Tên sách: CHẤP NHÂN
̣
CUÔC
̣ ĐỜI
Tác giả: Luise Rinser
Dich
̣ giả: Nguyễn Hiến Lê
Năm xuất bản: 1989
Lời tưạ
Ai là người biết suy tư thì
bước qua môṭ tuổi nào đó, it́ gì
trong đời cũng có môṭ vài lần
thắc mắc về đời sống, lối sống
của miǹ h, xét laị xem những
điều mà từ trước miǹ h vẫn tin là
đúng, là thiêṇ - tin môṭ cách dễ
dàng vì tưởng ảnh hưởng của
giáo duc,̣ và tâp̣ duc̣ - có thưc̣ là
đúng, là thiêṇ không, cư xử với
moị người như vâỵ có phải
không, vơ ̣ con như vâỵ có hơp̣
lý không, đối với chiń h quyền
đôc̣ tài thì thái đô ̣ phải ra sao,
thế nào là yêu nước, khi nào thì
nên giúp người, kiếm tiền để
làm gì đây và sống để làm gì
đây?... vân vân...
Nếu là môṭ vi ̃ nhân thì sau
những lần trầm tư đó, như Đức
Thić h Ca dưới gốc cây bồ đề,
Đức Ki Tô ở trong núi - chẳng
những nhân sinh quan thay đổi
hẳn mà còn gây đươc̣ môṭ cuôc̣
cách mang
̣ trong xã hôi,̣ ảnh
hưởng tới hâụ thế nữa, không
phải là môṭ vi ̃ nhân thì sau vài
đêm trằn troc̣ hoăc̣ vài ngày thơ
thẩn bên bờ suối, trên baĩ biển,
̀ laị đươc̣ sư ̣ biǹ h tiñ h
ta cũng tim
trong lòng, ta thỏa thuâṇ với ta
hơn, do đó, thỏa thuâṇ với đời
hơn, vì sư ̣ bất mãn về đời,
nguyên do chỉ taị sư ̣ bất mañ về
bản thân ta, taị ta sống mâu
thuẫn với những quy tắc của ta,
chứ không có gì khác. Thường
thường, phải găp̣ môṭ ta hoa,̣
chúng ta mới ôn laị tất cả di ̃
vañ g, xét laị tất cả những tin
tưởng của miǹ h môṭ cách triêṭ
để, và khi cuôc̣ khủng hoảng
qua rồi, mười người thì có tới
̀ laị đươc̣ lẽ sống,
chiń người tim
hân hoan thốt lên câu: "Đời vẫn
là đáng sống".
Tác giả, Luise Rinser, mà tôi
đoán là môṭ người Đức gốc Do
Thái, ngay từ nhỏ đã có tinh
thần đôc̣ lâp,̣ không tin hết
những lời gia huấn nghiêp khắc,
lớn lên sống môṭ cuôc̣ đời rất
̀ nổi, môṭ lần bi ̣ Đức Quốc
chim
xã bắt giam, suýt bi ̣ xử tử, hai
đời chồng - chồng trước chết,
chồng sau li di ̣ - chiń lần phải
rời những căn nhà gian lao mới
xây đươc,̣ rốt cuôc̣ bỏ nước
Đức, cũng không qua Israel mà
xin cư trú ở Ý, tóm laị đã chiụ
nhiều cuôc̣ khủng hoảng về tinh
thần, nên đã có nhiều suy tư về
̀ ra đươc̣ môṭ
cuôc̣ sống mà tim
nhân sinh quan không bi mà
cũng không lac̣ môṭ cách dễ
daĩ , nhưng can đảm, nhân từ và
thông minh.
Trong tâp̣ này, bà ghi những
suy tư đó lai.̣ Từ những vấn đề
lớn lao như ý nghiã đời sống, sư ̣
tư ̣ do, sư ̣ an toàn của con
người, thân phâṇ con người,...,
tới những vấn đề lăṭ văt,̣ nhưng
không phải là không quan
trong,
̣ như thế nào là lễ đô,̣ can
đảm, nói dối, phải cư xử với
thanh niên ra sao, báo ân, báo
oán ra sao, viết thư từ ra sao
nữa... vấn đề nào bà cũng đem
ra đăṭ lai,̣ dùng những kinh
nghiêm
̣ bản thân cùng kinh
nghiêm
̣ tha nhân, "người xưa và
người nay", để xét lai,̣ và có
những ý mới ta không sao bác
bỏ đươc,̣ dù muốn hay không
thì cũng phải "làm quen" với nó.
