Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Câu hỏi tiếng việt dưới góc nhìn lý thuyết thông tin...

Tài liệu Câu hỏi tiếng việt dưới góc nhìn lý thuyết thông tin

.PDF
191
120
59

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ MAI CÂU HỎI TIẾNG VIỆT DƯỚI GÓC NHÌN LÝ THUYẾT THÔNG TIN LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh 2012 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ MAI CÂU HỎI TIẾNG VIỆT DƯỚI GÓC NHÌN LÝ THUYẾT THÔNG TIN Chuyên ngành: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ Mã số: 62.22.01.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRỊNH SÂM Thành phố Hồ Chí Minh 2012 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào. Tác giả luận án Nguyễn Thị Mai MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................ 3 MỤC LỤC ........................................................................................ 4 CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN ÁN.................... 7 DANH MỤC CÁC BẢNG .............................................................. 8 MỞ ĐẦU ........................................................................................ 10 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 10 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 11 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 17 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 17 5. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 18 6. Nguồn tài liệu tham khảo và ngữ liệu ..................................................... 19 7. phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 19 8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu............................ 21 9. Đóng góp của luận án ............................................................................... 22 10. Bố cục của luận án ................................................................................. 23 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ...................................................... 24 1.1. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ LỜI NÓI, GIỮA CÂU VÀ PHÁT NGÔN ................................................................................................ 25 1.2. CẤU TRÚC TƯƠNG THÍCH CỦA CÂU HỎI ................................. 27 1.2.1. Vai trò của ngữ cảnh trong việc xác định nghĩa của câu ...................... 27 1.2.2. Khái niệm cấu trúc tương thích ............................................................... 29 1.2.3. Đặc điểm của cấu trúc tương thích ......................................................... 29 1.2.4. Một số hệ quả của việc sử dụng cấu trúc tương thích ............................ 34 1.3. LÝ THUYẾT NGỮ DỤNG HỌC ......................................................... 35 1.3.1. Lý thuyết hành động ngôn từ .................................................................. 35 1.3.2. Nhân tố giao tiếp....................................................................................... 36 1.3.3. Chức năng giao tiếp, các thành tố nội dung và đích của diễn ngôn...... 39 1.3.4. Lý thuyết lập luận và hội thoại ................................................................ 40 1.4. CẤU TRÚC THÔNG TIN VÀ CÂU HỎI ........................................... 43 1.4.1. Cấu trúc thông tin..................................................................................... 43 1.4.2. Mối quan hệ của câu hỏi và cấu trúc thông tin ...................................... 54 1.5. TIỂU KẾT .............................................................................................. 56 Chương 2: CẤU TRÚC THÔNG TIN CÂU HỎI TIẾNG VIỆT ......................................................................................................... 60 2.1. VAI TRÒ CỦA CÂU TRẢ LỜI TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH HAI THÀNH PHẦN THÔNG TIN CỦA CÂU HỎI TIẾNG VIỆT ................ 