, sinh viên ra trường
được phân công tác luôn , nhìn vào có thểđã việc làm
nhưng đôI khi trong công việc chỉlà sự sắp xếp cho
đủ chỗ mà thôI, cho có hình thức, không làm chơi dài
đến cuối tháng nhân lương , nhà nước không có chính
sách thay đổi , khuyến kích sự phát triển khả năng
của người lao động.
Nhưng trong những năm trở lại đây nhà nước đã có
chính sách mở cửa kinh tế, hội nhập chuyển sang nền
kinh tế thị trường tự do kinh doanh, tự do cạnh
tranhnhà nước không bao cấp như trước nữa mà
lỗđâu doanh nghiệp phải chịu lãi thì hưởngchính vì
vậy vấn đề việc làm càng ngày càng trở nên bức
bách. Viêt Nam đang cần một nguồn lực tri thức trình
độ cao để xác định một hình thái kinh tế mới cao hơn,
hoàn thiện hơn và hiệu quả hơn đó là nền kinh tế tri
17
thức. Trong các cơ quan nhà nước , doanh nghiệp , tư
nhân hiện nay thì cơ chế-tổ chức làm việc gọn nhẹ
hơn trước nhiều nóđòi hỏi một người có thể làm cong
việc của 2-3 người. Do vậy những lao động được
tuyển vào được cân nhắc rất kỹ lưỡng và cẩn then tuỳ
theo khối lượng, tính chất mà công việc đòi hỏi và
khả năng của người đi xin việc. Thực tế hiện nay
phần lớn sinh viên phải tự mình tìm việc làm trừ một
số ngành như bộđội, công an, lục quân……. thìđược
phân công tác.
Do nhu cầu đời sống ngày càng cao, ai cũng muốn
sướng không muốn chịu khổ nên sinh viên ra trường
luôn muốn trụ tại các thành phố lớn để làm việc .
Đểđược làm việc ở thành phố họ có thể làm bất cứ
ngành nghề gì miễn là có thu nhập, kể cả làm trái
ngành nghềđào tạo. Chính vì vậy, ở mộ số nơi ở vùng
sâu vùng xa , hải đảo, dân tộc vẫn thiếu trầm trọng
nguồn lao độngtrong khi ở thành phốđang đương đầu
với tình trạng thất nghiệp ngày càng cao.
18
Vấn đề nào cũng có tính hai mặt của nó. Nền kinh tế
thị trường cũng vậy, chúng ta có thể nhìn thấy rất rõ
tính hai mặt của vấn đề này:Một mặt nó tạo điều kiện
cho mọi thành phần kinh tế phát triển mạnh, tạo ra sự
cạnh tranh , tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát
triển đi lên. Cũng chính vì vậy nó khiến cho mọi
người phải có sự cố gắng hết mình, nỗ lực hết mình,
để trang bị cho mình những kiến thức phong phú hơn,
đầy đủ hơn đểđáp ứng được nền kinh tế ngày một
khó tính hơn. Mặt khác nền kinh tế thị trường cũng
có những tác động lớn đến xã hội gây ra sự thiếu thừa
về lực lượng lao động, làm mất sự cân đối về nguồn
lực lao động và nảy sinh ra nhiều vấn đề khác trong
việc làm.
2. VỀ PHÍA CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC
Bên cạnh những nguyên nhân về kinh tế-xã hội, về
phía đào tạo thì chính sách của nhà nước cũng là yếu
tốđáng kể tác động đến vấn đề này.
19
Trong những năm gần đây nhà nước đã có sự quan
tâm rất nhiều đến quá trình đào tạo nói chung vàđào
tạo đại học nói riêng, khuyến kích sử dụng sinh viên
sau khi ra trường. ví dụ như: sinh viên trường sư
phạm không phải đóng học phí, đối với các trường
khác những sinh viên thuộc diện chính sách như : con
thương binh, bệnh binh, con nhà nghèo vượt
khó……. . thìđược miễn giảm một phần học phí và
có thểđược trợ cấp thêm một khoản tiền. Nhưng bên
cạnh đó nhà nước vẫn chưa có những chính sách hợp
lý lắm để khuyến khích sinh viên sau khi ra trường về
vùng sâu vùng xa yên tâm công tác, ví dụ như: do
nhà nước chưa có hững chính sách hợp ly lắm mà
sinh viên sau khi ra trường không tự nguyện công tác
ở vùng sâu vùng xa, dân tộc ít người mà toàn phải bắt
buộc , cưỡng ép
Bên cạnh đó do nền kinh tế càng phát triển, nhà nước
có rất nhiều chính sách để phát triển kinh tế. Chính vì
vậy sinh viên lựa chon khối kinh tế quá nhiều rồi dẫn
20
- Xem thêm -