Bà bảo:
"Bất kì cái gì mới mẻ - kể cả
thế hê ̣ mới và lối sống đăc̣ biêṭ
của ho ̣ - cũng làm cho ta thấy
chướng vì nó đảo lôṇ các thói
quen của ta, buôc̣ phải so sánh,
xét laị lối sống của ta, và dám
bảo thẳng vào măṭ ta rằng ta lac̣
hâu.̣
(...) Nhưng chúng ta phải
can đảm nhiǹ thẳng vào nó,
thẳng thắn đối thoaị với nó. Vấn
đề không phải là ta thić h nó hay
không. Điều quan trong
̣ là ta
̀ trong nó
phải khách quan tim
cái yếu tố của sư ̣ tiến bô".̣
Nhưng như vâỵ không có
nghiã là ta phải chấp nhâṇ tất
cả những cái mới, từ bỏ tất cả
những cái cũ, để khỏi lac̣ hâu.̣
Không ta chỉ nên theo cái mới
khi nó không trái với những quy
tắc căn bản của luân li.́ Đôc̣ giả
sẽ bảo: "Từ khi có thuyết tương
đối của Einstein thì ta thấy cái
gì cũng tương đối hết, goị là tốt
thì chỉ tốt trong môṭ vài hoàn
cảnh nào đó, với những điều
kiêṇ nào đó thôi". Phải, luâṭ
tương đối đã chuyển từ môn vâṭ
lí qua môn triết li,́ nhưng "đem
áp dung
̣ vào luân lí thì chỉ là
môṭ sư ̣ thoái thác tầm thường",
vì nó có những quy luâṭ bất biến
về luân li,́ mà những quy luâṭ
này theo Luise Rinser, là sư ̣ liên
đới giữa nhân loaị và lòng tha
nhân; không môṭ hành đông
̣
nào của môṭ người mà không
ảnh hưởng xa hay gần tới
những người đồng thời và
những người tới sau; moị người
bất kì là ở đâu đều đồng cam
công
̣ khổ với nhau, nên phải
yêu nhau.
Bà nhấn manh
̣ nhiều lần về
điểm đó, và đoc̣ xong tôi có
cảm tưởng rằng bà đáng goị là
môṭ người văn minh mà tác
phẩm của bà có thể so sánh
đươc̣ với cuốn Môṭ nghê ̣ thuâṭ
sống của André Maurois, Sống
đep̣ của Lâm Ngữ Đường, chứ
không thuôc̣ vào loaị sách hoc̣
làm người bầy nhan nhản trong
cách hiêụ sách.
Văn của bà cũng hấp dẫn,
không có cái giong
̣ năng
̣ nề daỵ
đời của môṭ nhà luân li,́ mà
hóm hỉnh, nhe ̣ nhàng, thông
minh, tế nhi, ̣ không lý thuyết
dài dòng mà dẫn nhiều kinh
nghiêm
̣ cu ̣ thể, nhiều giai thoaị
lí thú, không đôc̣ đoán đưa ý
kiến riêng, mà đàm đaọ với ta,
phân tić h mỗi vấn đề cùng với
̀ môṭ kết luân.̣
ta tim
Cho nên hôm nay tôi vui vẻ
giới thiêụ các tác phẩm của bà
với đôc̣ giả. Tác phẩm hơi dày,
tôi đã bỏ bớt đô ̣ mười bài, và
cũng như nhiều cuốn khác
̀ cách
trong loaị này, tôi tim
chuyển qua tiếng Viêṭ chứ
không dich
̣ sát. Tôi tin rằng ở
thời này làm người mà đươc̣
như bà là quý lắm rồi: chúng ta
̀ đươc̣ môṭ ý nghiã
sẽ vừa tim
cho cuôc̣ đời, vừa taọ đươc̣
hanh
̣ phúc cho bản thân, mà
cho bản thân cũng tức thi la
̣ ̀ cho
tha nhân.