61 2.1.1. Sự tương hợp về đích ngữ dụng .............................................................. 61 2.1.2. Sự tương hợp về khung tình thái ............................................................. 62 2.1.3. Sự tương hợp về nội dung mệnh đề ......................................................... 62 2.1.4. Sự tương hợp về TT TGĐ ND .................................................................. 63 2.1.5. Sự tương hợp về TT XN ND .................................................................... 63 2.2. HAI THÀNH PHẦN THÔNG TIN CỦA CÂU HỎI CHÍNH DANH TIẾNG VIỆT ................................................................................................. 64 2.2.1. Thành phần TT TGĐ ND ......................................................................... 64 2.2.2. Thành phần TT XN ND ........................................................................... 67 2.2.3. CTTT của các kiểu câu hỏi chính danh tiếng Việt ................................. 72 2.2.4. Các kiểu TT của câu hỏi chính danh tiếng Việt ..................................... 87 2.3. HAI THÀNH PHẦN THÔNG TIN CỦA CÂU HỎI PHI CHÍNH DANH TIẾNG VIỆT .................................................................................... 92 2.3.1. Các tầng TT của câu hỏi phi chính danh tiếng Việt ............................... 92 2.3.2. Mối quan hệ giữa các tầng TT ................................................................. 96 2.3.3. Các kiểu TT trong câu hỏi phi chính danh tiếng Việt .......................... 107 2.4. MỐI QUAN HỆ CẤU TRÚC THÔNG TIN CỦA CÂU HỎI CHÍNH DANH VÀ CÂU HỎI PHI CHÍNH DANH TIẾNG VIỆT ..................... 119 2.5. TIỂU KẾT ............................................................................................ 127 Chương 3: SỰ ĐÁNH DẤU CẤU TRÚC THÔNG TIN TRONG CÂU HỎI VÀ VAI TRÒ CỦA CÂU HỎI TRONG TƯƠNG TÁC HỘI THOẠI ....................................................................... 131 3.1. VAI TRÒ CỦA PHƯƠNG TIỆN NGÔN NGỮ................................ 131 3.1.1. Phương tiện ngữ âm ............................................................................... 131 3.1.2. Phương tiện từ vựng............................................................................... 135 3.1.3. Phương tiện ngữ pháp............................................................................ 139 3.2. VAI TRÒ CỦA CÁC CẤU TRÚC THÔNG TIN CÂU HỎI TRONG HỘI THOẠI ................................................................................................ 147 3.2.1. Câu hỏi trong quan hệ với yếu tố phi ngôn ........................................... 147 3.2.2. Các chức năng câu hỏi đảm nhận trong HT ........................................ 149 3.3. TIỂU KẾT ............................................................................................ 161 KẾT LUẬN .................................................................................. 164 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 170 CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN ÁN CH chủ hướng CTTT cấu trúc thông tin HÂ hàm ẩn HT hội thoại HV hành vi PT phụ thuộc Sp1 người nói Sp2 người nghe TT thông tin TĐ tiêu điểm TĐ TTM (TĐM) tiêu điểm thông tin mới TĐ TTPT (TĐPT) tiêu điểm thông tin pha tạp TĐ TTTP (TĐTP) tiêu điểm thông tin tương phản TĐ NV tiêu điểm nghi vấn TGĐ ND tiền giả định ngữ dụng TM tường minh TTĐ NV tầm tác động nghi vấn XN ND xác nhận ngữ dụng DANH MỤC CÁC BẢNG Số TT Tên bảng 1 2 3 Bảng 1.1. Bảng 1.2. Bảng 2.1a. 4 Bảng 2.1b. 5 Bảng 2.2. 6 7 Bảng 2.3. Bảng 2.4. 8 Bảng 2.5. 9 Bảng 2.6. 10 11 12 Bảng 2.7. Bảng 2.8. Bảng 2.9. 13 Bảng 2.10. 14 Bảng 2.11a. 15 16 Bảng 2.11b. Bảng 2.12a. 17 Bảng 2.12b. 18 Bảng 2.12c. 19 20 21 22 Bảng 2.13a. Bảng 2.13b. Bảng 2.13c. Bảng 2.13d. Nội dung Trang Cấu trúc TT của câu hỏi tiếng Việt Mô tả hai thành phần TT của câu Sự tương hợp CTTT giữa câu hỏi và câu trả lời (câu hỏi chính danh) Sự tương hợp CTTT giữa câu hỏi và câu trả lời (câu hỏi phi chính danh) Mô tả hai thành phần TT của câu hỏi chính danh CTTT câu hỏi có tiểu từ tình thái đứng cuối CTTT câu hỏi có vị từ (ngữ vị từ) tình thái mang nghĩa nghi vấn đứng đầu CTTT câu hỏi chứa các cặp từ mang nghĩa đối lập “có” – “không”, “đã” – “chưa” CTTT câu hỏi có các ngữ vị từ nghi vấn đứng cuối CTTT câu hỏi chứa từ “hay” chỉ sự lựa chọn CTTT câu hỏi chứa đại từ nghi vấn Mô tả hai thành phần TT của câu hỏi phi chính danh Mối quan hệ CTTT giữa câu hỏi chính danh và câu hỏi phi chính danh TĐ TTM chuyển thành TĐ mang tính hiển nhiên hoặc thứ yếu TĐ TTM chuyển thành TĐ TTTP Chuyển đổi vị trí TĐ trong thành phần TT XN ND Chuyển đổi vị trí TĐ NV từ thành phần TT XN ND sang thành phần TT TGĐ ND Chuyển vị trí TTĐ NV từ thành phần TT XN ND Mở rộng phạm vi TĐ bằng yếu tố đánh giá Mở rộng phạm vi TĐ bằng yếu tố so sánh Mở rộng phạm vi TĐ bằng yếu tố đối lập Mở rộng phạm vi TĐ bằng yếu tố giải thích 37 44 53 54 62 65 67 69 71 74 77 95 111 112 113 114 114 115 115 116 116 117 23 Bảng 3.1. Vai trò của câu hỏi trong hội thoại 148 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cái hệ thống ký hiệu nhiều cấp bậc, nhiều bình diện - gọi là ngôn ngữ được hình thành và phát triển chủ yếu để phục vụ cho sự giao tiếp của con người, vừa có mối quan hệ bên trong (cấu trúc của các thành tố) vừa có mối quan hệ bên ngoài (với nền văn hóa mà nó là bộ phận cấu thành). Vì thế, nghiên cứu ngôn ngữ, chúng ta không thể chỉ dừng lại ở bình diện mã tín hiệu mang tính hình thức thuần túy mà còn phải tìm hiểu mặt nội dung của nó, xem đằng sau cái được mã hóa đó là gì, cả nghĩa hiển ngôn lẫn hàm ngôn, trong từng hoàn cảnh cụ thể, có tính đến yếu tố nhân vật giao tiếp. Chính ngữ pháp chức năng, dưới ánh sáng của ngôn ngữ trong hành chức, đã đưa ngôn ngữ học vượt qua giai đoạn chỉ nghiên cứu bình diện kết học của các đơn vị trong hệ thống, tuy không bỏ qua mặt nghĩa nhưng chỉ quan tâm đến nghĩa biểu hiện, tức chỉ tìm hiểu mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, mà trả ngôn ngữ về đúng chức năng và môi trường hoạt động của nó. Chúng tôi, qua đề tài này, một mặt cũng muốn làm rõ đặc điểm của câu hỏi tiếng Việt dưới góc độ lý thuyết thông tin, mặt khác, xem đây như là cơ hội để học hỏi các chuyên luận cùng đề tài và mở rộng vốn kiến thức về ngôn ngữ học còn hạn hẹp của mình. Câu tục ngữ “Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học” đã phần nào khẳng định vai trò của HV hỏi. Theo quan niệm thông thường, hỏi là cách nhanh nhất để tiếp nhận TT, mà từ đó là sự mở rộng và điều chỉnh bức tranh về thế giới cũng như thiết lập và phát triển mối quan hệ của các nhân vật giao tiếp. Trước đây, người ta ít quan tâm đến câu hỏi, bởi vì, toàn bộ lý thuyết logic hình thức chỉ lấy câu tường thuật làm đối tượng nghiên cứu. Song, trong thời gian gần đây, câu hỏi được quan tâm nhiều hơn, được trình bày thành những chuyên mục riêng trong sách ngữ pháp và trở thành đề tài nghiên cứu chuyên sâu của nhiều công trình ngôn ngữ học ở tất cả các bậc học. Đứng ở góc độ chức năng, người ta thấy rằng câu hỏi không chỉ được dùng để hỏi mà còn dùng để thực hiện những HV khác hỏi vốn được thể hiện bằng hình thức các câu như cảm thán, cầu khiến, … và đảm nhận một vai trò hết sức quan trọng trong tương tác HT. Kết quả thu được từ các công trình đó đã giúp hình thành nên một cái nhìn rất phong phú, sâu sắc và tinh tế về câu hỏi tiếng Việt. Vì những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn câu hỏi làm đề tài nghiên cứu trong luận án này. 2. Lịch sử vấn đề Trước nay khi nghiên cứu về câu hỏi tiếng Việt, các nhà Việt ngữ học thường lấy việc phân tích các bình diện làm cơ sở cho sự tổng hợp các vấn đề có liên quan đến cách thức tổ chức, biểu hiện nội dung và giá trị sử dụng. Trong luận án này, chúng tôi sẽ khảo sát đặc điểm của câu hỏi trên cơ sở những luận điểm cơ bản của lý thuyết CTTT. Vì thế, nội dung luận án