Sài Gòn ngày 8-3-1971
Nguyễn Hiến Lê
Tôi tư ̣ do không?
Mấy tiếng bề ngoài có vẻ
tầm thường đó chứa nhiều
thuốc nổ đấy.
Vô số tác phẩm viết về vấn
đề đó mà vẫn còn gây những
cuôc̣ tranh luâṇ gay go, chứ
chưa đưa ra đươc̣ môṭ câu giải
đáp nào hoàn toàn đúng, làm
cho ta thỏa mañ . Baṇ chẳng
han,̣ baṇ trả lời ra sao?
Riêng phần tôi thì tôi tư ̣ hỏi
câu này trước đa:̃ Thế nào là tư ̣
do? Và trước khi trả lời, tôi xét
hoàn cảnh, tiǹ h trang
̣ cu ̣ thể của
tôi xem có môṭ khu vưc̣ nào tôi
đươc̣ tư ̣ do không.
Trong khu vưc̣ xã hôi,̣ muốn
làm môṭ nghề nào đó phải hoc̣
taị trường nào đó, dư ̣ những kỳ
thi nào đó, rồi phải tuân theo tổ
chức của nghề; muốn lái xe hơi
phải có bằng lái xe hơi; muốn
xin cất nhà phải xin đầy đủ các
thứ giấy phép; muốn làm hôn
thú phải triǹ h đầy đủ các giấy
tờ; mà những giấy phép đó
người ta có thể không cho hoăc̣
cho rồi rút lai,̣ sau cùng phải
tôn trong
̣ nhiều điều lê ̣ cảnh sát
nếu không muốn bi ̣ hiǹ h phat,̣
bi ̣ nhốt khám, vâỵ cũng không
tư ̣ do nữa.
Còn trong đời tư, thế nào là
tư ̣ do? Là mốn yêu ai thì yêu,
cưới ai thì cưới, tùy ý sanh con,
đổi nghề, đi du lich,
̣ chơi bời...
Phải, trong khu vưc̣ đó, chúng
ta đươc̣ môṭ chút tư ̣ do nào đó,
nghiã là muốn làm gì thì làm,
không muốn thì thôi. Nhưng
như vâỵ có nghiã là muốn cái gì
thì thưc̣ hiêṇ cái đó đươc̣
không? Trong đa số trường hơp̣
khi ta quyết đinh
̣ điều gi,̀ không
thể quyết đinh
̣ đơn phương,
phải có sư ̣ thỏa thuâṇ với người
khác, đăc̣ biêṭ là sư ̣ thỏa thuâṇ
của người thân. Có gia điǹ h rồi
thì không còn tư ̣ do kết duyên
với người khác nữa. Môṭ người
chủ trong gia điǹ h tư ̣ cho miǹ h
là làm chúa trong nhà, nhưng sư ̣
thưc̣ là quyết đinh
̣ nào phải phu ̣
thuôc̣ vào môṭ số điều kiên.̣ Nói
ngay như viêc̣ rất tầm thường là
muốn đi du lich
̣ thì phải xét
xem có đủ tiền hay không, có
công viêc̣ nào khẩn thiết không,
laị phải đơị lúc trẻ đươc̣ nghỉ
hoc̣ mà cùng đi; ấy là chưa kể
lúc sắp đi, trong nhà phải đừng
có người đau mới đươc,̣ vân
vân...
Khi người ta tưởng rằng
đươc̣ hoàn toàn tư ̣ do quyết
đinh
̣ là người ta lầm đấy, không
biết rằng sư ̣ tư ̣ do đó đã bi ̣ haṇ
chế. Chẳng haṇ ta tưởng đã tư ̣
do quyết đinh
̣ mua môṭ chiếc xe
hơi, nhưng sư ̣ thưc̣ là ta đã theo
môṭ cái "mốt", đã bi ̣ảnh hưởng
của các lời quảng cáo khéo léo
đâp̣ riết vào tai, vào mắt ta, đa
số các "quyết đinh
̣ tư ̣ do" của ta
như tư ̣ do bâṇ thứ y phuc̣ này,
dùng câu văn kia hoăc̣ mua vâṭ
này vâṭ no,̣ chỉ là nhắm mắt
- Xem thêm -