vừa mang tính kế thừa vừa có tính chất mới. Trong phần lịch sử vấn đề có tính chất trường quy, chúng tôi sẽ trình bày một cách sơ lược những công trình nghiên cứu về câu hỏi tiếng Việt và những công trình nghiên cứu về lý thuyết TT, còn những vấn đề thuộc nội dung chúng tôi sẽ bàn kỹ ở phần tổng quan. 2.1. Câu hỏi tiếng Việt Bùi Đức Tịnh (1996) cho rằng công năng của câu hỏi là thu nhận TT “Ta dùng câu nghi vấn để tỏ ý muốn biêt một việc gì.” [147, tr.79] và từ đó chỉ ra các dấu hiệu hình thức của câu hỏi như: câu nghi vấn có chỉ định từ, câu nghi vấn có đại từ nghi vấn, câu nghi vấn có phó từ nghi vấn giữ vai trò hạn định một động từ, một phó từ hoặc một tính từ, … Ông cũng chú ý đến giá trị tại lời gián tiếp của câu hỏi, tuy nhiên, chỉ là những ghi nhận về trường hợp ngoại lệ của cách sử dụng câu hỏi “Khi đặt một câu hỏi mà muốn cho thấy mình tin rằng việc muốn hỏi là có thật thì ta dùng hình thức phủ định nghi vấn: Anh không có làm việc ấy à?” [147, tr.7980). Nguyễn Kim Thản (1996) cũng tiếp cận từ phương diện công năng yêu cầu cung cấp TT và phạm vi quan sát về ảnh hưởng giữa người nói và người nghe “Câu hỏi có mục đích thông báo cho người nghe, người đọc điều hoài nghi ở người nói, người viết và nói chung đòi người đối thoại trả lời.” [132, tr.62] và chia câu hỏi thành bốn loại: câu hỏi toàn bộ, câu hỏi bộ phận, câu hỏi lựa chọn và câu hỏi rộng. Ông đặc biệt chú ý đến các yếu tố hình thức tạo nên câu hỏi: tiểu từ tình thái, đại từ nghi vấn, từ nối “hay” (“hay là”), cụm từ “phải chăng”, “phải không”, …và cũng chú ý nhiều hơn đến mục đích khác hỏi của câu hỏi như: câu hỏi dùng để khẳng định, phủ định, ra lệnh và bày tỏ cảm xúc. Theo ông, ngữ điệu là một tiêu chí nhận diện câu hỏi, chỉ cần nâng giọng cuối câu thì một câu tường thuật có thể trở thành câu hỏi. Diệp Quang Ban (1996) mặc dù luôn cho rằng việc nhận diện câu hỏi của mình có sự kết hợp của hai tiêu chí hình thức và mục đích phát ngôn nhưng với những gì đã trình bày, ông vẫn cho thấy cách tiếp cận câu hỏi của ông chủ yếu là từ phương diện mục đích phát ngôn. Bảng phân loại của ông khá chi tiết, không những cung cấp số lượng loại câu hỏi, diễn giải kỹ từng loại, mà còn bổ sung thêm một số trường hợp biến dạng. Ví dụ, ông cho rằng câu hỏi “có … không”, “có … phải không”, “đã … chưa”, “xong (rồi, xong rồi )… chưa” là biến dạng của câu hỏi “có … (hay) không”, “có phải … (hay) không”, “đã … (hay) chưa”, “xong (rồi, xong rồi) … (hay) chưa” trong đó từ “hay” dễ dàng được khôi phục; câu hỏi “… có không?”, “…(có) phải không?”, “… chưa?”, “…không?” là biến dạng theo cách dồn/ rút bớt hoặc vừa dồn vừa rút từ câu hỏi “ có … không”. Ông cũng chú ý đến giá trị khác hỏi của câu hỏi nhưng xem đây là câu hỏi giả và vì thế mục đích mà câu hỏi này thực hiện cũng là mục đích giả. Cao Xuân Hạo (2006) theo quan điểm ngữ pháp chức năng, nhận diện câu hỏi dựa vào tiêu chí có dấu hiệu riêng của tình thái hỏi “Đối với tiếng Việt, căn cứ vào một số thuộc tính về cấu trúc ngữ pháp, có thể phân câu thành hai loại lớn: câu trần thuật và câu nghi vấn và căn cứ vào hình thức mà coi câu mệnh lệnh như một tiểu loại của câu trần thuật, khác với các tiểu loại khác về tình thái ” [61, tr.27]. Từ đó, dựa trên đích ngữ dụng của HV hỏi, ông chia câu hỏi thành hai loại lớn là câu hỏi chính danh (câu hỏi có lực ngôn trung trực tiếp) và câu hỏi phi chính danh (câu hỏi có lực ngôn trung gián tiếp). Mỗi loại như thế lại được chia thành các tiểu loại như câu hỏi chính danh bao gồm câu hỏi tổng quát, câu hỏi chuyên biệt (bộ phận) và câu hỏi hạn định; câu hỏi phi chính danh bao gồm câu hỏi có giá trị cầu khiến, câu hỏi có giá trị khẳng định, câu hỏi có giá trị phủ định, câu hỏi có giá trị phỏng đoán hay ngờ vực, ngần ngại, câu hỏi có giá trị cảm thán. Trong thời gian gần đây, việc nghiên cứu câu hỏi theo quan điểm ngữ pháp chức năng, dưới ánh sáng ngữ dụng học, đã mang đến một cái nhìn rất sâu sắc và tinh tế, đặc biệt là ở bình diện hành chức, cho câu hỏi tiếng Việt. Lê Đông (1985, 1991, 1994, 1996) đi sâu nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của câu hỏi chính danh từ quan điểm của lý thuyết cấu trúc thông báo. Tác giả đã phát hiện ra trục ngữ nghĩa, ngữ dụng cơ bản của câu hỏi chính danh là TT tiền giả định và cái chưa biết, cần biết. Trên cơ sở này, tác giả cũng đã giải quyết thấu đáo vấn đề phân loại câu hỏi chính danh và các kiểu TT bổ trợ thường gặp. Nguyễn Thị Thìn (1994) cố gắng hệ thống hóa cấu trúc câu hỏi phi chính danh. Trong luận án của mình, tác giả trình bày mười một kiểu cấu trúc hỏi, ba trong số đó là “NP – mà/ mà lại – VP/ không VP – à/ ư/ sao?”, “Chẳng lẽ/ Không lẽ - à/ ư/ sao?”, “Dễ thường/ Dễ - à/ chắc/ hay sao” đã cho thấy sự phong phú trong việc thực hiện đích ngữ dụng gián tiếp của câu hỏi tiếng Việt. Nguyễn Thị Lương (1995) có khuynh hướng nghiên cứu ý nghĩa của câu hỏi khi tập trung miêu tả đặc điểm của các tiểu từ tình thái nghi vấn cuối câu. Tuy các tiểu từ này được miêu tả ở cả trạng thái tĩnh lẫn động nhưng chưa được xem xét đầy đủ ở bình diện ngữ nghĩa, ngữ dụng. Nguyễn Đức Dân và Vũ Thị Thời (2007) từ hiệu lực ở lời gián tiếp chất vấn bác bỏ của câu hỏi đã phát hiện ra nhiều hiệu lực ở lời gián tiếp khác như phủ định, khẳng định, … và các biểu thức ngôn ngữ biểu đạt nó: “Có A đâu?”, “Có A nào X?”, “X thế nào được?”, “Có A gì X?”, “A làm gì?”, “Làm gì có A?”, “Chẳng A là gì?”, “Có A ở đâu?”, “Có A là bao?”, “Có A là mấy?”, “A sao/ làm sao/ thế nào được?” Nguyễn Thị Thu Hương (2003) xuất phát từ một cấu trúc hỏi (cấu trúc “có … không”) trên cơ sở so sánh với một kiểu câu hỏi của tiếng Anh (yes – no question), đã tìm ra tất cả các hiệu lực tại lời của nó, ví dụ như Câu hỏi có giá trị như một lời yêu cầu, đề nghị hoặc ra lệnh, câu hỏi có giá trị như một lời mời, câu hỏi diễn tả sự mong muốn được người khác giúp đỡ, câu hỏi nhằm có được sự đồng tình của người nghe, câu hỏi diễn đạt sự không đồng ý, câu hỏi có giá trị phủ định, câu hỏi có giá trị cảm thán, câu hỏi thể hiện sự nghi ngờ, câu hỏi thể hiện sự ngạc nhiên. Câu hỏi càng lúc càng được chú ý ở phương diện hành chức, Mai Thị Kiều Phượng (2007) chủ yếu nghiên cứu đặc điểm của HV hỏi được thực hiện bằng phát ngôn hỏi trong một lĩnh vực nhất định của đời sống (mua bán). Từ đó, tác giả trình bày đặc điểm ba bình diện câu hỏi trên cả hai đích ngữ dụng chính danh và phi chính danh. Nghiên cứu câu hỏi nhưng Lê Anh Xuân (1999, 2000, 2001, 2006) không khảo sát câu hỏi mà khảo sát câu trả lời. Ví dụ, để trả lời cho câu hỏi chính danh, tác giả cho rằng người nói không nhất thiết phải sử dụng câu trần thuật hay câu cầu khiến mà có thể sử dụng nhiều loại câu khác nhau, trong đó có cả câu hỏi. Trả lời bằng câu hỏi nhưng người nói hoàn toàn có thể thực hiện được các HV khác hỏi như khẳng định, phủ định, biện minh hay giải thích, … Dùng câu trả lời để khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của câu hỏi là một hướng nghiên cứu tuy không mới nhưng rất có ý nghĩa. Nhìn chung, công trình nghiên cứu của các nhà Việt ngữ học, trong một thời gian dài, về ba bình diện kết học, nghĩa học và dụng học của câu hỏi đã đạt được những thành tựu lớn. Trong luận án này, chúng tôi xem những thành tựu đó như những tiền đề quan trọng, làm cơ sở để khảo sát đặc điểm câu hỏi tiếng Việt dưới một góc nhìn còn khá mới mẻ: lý thuyết TT. 2.2. Lý thuyết TT V.Mathesius (1929) có lẽ là người đầu tiên đề cập đến lý thuyết về phân đoạn thực tại câu (Funtional Sentence Perpective – FSP) và những đơn vị có chức năng chuyển tải TT của câu trong quá trình giao tiếp với sự phân định hai thành phần TT cái đã biết/ cái chưa biết (known/ unknown) ứng với cái cũ/ cái mới (given/ new). J. Firbas (1966) khi nói về “tỉ lực thông báo” (Communicative Dynamism – CD) trong câu đã tóm tắt như sau “Các thành phần của câu nối tiếp nhau theo thứ tự của tỉ lực thông báo mà mỗi thành phần đóng góp, bắt đầu từ mức thấp nhất và dần dần chuyển thành mức cao nhất” [173, tr.240)]. Chính quan điểm đồng nhất hai thành phần TT cũ và mới với hai thành phần trong cấu trúc nội dung mệnh đề của câu là đề và thuyết đã dẫn các nhà ngôn ngữ học trong trường phái Prague này đến chỗ “lẫn lộn không những giữa cấu trúc đề - thuyết với cấu trúc thông báo, mà cả giữa cấu trúc đề - thuyết với những hiện tượng tiêu điểm hóa (focalisation) trên trục đối vị (cường điệu – emphase) và trên trục kết hợp (tương phản – contract)” [61, tr.79]. M.A.K.Halliday (1967, 1985, 1991) là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “cấu trúc thông tin” (information structure) trong một bài viết về hiện tượng ngôn điệu trong lời nói năm 1967. Từ hai thành phần TT mà V. Mathesius và các học trò đã phân định trước đó, M.A.K.Halliday định danh thành TT cũ và TT mới, trong đó TT mới là cái mà người nói giả định người nghe chưa biết và cần biết, còn TT cũ là cái giả định người nghe đã chia sẻ được từ người nói. Sự phân bố thường gặp của hai thành phần TT này là cũ - mới. Khắc phục nhược điểm của các tác giả lý thuyết phân đoạn thực tại câu, Halliday cho rằng không phải lúc nào trật tự hai thành phần TT cũ mới cũng trùng với trật tự đề - thuyết trong câu. Một cái đề tương phản hoàn toàn có thể là một TT mới. S.Dik (1978) cho rằng sự phân chia TT trong câu không nhất thiết như một cấu trúc lưỡng phân mà chỉ như hai thành phần rời nhau và có thể không choán hết cả câu. Trong phần trình bày về đề (theme, topic), Dik có đề cập đến TĐ (focus) mà theo ông đó là bộ phận có chức năng dụng pháp thể hiện thành phần TT quan trọng nhất, nổi bật nhất trong câu. R.Dooley (1982), tương tự như S.Dik, khi phân tích cấu trúc câu của tiếng Guarani, cũng nêu rõ TĐ là hạt nhân dụng pháp mang thông báo quan trọng nhất của câu và có tác dụng cơ bản đến lực ngôn trung. Chính cái lõi này sẽ cho biết cái gì là trọng tâm thông báo của câu hỏi chính danh và thông tin nào là quan yếu trong câu trả lời tương hợp. N.Chomsky (1971) xác định hai thành phần TT cơ bản trong câu là TT cũ – TT mới và thay thuật ngữ chủ đề - thuật đề ( theme – rheme), đề - thuyết ( topic – comment) thành thuật ngữ tiền giả định - TĐ. Trong đó, TT tiền giả định tuy là TT không bắt buộc phải hiển ngôn trong câu, tức có thể tồn tại ngoài câu, nhưng luôn là yếu tố đóng vai trò tiền đề trong việc xác định TĐ. Cặp thuật ngữ này được rất nhiều nhà ngữ học như R.Jackendoff (1972), M.Rooth (1985), E.Vallduvi và R.Zacharski (1994), D.Buring (2005), S.Calhoun (2007), … sử dụng. Về sau, M.Kriffka (1992, 2001, 2006) dùng cặp thuật ngữ khác thay thế là TT nền - TĐ (common ground – focus). K.Lambrecht (1994) chia hết TT trong câu thành hai phần gọi là TGĐ ND và XN ND tương ứng với TT cũ và TT mới, cái xác định và cái cần thông báo. Dựa trên tiêu chí quy mô vùng tiêu điểm gắn với chức năng giao tiếp cụ thể, ông đề xuất ba mô hình CTTT tương ứng với hai phạm vi rộng và hẹp. Mỗi kiểu CTTT có cơ cấu TT TGĐ ND và TT XN ND riêng, trong đó TT XN ND có thể được giới hạn trong phạm vi một tham tố, nội dung sự tình mà hoặc trải dài trên phạm vi cả sự tình. Quan điểm của Lambrecht được nhiều nhà ngữ học đồng tình và sử dụng trong các nghiên cứu của mình như D.Bolinger (1995), R.Van Valin (1997), E.V.Rodinova (2001), C.Breul (2004), … Mỗi tác giả có những bổ sung riêng, tuy nhiên, về cơ bản, họ tiếp nhận quan điểm của Lambrecht. Ngoài bình diện cú pháp, các nhà ngữ học còn khảo sát CTTT trên các bình diện khác. M. Steedman (2002, 2003) tập trung khảo sát hoạt động của trọng âm chỉ xuất TĐ TP thông qua hai lớp cấu trúc trong một đơn vị TT. Theo ông, lớp ngoài cùng được biểu thị bằng ngữ điệu phân đoạn đề - thuyết có chức năng phân đoạn đơn vị thông tin, còn lớp bên trong là khu vực hoạt động của trọng âm cường điệu với chức năng đánh dấu TĐ TP. Như vậy, bằng việc phân tích cấu trúc đơn vị TT, Steedman đã nêu được vai trò của các đơn vị ngữ âm trong việc đóng gói và chuyển đích ngữ dụng của TT. Trong lĩnh vực nghiên cứu tiếng Việt, hầu như đến nay chưa có một công trình lớn nào bao quát được tất cả các vấn đề của CTTT. Ngoài một số bài báo mang tính chuyên đề của các tác giả như Lý Toàn Thắng (1981), Nguyễn Hồng Cổn (2001, 2004, 2010), Trần Hữu Mạnh (2004), Nguyễn Thị Thanh Huyền (2008, 2010), …, vấn đề này chỉ được trình bày một cách sơ lược dưới dạng một tiểu mục trong các sách nghiên cứu của tác giả Trần Ngọc Thêm (1985), Cao Xuân Hạo (1991), Hồ Lê (1991), Nguyễn Thiện Giáp (2000), Đỗ Hữu Châu (2001), Diệp Quang Ban (2005), … 3. Mục đích nghiên cứu Việc thực hiện luận án này nhằm mục đích là vận dụng một lý thuyết còn khá mới mẻ ở Việt Nam, lý thuyết CTTT, để giải quyết một số bình diện của câu hỏi tiếng Việt. Nói cụ thể, nghiên cứu của chúng tôi trả lời những câu hỏi sau: Trong câu hỏi tiếng Việt, các thành phần TT được thể hiện như thế nào, kể cả câu hỏi chính danh và câu hỏi phi chính danh? Các phương tiện ngôn ngữ, gồm ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, đảm nhận vai trò gì trong việc đánh dấu TĐ câu hỏi tiếng Việt? Câu hỏi thể hiện những TT gì trong giao tiếp và nó đảm nhiệm những chức năng gì trong tương tác HT? Nhìn chung, trả lời các câu hỏi này, luận án cũng chỉ nhằm góp phần giải quyết những vấn đề rất chung của ngôn ngữ là: Chúng ta làm gì khi chúng ta nói? Chúng ta thật sự nói gì khi chúng ta nói? Vì thế, theo chúng tôi, đề tài rất thiết thực và hướng giải quyết vấn đề cũng khả thi, chẳng những có ý nghĩa về mặt lý thuyết mà còn có giá trị về mặt thực tiễn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Như tên gọi đề tài, luận án chủ yếu tập trung giải quyết những vấn đề thuộc đặc điểm của câu hỏi tiếng Việt dưới góc nhìn lý thuyết CTTT. Đối tượng được xác định là câu có hình thức hỏi trong bất kỳ ngữ cảnh nào của HT và phạm vi nghiên cứu là ba bình diện của câu hỏi, đặc biệt bình diện dụng học. Từ đó, luận án sẽ rút ra những điểm giống và khác nhau giữa hai cách sử dụng chính danh và phi chính danh, làm cơ sở cho việc khảo sát vai trò câu hỏi trong giao tiếp. Để phục vụ cho việc xử lý TT của các nhân vật giao tiếp cũng như đảm bảo tính phù hợp với ngữ cảnh giao tiếp, luận án sẽ trình bày thêm đặc điểm cấu trúc tương thích, xem đây như một yêu cầu quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ trong tương tác HT. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án đề ra những nhiệm vụ nghiên cứu như sau: Đi tìm và lý giải, trên cơ sở phân tích, so sánh và tổng hợp, một cấu trúc câu hỏi phù hợp với mọi hoàn cảnh giao tiếp mà ở đây chúng tôi tạm gọi đây là cấu trúc câu hỏi tương thích. Miêu tả hai thành phần TT cơ bản cũng như các kiểu thông tin của câu hỏi tiếng Việt trên cơ sở chấp nhận quan điểm ngôn ngữ học của K.Lambrecht (1994). Việc trình bày đặc điểm câu hỏi tuy không tách bạch từng bình diện, song qua đặc điểm CTTT, chúng tôi hy vọng sẽ làm rõ đặc điểm của các bình diện. Cách trình bày này cũng có thuận lợi riêng, vì giải quyết được mối quan hệ rất mật thiết giữa ba bình diện ở cấp độ câu, cụ thể là câu hỏi. Khảo sát mối quan hệ và các bước chuyển từ câu hỏi dùng để hỏi, sang câu hỏi không dùng để hỏi xét ở góc độ cấu trúc thông tin, xem tại sao một câu như thế này là dùng để hỏi: (1) a- Anh có mệt không? Trong khi một câu khác cũng có cấu trúc như thế nhưng không dùng để hỏi: b- Anh có rảnh không? Và một câu cũng hoàn toàn là cấu trúc ấy song chỉ dùng để đe dọa: c- Con có muốn ăn đòn không? Hay như hai câu hỏi sau đây: (2) a- Anh nói gì? Và: b- Anh nói gì mà kỳ vậy? mà theo những trải nghiệm thông thường, các câu hỏi (1)a, (2)a dùng để hỏi, còn các câu (1)b, (2)b không dùng để hỏi. Trình bày vai trò của câu hỏi trong tương tác HT để thấy hết tầm quan trọng trong giao tiếp của HV hỏi. Nhân việc khảo sát đặc điểm của câu hỏi, chúng tôi cũng muốn góp một tiếng nói làm phong phú thêm bức tranh về tương tác HT. 6. Nguồn tài liệu tham khảo và ngữ liệu Để thực hiện luận án này, chúng tôi đã sử dụng một nguồn tài liệu và ngữ liệu khá phong phú. Về tài liệu tham khảo: - Đó là các công trình nghiên cứu trong nước được công bố dưới dạng báo hoặc sách, không chỉ về các vấn đề trình bày trong luận án mà còn về các vấn đề liên quan. - Đó là các công trình nghiên cứu nước ngoài, chủ yếu là các công trình mang tính lý thuyết cơ sở được dịch sang tiếng Việt - Và cả các công trình nước ngoài chưa được dịch sang tiếng Việt, chủ yếu là sách tham khảo tiếng Anh. Về ngữ liệu: - Ngữ liệu trích lại của các tác giả đi trước - Ngữ liệu sưu tập trong hội thoại hàng ngày - Ngữ liệu sưu tập trên báo chí và một số tác phẩm văn chương 7. phương pháp nghiên cứu Trong quá trình tiếp cận, khảo sát, phân tích và lý giải đối tượng, luận án tuân theo những nguyên tắc và sử dụng những phương pháp vốn có hiệu lực trong khoa học nói chung cũng như trong ngành ngôn ngữ học nói riêng. Về nguyên tắc, trước hết, phải kể đến nguyên tắc bao quát tối đa về nguồn tài liệu, trong chừng mực có thể có được. Chúng tôi cố gắng tìm đọc, càng nhiều càng tốt, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, từ những công trình viết về CTTT đến những công trình nghiên cứu về đặc điểm câu hỏi tiếng Việt. Sau nữa là nguyên tắc điều tra thực tế cách sử dụng câu hỏi tiếng Việt trong giao tiếp. Hai công việc này tuy được tiến hành cùng một lúc nhưng độc lập nhau: việc bao quát tài liệu tham khảo cho cái nhìn bước đầu về đối tượng còn việc xử lý tư liệu giúp nắm rõ hơn những đặc điểm của đối tượng. Trên cơ sở đó, luận án thống kê, phân tích, lý giải và rút ra các đặc điểm phổ quát về câu hỏi. Về phương pháp, vì đối tượng nghiên cứu là đơn vị tập hợp đủ ba bình diện của ngôn ngữ nên hệ phương pháp được lựa chọn một mặt phải đảm bảo các tiền đề lý thuyết, mặt khác phải có giá trị thực hành. Có thể hình dung công việc nghiên cứu như sau: xuất phát từ những luận điểm cơ bản về CTTT theo quan điểm ngôn ngữ học của K. Lambrecht (1994), trên cơ sở xử lý tư liệu về cách sử dụng của câu hỏi trong thực tế, chúng tôi tiến hành khảo sát và sau đó miêu tả các thành phần TT trong câu hỏi, xem trong câu hỏi, kể cả chính danh và phi chính danh, hai thành phần TT được thể hiện như thế nào, TĐ NV có đặc điểm gì. Tiếp theo, chúng tôi so sánh, đối chiếu để tìm ra những điểm giống và khác nhau cũng như các bước chuyển dưới góc độ CTTT của câu hỏi chính danh và câu hỏi phi chính danh. Bên cạnh đó, chúng tôi còn phân tích các kiểu thông tin mà câu hỏi có thể thể hiện, vai trò của các phương tiện ngôn ngữ trong việc đánh dấu TĐ câu hỏi và vai trò của câu hỏi trong tương tác hội thoại. Cuối cùng, tổng hợp những kết quả thu được, chúng tôi cố gắng rút ra một cái nhìn khái quát về đặc điểm của câu hỏi dưới góc độ lý thuyết TT. Như vậy, ngoài một số thủ pháp mà bất cứ công trình nghiên cứu nào cũng phải sử dụng như sưu tập, xử lý tư liệu, phân loại, thống kê, tổng hợp, cách tiếp cận của luận án dựa vào ba phương pháp chính: Phương pháp miêu tả, phân tích ngữ cảnh Vì chú ý đến bình diện hành chức của câu hỏi nên khi nghiên cứu, luận án không trừu xuất đối tượng ra khỏi hoàn cảnh giao tiếp, chẳng những thế, còn cố gắng miêu tả và phân tích cả ngữ cảnh hẹp lẫn ngữ cảnh rộng. Đối với ngữ cảnh hẹp, luận án chú ý đến sự tương tác của các yếu tố ngôn ngữ; Đối với ngữ cảnh rộng, luận án chú ý đến sự chi phối của các yếu tố phi ngôn. Phương pháp so sánh - đối chiếu Khi khảo sát đặc điểm CTTT của câu hỏi chính danh và phi chính danh, luận án tiến hành so sánh, đối chiếu để tìm những điểm tương đồng và dị biệt giữa chúng. Đặc biệt, từ những điểm tương đồng và dị biệt ấy, luận án phát hiện ra mối quan hệ cũng như những bước chuyển từ cách sử dụng để thu nhận TT sang cách sử dụng để truyền đạt TT của câu hỏi. Phương pháp hệ thống hóa
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan