Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Địa lý Câu hỏi ôn thi olympic truyền thống 30...

Tài liệu Câu hỏi ôn thi olympic truyền thống 30

.DOC
62
434
69

Mô tả:

Câu hỏi ôn thi Olympic truyền thống 30/04 môn Địa Lý
Câu hỏi ôn thi olympic truyền thống 30-4 môn địa lý - CÁC CÂU HỎI VỀ THỦY QUYỂN – SÔNG NGÒI Tài liệu Địa Lý miễn phí .... 07:49 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. CÁC CÂU HỎI VỀ THỦY QUYỂN – SÔNG NGÒI Vẽ hình vòng tuần hoàn nước trên Trái Đất. Vẽ sơ đồ tuần hoàn nước trên Trái Đất. Trình bày các giai đoạn của vòng tuần hoàn nước trên Trái Đất. Phân biệt sự khác nhau giữa vòng tuần hoàn nhỏ và vòng tuần hoàn lớn. Lũ ở sông Hồng, sông Đà Rằng, sông Cửu Long khác nhau như thế nào? Vì sao có sự khác nhau đó? Tại sao mực nước lũ ở các sông miền Trung thường lên rất nhanh? Ở sông Hồng: lũ lên nhanh, đột ngột, rút chậm. Ở sông Đà Rằng: lũ lên nhanh, rút nhanh. Ở sông Cửu Long: lũ lên chậm, rút chậm. Do sự khác biệt về: Hình thái mạng lưới sông (dạng nan quạt, dạng cành cây, dạng lông chim…). Diện tích lưu vực, chiều dài sông. Độ dốc dòng chảy. Lớp phủ thực vật, địa chất, hồ đầm hai bên bờ sông. Biến trình mưa trong lưu vực sông. Lũ miền Trung thường lên rất nhanh vì: Địa hìnnh núi lan ra sát biển, sông ngòi ngắn và dốc. Mưa tập trung với lượng mưa lớn và trong thởi gian ngắn. Hãy cho biết vai trò cùa nước đối với đời sống trên Trái Đất. Làm thay đổi các thành phần khác trong lớp vỏ địa lý. Có ý nghĩa to lớn trong các quá trình tự nhiên, nhất là các quá trình sống trên bề mặt Trái Đất. Quyết định sự tồn tại và phát triển của con người. Trình bày sự cân bằng nước trên Trái Đất. - Cân bằng nước là lượng nước thu vào và lượng nước mất đi. - Trên lục địa, nước thuvào là nước mưa; nước mất đi do bốc hơi và dòng chảy ra đại dương. - Trên đại dương, nước thu vào là nước mưa, dòng chảy vào; nước mất đi là do bốc hơi. - Trên cả lục địa và đại dương, lượng nước thu vào bằng lượng nước mất đi. 8. Trình bày những biểu hiện khác biệt giữa sông ngòi ở miền núi và sông ngòi ở miền đồng bằng? Tại sao lại có sự khác biệt đó? Nó ảnh hưởng như thế nào tới sự phát triển kinh tế xã hội của các vùng đó? a. Những điểm khác biệt giữa sông ngòi ở các vùng miền núi và đồng bằng: Sông ngòi ở miền núi: - Lòng sông hẹp, độ dốc lớn, nhiều thác ghềnh và nước chảy mạnh hơn. - Nước sông lên xuống rất nhanh. - Quá trình xâm thực xảy ra mạnh. Sông ngòi ở miền đồng bằng: - Lòng sông rộng và độ dốc nhỏ hơn, uốn khúc quanh co và nước chảy chậm hơn. - Nuớc sông lên xuống chậm. - Quá trình bồi tụ xảy ra mạnh. Giải thích: - Do đặc điểm của địa hình: miền núi địa hình cao, dốc và mấp mô. Miền đồng bằng thấp, thoải và tương đối bằng phẳng. - Do đất đá ở miền núi rắn chắc, khó thấm nước; còn ở miền đồng bằng đất đá vụn bở, dễ thấm nước. - Do chế độ mưa và nguồn cung cấp nước cho sông ngòi ở các miền địa hình khác nhau. - Do chiều rộng, độ dốc của lòng sông và lớp phủ thực vật ở hai miền đó khác nhau. b. Ảnh hưởng của sông ngòi tới việc phát triển kinh tế - xã hội của các vùng đó. Thuận lợi: - Cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt. - Phát triển giao thông đường sông, nuôi trồng thủy sản ở đồng bằng. - Nguồn thủy năng dồi dào, thuận lợi cho thủy điện phát triển ở miền núi. - Tưới tiêu nước và bồi đắp phù sa cho đồng bằng. Khó khăn: - Gây ra các hiện tượng lũ, sạt lở ở miền núi. - Hiện tượng ngập lụt thường xảy ra ở miền đồng bằng. 9. Tại sao nói sự tuần hoàn của nước thực chất là sự trao đổi nhiệt, ẩm giữa đại dương và lục địa? Vì: khi nước từ đại dương chuyển thành hơi nước nó hấp thụ một lượng nhiệt rất lớn trên mặt các đại dương, đến khi chuyển vào lúc địa gặp điều kiện thuận lợi tạo thành mưa, nó lại tỏa ra một lượng nhiệt bằng lượng nhiệt đã hấp thụ ở đại dương. Thông qua hiện tượng bốc hơi và ngưng tụ nước đã vận chuyển một lượng nhiệt vào lục địa, nên vòng tuần hoàn nước giữa đại dương và lục địa là một quá trình trao đổi nhiệt ẩm (vì để bốc hơi 1 gram nước phải cần 600 calo, khi nước rơi sẽ trả lại đúng một lượng nhiệt như vậy cho khí quyển). 10. Tốc độ dòng chảy của sông chịu ảnh hưởng của những nhân tố nào? Trình bày các nhân tố ảnh hưởng đến chế độ nước sông. - Độ dốc của lòng sông: độ dốc của lòng sông lớn, làm độ chênh lệch mặt nước càng lớn thì tốc độ dòng chảy càng mạnh. - Chiều rộng của lòng sông: nước chảy nhanh hay chậm còn tùy thuộc chiều ngang của lòng sông hẹp hay rộng. Ở khúc sông rộng, nước chảy chậm, đến khúc sông hẹp nước chảy nhanh hơn. Các nhân tố ảnh hưởng đến chế độ nước sông: - Chế độ mưa, băng tuyết và nước ngầm: Ở vùng khí hậu nóng hoặc những nơi địa hình thấp của vùng khí hậu ôn đới, nguồn tiếp nước chủ yếu là nước mưa nên chế độ nước sông ở từng nơi phụ thuộc vào chế độ mưa ở nơi đó. Ở những nơi đất đá thấm nước nhiều, nước ngầm có vai trò đáng kể trong việc điều hòa chế độ nước sông. Ở miền ôn đới lạnh và miền núi cao, nước sông chủ yếu do băng tuyết cung cấp. mùa xuân đến khi nhiệt độ lên cao, băng tuyết tan, sông được tiếp nước, nên mùa xuân là mùa lũ. - Địa thế, thực vật và hồ đầm: Địa thế: ở miền núi nuớc sông chảy nhanh hơn sông ở đồng bằng. Sau mỗi trận mưa to là nước dồn về các sông, suối. Vì vậy, sông ở miền núi nước lũ lên rất nhanh. Thực vật: khi nước mưa rơi xuống mặt đất, một lượng khá lớn được giữ lại, một phần len lõi qua các rễ cây thấm dần xuống đất tạo nên những mạch ngầm, điều hòa dòng chảy cho sông ngòi, giảm lũ lụt. Hồ, đầm: hồ đầm nối với sông cũng có tác dụng điều hòa chế độ nước sông. Khi nước sông lên, một phần chảy vào hồ, đầm làm mực nước không dâng cao. Khi nước xuống thì nước ở hồ đầm lại chảy ra làm cho nước sông đỡ cạn. 11. Vai trò của nước trong tự nhiên và trong đời sống xã hội. 11. Sức sống của một con sông là gì? Tại sao nói nó là chỉ tiêu đánh giá một con sông? Sức sống của một con sông là mối quan hệ giữa vận tốc dòng chảy và khối lượng nước. Vận tốc dòng chảy phụ thuộc địa hình lòng sông (độ dốc và bề rộng của dòng sông) Độ dốc càng lớn, vận tốc dòng chảy càng nhanh. Nơi sông rộng, tốc độ thấp, nơi hẹp, tố độ cao. Khối lượng nước tùy thuộc nguồn cung cấp nước, diện tích lưu vực và số lượng phụ lưu. Tác động của dòng sông trong việc đào lòng, mở rộng dòng chảy, vận tải vật liệu, bồi đắp phù sa đều tùy thuộc vào sức sông của con sông nên nó là chỉ tiêu đẻ đánh giá một con sông. 13. Mặc dù là một đại dương lớn nhất Thế giới nhưng tại sao Thái Bình Dương lại có số lượng sông đổ vào ít hơn so với Đại Tây Dương? Do hai bên bờ Thái Bình Dương là Châu Á (bờ Tây) và Châu Mỹ (bờ Đông). Chạy dài từ Bắc xuống Nam ở phía Đông Châu Á và phía Tây của Châu Mỹ là những dãy núi cao nằm ngay sát bờ biển nên Thái Bình Dương có ít sông đổ vào và chỉ nhận được lượng nước sông chảy trên đất liền rất ít, chỉ khoảng 20%. Trong khi đó Đại Tây Dương nhận được lượng nước của các con sông khoảng 53%. 14. Nêu giá trị của sông ngòi đối với sản xuất và đời sống. Giao thông, thủy lợi, thủy sản nước ngọt. Thủy điện Vận chuyển phù sa bồi tụ thành đồng bằng châu thổ (delta – tam giác châu) thuận lợi phát triển nông nghiệp. Cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt. 15. Dựa vào cơ sở nào để phân loại các sông ngòi trên Trái Đất? Cho ví dụ: Các nguồn cung cấp nước là cơ sở để phân loại sông ngòi trên Trái Đất. Nguồn cung cấp nước là mưa: Kiểu sông ở Xích đạo và nhiệt đới ẩm như sông Amazone, sông Congo Kiểu sông ở Tây Âu như sông Thur (Thụy Sĩ), sông Seine (pháp). Kiểu sông ở Nam Âu như sông Darling, sông Marnay. Kiểu sông ở vùng nhiệt đới khô: sông ở hoang mạc Sahara, hoang mạc Australia. Nguồn cung cấp nước là tuyết và băng tan. Kiểu sông ở vùng ôn đới lạnh: sông Tenissei, sông Lena. Kiểu sông cực đới: ở đảo Greenland, đảo Island. Kiểu sông ở Trung Á: sông Syr Daria, Amou Daria (Liên Xô cũ) Nguồn cung cấp nước là nước trong các hồ, đầm chảy ra: sông Saint Laurent Nguồn cung cấp nước là nước dưới đất: sông Loire Nguồn cung cấp nước là nước hỗn hợp: sông Hằng, sông Mekong. 39 CÂU HỎI VỀ ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAM (Có đáp án) Tài liệu Địa Lý miễn phí .... 07:16 Đại học , LỚP 12 , Luyện thi , Ôn thi , Việt Nam CÁC CÂU HỎI ĐÁP VỀ ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAM Câu 1: Vị  trí địa lí nước ta “nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu Bắc, thiên về  phía chí tuyến hơn là phía xích đạo”, lại  ở  bờ  đông bán đảo Đông Dương. Điều đó có ý ngiã như thế nào đối với sự hình thành các đặc điểm địa lí tự nhiên độc đóa của nước ta? ĐÁP: Phần đất liền nước ta có toạ độ địa lí từ 8030’B đến 23022’B và từ 1020Đ đến 1090Đ. Do vị trí như vậy nên nước ta có những đặc điểm sau:   ­ Nước ta nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu Bắc, ở phía Đông Nam  của châu Á, trong vùng gió mùa nhiệt đới điển hình, nên có khí hậu nóng, ẩm. Một năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô.   ­ Nước ta không bị hoang mạc và bán hoang mạc như một số nước có cùng vĩ độ ở Tây Nam Á và châu Phi.   ­ Nhờ nhiệt độ cao, độ ẩm lớn, lượng mưa dồi dào nên thực vật phát triển xanh tốt quanh năm. Đặc biệt vị trí đó lại là nơi hội tụ của các hệ thực vật Ấn – Miến từ tây sang và Mã Lai – Inđônexia từ phía nam tới.   ­ Bờ  biển nước ta dài, có nhiều vũng, vịnh. Ngoài biển lại có nhiều đảo và quần đảo. Thềm lục địa chứa nhiều tài nguyên (khoáng sản, hải sản) có giá trị.  Ảnh hưởng của biển vào sâu trong đất liền. Tuy nhiên, hàng năm cũng có nhiều cơn bão gây tác hại cho sản xuất và sinh hoạt. Câu 2: “Diện tích phần đất liền nước ta thuộc loại trung bình so với nhiều nước khác trên thế giới, nhưng lãnh thổ toàn vẹn của nước ta thì rất rộng lớn”. Nói như vậy có gì mâu thuẩn không? Tại sao? ĐÁP: Nói như  vậy không mâu thuẫn, bởi vì lãnh thổ  toàn vẹn của nước ta bao goầm cả  phần đất liền, các đảo, quần đảo và vùng biển thuộc chủ  quyền nước ta. Diện tích phần đất liền nước ta khoảng 330.363 km 2. Nếu so với nhiều nước khác trên thế  giới thì không lớn quá, nhưng cũng không nhỏ  quá. Ngoài phần đất liền, nước ta còn có một vùng biển rộng gấp nhiều lần so với phần đất liền, với hang nghìn hòn đảo lớn nhỏ, nằm rải rác hoặc hợp thành những quần đảo trong Biển đông, như Hoàng Sa, Trường Sa v.v…Như vậy cả  phần đất liền lẫn vùng biển và các đảo, quần đảo của nước ta hợp lại thì lãnh thổ  toàn vẹn của nước CHXHCN Việt Nam không nhỏ. Câu  3: Nước ta có bao nhiêu tỉnh và thành phố. Miền Bắc, miền Trung và miền Nam có những tỉnh và thành phố nào? ĐÁP: Theo tài liệu chính thức năm 2009, nước ta có 58 tỉnh và 5 thành phố  trực thuộc Trung ương.   ­ Miền Bắc có 23 tỉnh gồm: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Hoà Bình, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú Thọ, Hà Nam, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và 2 thành phố trực thuộc trung ương là Hà Nội và Hải Phòng. Ngoài ra, có 19 thành phố  thuộc tỉnh là: Việt trì (thuộc Phú Thọ) và Hạ Long (thuộc Quảng Ninh)…   ­ Miền Trung có 18 tỉnh gồm: Thanh Hoá, Nghệ  An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên ­ Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Có 1 thành phố  trực thuộc trung  ương là Đà Nẵng, có 18 thành phố thuộc tỉnh là: Thanh Hoá (thuộc Thanh Hoá), Vinh (thuộc Nghệ  An), Huế  (thuộc Thừa Thiên ­ Huế), Quy Nhơn (thuộc Bình Định), Nha Trang (thuộc Khánh Hoà) và Đà Lạt (thuộc Lâm Đồng)…   ­ Miền Nam có 15 tỉnh gồm: Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Hậu Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Có 2 thành phố trực thuộc Trung  ương là: Thành phố  Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Ngoài ra, còn có 11 thành phố thuộc tỉnh là: Vũng Tàu (thuộc Bà Rịa – Vũng Tàu), Biên Hoà (thuộc Đồng Nai), Mĩ Tho (thuộc Tiền Giang)… Câu  4: Các đảo và quần đảo Côn Đảo, Phú Quốc, Hoàng Sa, Trường Sa thuộc các tỉnh nào? ĐÁP: Côn đảo là một huyện thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Phú Quốc là một huyện thuộc tỉnh Kiên Giang. Hoàng Sa là một huyện thuộc tỉnh Quảng   Nam­ Đà Nẵng, còn Trường Sa là một huyện thuộc tỉnh Khánh Hoà. Câu  5: Ở nước ta, tỉnh nào có diện tích lớn nhất, nhỏ nhất? ĐÁP: Theo số liệu, cho đến năm 2009:   1. Tỉnh có diện tích lớn nhất là Nghệ  An (16490.7 km 2). Tỉnh có diện tích nhỏ nhất là Bắc Ninh (822.7 km2).   2. Những tỉnh và thành phố  có số  dân đông nhất là: Thành phố  Hồ  Chí Minh (7396.5 nghìn người), Hà Nội (6561.9 nghìn người), Thanh Hoá (3406.8 nghìn người), Nghệ An (2917.4 nghìn người), Đồng Nai (2596.4 nghìn người), An Giang (2149.5 nghìn người). Những tỉnh và thành phố  có mật độ  dân số  lớn nhất là: Thành phố Hồ  Chí Minh (3530 người/km2), Thành phố Hà Nội (1962 người/km2), Hưng Yên (1226 người/km2), Hải Phòng (1221 người/km2). Câu  6: Tại sao nói Biển Đông nước ta là một biển lớn và nửa kín? ĐÁP: Biển Đông bao bọc nước ta  ở phần phía đông và phía nam, chủ yếu là phía đông nên có tên gọi là Biển Đông (Việt Nam).   Đây là một biển lớn, đứng hàng thứ  2 về  diện tích trong số  các biển ven Thái Bình Dương. Biển rộng trung bình trên 1000 km, dài khoảng trên 3000 km, diện tích khoảng 3.447.000 km2.   Đặc điểm nổi bật của Biển Đông là tính chất biển nửa kín của nó, được bao bọc 4 phía bởi lục địa châu Á, các quần đảo Philipin, Malaixia và Inđônêxia, chỉ thông ra Thái Bình Dương và các biển lân cận bằng những eo biển hẹp. Ý nghĩa của tính chất biển nửa kín  ở  chỗ  nó làm  ảnh hưởng đến đặc điểm của các dòng biển, của thuỷ triều và cả của giới sinh vật (các đàn cá,…) Câu  7: Những đặc điểm cơ bản nào chứng tỏ nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm? ĐÁP: Nằm gọn trong vùng nội chí tuyến nửa cầu Bắc từ  8030’B đến 23022’B, đồng thời lại nằm gọn trong vùng hoạt động của gió mùa Đông Nam Á, nước ta có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, với đặc điểm nổi bật là nóng ẩm và mưa nhiều theo mùa.   ­ Nhiệt độ trung bình cả năm trong toàn quốc trên 230C, mỗi năm có ít nhất 1200 giờ nắng, cán cân bức xạ quanh năm dương. Tổng lượng nhiệt hoạt động xê dịch từ 8000 đến 10.0000C.   ­   Lượng   mưa   trung   bình   hang   năm   bằng   1700   –   1800mm,   có   nơi   vượt   quá 3000mm   (tuy   nhiên   cũng   có   nơi   chỉ   có   trên   500mm).   Lượng   bốc   hơi:   700   – 800mm. Nước ta nói chung thừa ẩm.   ­ Trong một năm có 2 mùa rõ rệt: mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 4 trùng hợp với mùa gió Đông Bắc thịnh hành và mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11 trùng hợp với mùa có gió mùa từ các biển ấm thổi vào theo hướng đông nam và tây nam. Câu  8: Trong lịch sử  phát triển lãnh thổ  Việt  Nam có nói đến các mảnh nền cổ. Vậy nền cổ là gì? Và ở nước ta có những mảng nền cổ nào? ĐÁP: Nền là một yếu tố  cấu trúc cơ  bản của vỏ  Trái Đất. Nền cổ  là một bộ  phận của lục địa trước kia được hình thành cách đây hang triệu năm. Các loại đá cấu tạo nên nền cổ đã bị biến chất rất mạnh, trở nên rắn chắc và không bị tác động uốn nếp lại vào những thời kì tạo núi sau này. Các hoạt động địa chất mạnh cũng chỉ có thể làm cho các nền cổ  bị  nứt vỡ thành từng mảng, có bộ  phận được nâng cao, có bộ phận bị  sụt xuống. Các bộ  phận được nâng cao thường trở  thành các cao nguyên rộng lớn, còn các bộ  phận sụt lún thường bị các lớp trầm tích dày phủ  lên, có khi dày tới 5000 – 8000m. Các lớp trầm tích này có thể bị uốn nếp trong các chu kì tạo núi trẻ hơn hoặc bị các khối mắc ma xâm nhập hoặc phún xuất tạo tạo núi lửa.   Trên lãnh thổ Namcó các mảng nền cổ (còn gọi là các địa khối) tương đối lớn là: mảng   nền   cổ   Vòm   Sông   Chảy   ở   phía   Bắc   và   mảng   nền   cổ   Kontum   ở phíaNamNgoài   ra,   còn   có   những   mảng   nền   cổ   nhỏ   hơn   lộ   ra   như   các   khối Phanxipăng, Sông Mã, Puhuat, Rào Cỏ. Mảng nền cổ  Kontum là bộ  phận phía đông của nền cổ Inđôxini bao gồm cả  vùng Hạ  Lào, miền Đông Thái Lan và lãnh thổ Campuchia. Câu  9: Trong lịch sử phát triển lãnh thổ, các núi non ở nước ta đã được hình thành trong những thời kì nào? ĐÁP: Trong lịch sử  phát triển của lớp vỏ  Trái Đất nói chung, và của cả  châu Á, các nhà địa chất học đã xác định được các thời kì xảy ra các vận động tạo núi lớn sau đây:   ­ Thời kì trước Đại Cổ Sinh cách đây hàng nghìn triệu năm đã có một vài lần xảy ra các vận động tạo núi.   ­ Trong Đại Cổ Sinh, cách đây từ 285 triệu năm đến 570 triệu năm đã có 2 thời kì vận động tạo núi lớn:   a) Vận động tạo núi Calêđôni cách đây trên 400 triệu năm.   b) Vận động tạo núi Hecxini cách đây khoảng 300 triệu năm.   ­ Trong Đại Trung Sinh cũng có 2 thời kì vận động tạo núi lớn:   a) Vận động tạo núi Inđôxini cách đây khoảng trên 200 triệu năm.   b) Vận động tạo núi Kimêri cách đây khoảng trên 150 triệu năm.   ­ Trong Đại Tân Sinh, vào kỉ Đệ Tam, cách đây từ 25 đến 67 triệu năm, có thời kì vận động tạo núi hết sức mãnh liệt. Đó là vận động tạo núi Himalaya – Anpi.   Các thời kì tạo núi lớn đó đều có ít nhiều  ảnh hưởng đến sự  hình thành địa hình trên lãnh thổ nước ta.   Trước hết, cách đây hang nghìn triệu năm, chắc chắn là trên lãnh thổ  nước ta đã có nhiều núi xuất hiện. Những núi đó dần dần đã bị phá huỷ, trở  thành các nền cổ mà một vài bộ phận còn sót lại cho đến ngày nay.   Trong vận động tạo núi Calêđôni ở đầu Đại Cổ Sinh, ở miền Bắc các khối nền cổ Vòm Sông Chảy, Phanxipăng và Sông Mã đã được nâng cao và mở rộng them. Ở phía Nam nền cổ  Inđôxini cũng bị  nứt vỡ  mạnh và nhiều bộ  phận đã bị  sụt lún xuống sâu.   Vận động tạo núi Hecxini xảy ra tương đối yếu  ở  miền Bắc, chắc chăn đã hình thành nên nhiều dãy núi uốn nếp đá vôi, nhưng các dãy núi này về  sau lại bị  các vận động tạo núi trong Đại Trung Sinh phát triển tiếp hoặc cải tạo lại. Ở miền Nam vận động tạo núi Hecxini lại khá mạnh, phần lớn các núi non ở phía bắc Đà Nẵng và ở Nam Trung Bộ đều xuất hiện trong thời kì này. Ngoài ra, suốt từ Trường Sơn Bắc trở xuống phía nam đều có hiện tượng xâm nhập hoặc phún xuất măcma.   Trong các vận động tạo núi Trung Sinh, ở miền Bắc hình thành các dãy núi đá vôi dọc song Đà, chạy dài suốt từ Sơn La đến Ninh Bình và các dãy núi cánh cung ở Đông  Bắc   đều  chụm  về   Tam   Đảo.  Nhiều   hiện   tượng  xâm  nhập  và  phún  xuất măcma cũng đã xảy ra. Trong Đại Trung Sinh, hầu hết lãnh thổ Việt Namđã có chế độ  lục địa. Cũng từ  đây, tác động bào mòn địa hình của các ngoại lực đã kéo dài khoảng 50 triệu năm, làm cho bề mặt lãnh thổ nước ta bị san bằng và núi non thấp đi rõ rệt.   Trong Đại Tân Sinh, do  ảnh hưởng của vận động tạo núi Himalaya xảy ra với nhiều đợt cách nhau, nên địa hình nước ta được trẻ  hoá lại.  Ở  phía bắc, lãnh thổ nước ta đã được cấu tạo vững chắc rtừ  cuối Đại Trung Sinh và gắn liền vào khối Hoa Nam, nên ảnh hưởng của vận động tạo núi Himalaya chỉ gây nên các nếp uốn ngầm, nâng cao  ở  nơi này, làm sụt lún, đứt gãy  ở  những nơi khác. Do vận động diễn ra thành nhiều đợt có thời gian, cách nhau khá xa, nên địa hình cũng được nâng lên thành nhiều bậc có độ cao khác nhau.   Một  ảnh hưởng quan trong nữa của vận động Himalaya là hoạt động mạnh mẽ của macma đã tạo nên những khu vực ba dan rải rác (như ở Điện Biên, Thanh Hoá, Phủ  Quỳ, Vĩnh Linh…). Đặc biệt, hiện tượng phún xuất xảy ra rất mạnh  ở  phía nam, đá ba dan trào ra đã phủ những diện tích rộng trnê các cao nguyên nam Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ. Câu  9: Địa máng là gì? Hoạt động của địa máng như thế nào? ĐÁP: Cũng giống như nền, địa máng là một yếu tố cấu trúc của vỏ Trái Đất. Đó là những bộ  phận trũng của vỏ  Trái Đất bị  nước biển phủ  ngập. Trải qua một thời gian rất dài, trong địa máng có trầm tích lắng đọng (chiều dày có thể  tới 10 – 15 km). Tiếp sau thời kì lắng đọng trầm tích là thời kì hoạt động của địa máng. Các lớp trầm tích được uốn nếp và nâng lên trong các vận động tạo núi.  Ở  vị  trí địa máng bị nước biển phủ ngập trước kia, nay có các dãy núi nổi lên. Độ cao của núi tuỳ  thuộc vào cường độ  nâng lên mạnh hay yếu. Như  vậy có thể  coi địa máng là nơi sinh ra các dãy núi uốn nếp, còn vật liệu trầm tích trong địa máng là nguyên liệu hình thành các loại đá cấu tạo nên các dãy núi.   Trong quá trình phát triển lâu dài của một lãnh thổ (qua các thời đại địa chất), sự kế  tiếp của các giai đoạn: lúc là địa máng, lúc trở  thành nền, rồi lại địa máng… thường xảy ra. Đó là các giai đoạn có chế độ: biển, rồi lục địa, rồi lại biển,…những thời kì biển xuất hiện thường được gọi là thời kì biển tiến, còn các thời kì lục địa xuất hiện là thời kì biển thoái. Ở nước ta, các địa máng cũng đã được hình thành và tồn tại trước khi có các vận động tạo núi xảy ra. Câu  10: Hiện tượng núi non, sông ngòi của nước ta trẻ lại được biểu hiện như thế nào? ĐÁP: Hiện tượng núi non, song ngòi của nước ta được trẻ lại biểu hiện ở chỗ: hình dạng của núi trở nên sắc sảo, độ  cao tăng them, các song ngòi có độ  dốc lớn hơn, nước chảy xiết hơn… Câu   11: Tại sao các dãy núi  ở  nước ta lại có hướng Tây Bắc – Đông  Nam và hướng vòng cung? ĐÁP: Các dãy núi của nước ta  ở  miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ  có hướng Tây Bắc – Đông Nam rõ rệt là vì các dãy núi này đã được hình thành trong đầu mút của địa máng cổ kéo dài từ phía Himalaya tới theo hướng Tây Bắc – Đông Nam .   Các núi có hướng vòng cung chủ yếu là được hình thành ở rìa phía đông của các mảng nền cổ, cho nên hình dạng của các mảng nền này cũng có tác dụng định hướng cho các nếp uốn hình thành nên chúng. Câu  12: Trong việc tạo nên địa hình, nội lực và ngoại lực mâu thuẩn nhưng thống nhất với nhau. Hiểu điều đó như thế nào cho đúng bản chất? ĐÁP: Nội lực là những lực có nguồn gốc từ sâu trong lòng Trái Đất, có vai trò chủ yếu là kiến tạo các đơn vị  cấu trúc  ở  trên bề  mặt Trái Đất như  nền, các mạch nùi uốn nếp, đoạn tầng, núi lửa v.v…   Ngoài lực là những lực tác động trên bề mặt Trái Đất, còn gọi là lực xâm thực hay tác nhân xâm thực, ví dụ sức gió, sức nước, nhiệt Mặt Trời, sóng biển v.v…Về bản chất, đây là hai lực trái ngược nhau và mâu thuẫn với nhau, vì một bên thì “xây”, còn một bên thì “phá”, nhưng chúng kết hợp với nhau một cách chặt chẽ trong việc tạo nên các dạng địa hình hiện nay trên bề  mặt Trái Đất. Nội lực vừa tạo nên các đơn vị cấu trúc thì đồng thời ngoại lực đã làm thay đổi hình dạng. Ví dụ  khối núi Ba Vì, nguyên là những lớp đá trầm tích được uốn lên thành một nếp, rồi các tác nhân xâm thực xói mòn những nơi mềm làm cho những nơi rắn nhô lên thành ba ngọn, hay “va vì” núi.   Những địa hình ta trông thấy trên mặt các lục địa đều hình thành như  thế, do tác động của hai lực: nội lực “xây dựng” và ngoại lực “xâm thực”. Đó cũng chính là quy luật chung của sự hình thành địa hình. Câu  13: Hình thái các đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ và đồng bằng duyên hải miền Trung có liên quan tới lịch sử phát triển của chúng như thế nào? ĐÁP: 1. Đồng bằng Bắc Bộ  là đồng bằng châu thổ, rộng 16000km2, được bồi đắp bởi phù sa của các hệ  thống sông Thái Bình và sông Hồng. Là một châu thổ  nên đồng bằng này có hình một tam giác đỉnh ở Việt Trì và thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, với độ cao giảm dần từ 10 – 15m xuống đến độ cao sát mặt biển. Điểm nổi bật của đồng bằng này là có các ô trũng, được ngăn cách bởi hệ thống đê nhân tạo làm cho quá trình bồi đắp chưa hoàn thành, nhiều nơi còn rất trũng. Ra đến biển là dãy đất cồn tạo nên do tác động của sóng gió. Cồn cát tập trung nhiều nhất ở quãng giữa sông Trà Lí và sông Hồng. Do bị giới hạn bởi hệ thống đê, nên phù sa sông Hồng được mang ra cửa sông là cho diện tích đồng bằng càng mở rộng về phía biển, tốc độ khoảng 80m/năm. 2. Đồng bằng Nam Bộ là danh từ gọi chung 2 khu vực Đông Nam Bộ và châu thổ Cửu Long mà ranh giới chạy ngang qua thành phố Hồ Chí Minh.   ­ Khu vực Đông Nam Bộ  xưa là một đồng bằng do phù sa sông bồi đắp lên trên đá gốc sa diệp thạch Trung sinh đại của sụt võng Nam Bộ. Trong kỉ Đệ tứ, khu vực phía đông của đồng bằng lại bị  lôi cuốn vào vận động nâng lên của khu vực núi cực Nam Trung Bộ lên tới độ cao 100m (độ cao của các quả đồi thấp ven suốt dải đồng bằng duyên hải Việt Nam), trong khi đó phần còn lại bị  sụt sâu xuống hình thành một vịnh biển, trong đó nổi lên một số  đảo nhỏ. Đồng thời các hoạt động phun trào ba dan xảy ra, dung nham ba dan phủ lên trên lớp phù sa cổ.   Châu thổ sông Cửu Long có một lịch sử rất trẻ. Cách đây 4500 năm biển vẫn lấn vào tận Đồng Tháp Mười và châu thổ  sông Cửu Long vẫn bị  ngập nước tới 4m. Khoảng 2000 năm sau, mặc dù khối lượng phù sa khổng lồ của sông Cửu Long bồi đắp rất nhanh, nhưng độ cao trung bình của châu thổ vẫn chỉ khoảng 2m trên mực nước biển. Trong khi đó cửa triều ở vùng cửa sông dâng cao tới 3 – 4m. Vì thế mà đỉnh   của   châu   thổ   tính   theo   phạm   vi   ảnh   hưởng   của   thuỷ   triều   lên   đến   tận PhnômPênh, cách biển 300km. Hiện nay, châu thổ sông Cửu Long vẫn tiếp tục mở rộng, nhưng do ảnh hưởng của hải lưu mà quá trình đó chỉ phát triển mạnh về phía tây nam (mũi Cà Mau) nhânh tới 60 – 80m/năm. Do lịch sử phát triển của châu thổ như vậy mà đất mặn, đất phèn, đất lầy chiếm một tỉ lệ diện tích đáng kể. Nước mặn có thể xâm nhập tới 1/3 diện tích châu rhổ.   Châu thổ sông Cửu Long hiện nay là một đồng bằng lớn, diện tích tới 40000km 2, thấp và rất bằng phẳng, độ dốc bình quân 1m/km. Sông không có đê nên hàng năm vào mùa lũ, nước sông vẫn tràn bờ  và làm ngập đến trên 1 triệu ha đất đai. Địa hình châu thổ  cao thấp không đều. Cao là các gờ  đất ven sông do phù sa bồi, có nhiều ở phía An Giang. Hai nơi trũng úng là Đồng Tháp Mười và Hà Tiên.   3. Đồng bằng duyên hải miền Trung là dải đồng bằng ven biển bị chia cắt thành từng khúc bởi các nhánh núi ăn lan ra sát biển, tạo thành các đồng bằng nhỏ  hẹp. Từ   bắc   vào   nam   có   các   đồng   bằng   Nghệ   An   (1750km2),   Hà   Tĩnh   (1660km2), Quảng Bình (640km2), Quảng Trị  (610km2), Thừa Thiên (900km2), Quảng Nam (1450km2),   Quảng   Ngãi   (1200km2),   Bình   Định   (1700km2),   Phú   Yên   (820km2), Khánh Hoà (400km2), Phan Rang (220km2) Và Phan Thiết (310km2).   Đặc điểm chung của các đồng bằng này là có độ  dốc nghiêng từ  tây sang đông. Đồng bằng rất hẹp ngang, đất phần lớn xấu.   Đây là loại đồng bằng mài mòn – bồi tụ. Lịch sử  phát triển của chúng có liên quan mật thiết với sự bào mòn chân núi do biển, sau đó được các vật liệu của sông và biển bồi tụ thành. Câu   14: Địa hình Kacxtơ   ở  Việt Nam có nhiều nét độc đáo khác với nhiều nơi trên thế  giới. Vậy những nét độc đáo đó là gì?  Ở  nước ta có những kiểu và miền Kacxtơ nào đáng chú ý? ĐÁP:   Từ “ Kacxtơ” vốn là một danh từ riêng, chỉ tên của một cao nguyên đá vôi ở dãy núi Anpơ  Đinaric (Nam Tư  cũ). Trong các từ  điển hiện nay Kaxctơ  được định nghĩa là quá trính tác động về  mặt hóa học và một phần về  mặt cơ  học của nước ngầm vào các loại đá dễ hòa tan như đá vôi Diện tịch Kaxctơ   ở  nước ta rộng 50.000 km2, chiếm 1/6 diện tích đất nước. Các miền Kaxctơ nước ta nằm trong phạm vi Kaxctơ nhiệt đới Đông Nam Á là nơi diện tích Kaxctơ rộng lớn nhất thế giới. Do điều kiện nhiệt đới ẩm, nên các quá trình phong hóa vật lý, hóa học, sinh học diễn ra mạnh mẽ, tạo nên nhiều dạng Kaxctơ  biểu hiện tính chất độc đáo của địa hình nước ta là địa hình Kaxctơ già. Có 2 dạng cơ bản:   1. Dạng do quá trình gặm mòn là chủ yếu tạo nên: các hố hút nước, giếng Kaxctơ, lũng Kaxctơ.   2. Dạng do hoạt động băng tụ chủ yếu tạo nên: các thạch nhũ trong hang động (vú đá, măng đá, rèm đá, cột đá…). Ở nước ta, nếu phân theo hướng hình thái phát sinh thì có 4 kiểu Kaxctơ chủ yếu: + Kaxctơ trụi : Kaxctơ lộ trực tiếp ra bề mặt đất. + Kaxctơ phủ : Kaxctơ trên bề mặt có phủ một lớp vật liều không hòa tan. + Kaxctơ  bị chôn vùi : quá trình Kaxctơ  đã ngừng hoạt động, trên bề  mặt đá Kaxctơ vẫn còn tồn tại các dạng địa hình Kaxctơ cổ sót lại. + Kaxctơ cổ: Kaxctơ được hình thành trong điều kiện địa lí khác với điều kiện địa lý hiện nay và chưa bị phá hủy do các quá trình ngoại lực. Các miền Kaxctơ ở nước ta gồm có: miền Kaxctơ  ở vùng trũng đông bắc (ở đây có các vùng Kaxctơ  Hạ  Long đẹp và nổi tiếng và Kaxctơ  Bắc Sơn có nhiều hang động lớn vào bậc nhất nước ta), miền Kaxctơ  khối nâng Việt Bắc (có hồ  Ba Bể), miền Kaxctơ ở vùng trũng sông Đà (vùng Kaxctơ Nho Quan ở Ninh Bình được coi như là một vịnh Hạ Long trên cạn); miền Kaxctơ  từ khối nâng sông Mã đến vùng trũng Cửu Long (có động Phong Nha – một hang Kaxctơ  trẻ  ­ một kì quan  ở Quảng Bình). Câu   15: Sách giáo khoa Địa lí 8 có nói: Vị  trí nước ta đã làm cho khí hậu có những nét độc đáo. Vậy giải thích như thế nào? Đáp: Vị trí nước ta có những đặc điểm sau đây nên đãi làm cho khí hậu có những nét độc đáo:   ­ Nước ta nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới.   ­ Nước ta nằm ở trung tâm khu vực gió mùa Đông Nam Á.   ­ Nước ta có lãnh thổ hẹp từ tây sang động và bài tới 15o vĩ độ từ bắc xuống nam.   ­ Nước ta nằm trên một bán đảo, tận cùng của lục địa Âu – Á rộng nhất thế giới.   ­  Nuớc ta giáp Thái  Bình Dương  ở  phía   đông và phía nam, chịu   ảnh hưởng thường xuyên của các trận bão nhiệt đới, sinh ra trong Thái Bình Dương. Câu  15: Tại sao nằm trong vòng đai nhiệt đới mà khác với nhiều lãnh thổ  khác, nước ta có một mùa đông giá rét. Điều đó có gì trái với quy luật không? ĐÁP: Nằm trong vòng đại nhiệt đới của nửa cầu Bắc, nước ta quanh năm nhận dược một lượng nhiệt dồi dào, nhiệt độ trung bình năm trên 23oC.Thế nhưng, nước ta lại nằm gọn trong khu vực gió mùa châu Á, quanh năm chịu tác động của khối khí chuyển động theo mùa. Về mùa đông, từ áp cao Xibia rộng lớn, gió thổi xuống theo hướng đông bắc – tây nam mang theo không khí lạnh đến nước ta, gây ra một mùa đông rét. Ở Hà Nội có 3 tháng nhiệt độ trung bình xuống dưới 18oC. Chính vị trí địa lí góp phần làm cho khí hậu nước ta có đặc tính nói trên. Điều đó không có gì trái với quy luật. Câu  16: Trong sách giáo khoa Địa lí có nêu: “Tổng số  nhiệt độ  trên 100C trong năm lên tới 80000C”. Điều đó có ý nghĩa gì? Tại sao lại trên 100C? ĐÁP: Khi nói đặc điểm khí hậu của một quốc gia, người ta thường nói tổng số nhiệt độ  trên 10oC là vì: về  mặt nông nghiệp, mỗi loại cây trồng trong quá trình sinh trưởng đòi hỏi phải được cung cấp một lượng nhiệt nhất định. Nếu không đạt được lượng nhiệt đó thì hoặc là cây không sống được, hoặc là năng suất sẽ  giảm. Lượng nhiệt đó được tính bằng tổng số nhiệt trên 10oC. Nhiệt độ  10oC là nhiệt độ tối thiểu để cây trồng có thể sống được. Tổng số nhiệt độ trên 10oC trong năm càng lớn thì điều đó càng chứng tỏ khả năng thuận lợi cho sự phát triển và cho năng suất cao của các loại cây trồng, không phải một vụ mà nhiều vụ trong năm. Câu  17: Tính chất phức tạp của khí hậu Việt Nam được thể hiện như thế nào? ĐÁP: Tính chất phức tạp bắt nguồn từ những biến động trái quy luật của khí hậu. Đó   là   sự   phân   hóa   của   khí   hậu   theo   mùa   khác   nhau   giữa   các   vùng   lãnh   thổ (Bắc,Trung, Nam ). Đó là những biến động thất thường của khí hậu trong năm hay từ năm này sang năm khác (hạn hán, úng lụt, sớm, muộn, dài, ngắn, đậm, nhạt….). Đó là những biệt lệ khí hậu như mùa đông lạnh có mưa phùn ở Bắc Bộ. Đó là các hiện tượng tiêu cực gay gắt  của khí hậu như bão, gió phơn Tây Nam .   Chính ở vào vị trí có sự đắp đổi luân phiên của các khối khí trên một lãnh thổ có hình dạng kéo dài trên gần 15o vĩ mà tính chất phức tạp của khí hậu được tăng cường. Câu  18: Hoạt động của bão  ở  nước ta như  thế  nào? Tại sao  ở  nước ta thời gian hoạt động của bão chậm dần từ Bắc vào Nam ? ĐÁP: Bão được hình thành trên dải hội tụ  nhiệt đới. Đó là một vùng áp thấp gần tròn với đường kính khoảng 200­300 km. Trong vùng bão, gió thổi xoáy rất mạnh gây nên dòng thăng mạnh mẽ, hình thành mây và mưa dữ  dội trong một phạm vi rộng lớn. Đặc biết tại vùng trung tâm, gọi là mắt bão có gió yếu hay lặng gió và trời quang mây tạnh Bão đổ  bộ  vào Việt Nam  thường xuất phát từ  tây Thái Bình Dương (10o – 20oB và 130o ­ 145oĐ) hoặc ngay  ở Biển Đông (7o ­ 20oB và 112o – 121oKĐ) vào thời kì mà nhiệt độ nước biển nóng trên 260 – 270C. Bão phát sinh trên dải hội tụ nhiệt đới (nội chí tuyến) và di chuyển từ đông sang tây. Mùa bão trên toàn quốc là từ tháng 7 đến tháng 11, cực đại vào tháng 9, gồm 85% tổng số bão. Tuy vậy cũng có những cơn bão đến sớm hay muộn hơn. Mùa bão và tần suất bão không đồng nhất từ bắc chí nam. Khu vực bị  đe doạ  nhiều nhất là từ  Móng Cái đến mũi Ba Làng An.  Ở miền Nam , bão ít hơn, nhiều năm hoàn toàn không có bão. Mùa bão có xu thế chậm dần từ  bắc xuống nam phù hợp với sự  di chuyển của dải hội tụ  nhiệt đới xuống các vĩ độ thấp vào tháng 10, 11. Câu  19: Bản chất của gió phơn Tây Nam khô nóng và hoạt động của loại gió này ở nước ta như thế nào? ĐÁP: Gió phơn Tây Nam (còn gọi là gió Lào) là loại gió thổi vào nước ta từ tháng 4 – 7 từ hướng tây nam tới, thịnh hành trong tháng 5­ 6. Phạm vi hoạt động mạnh nhất là ở miền trung.   Nguồn gốc của gió là sự  di chuyển của khối không khí nhiệt đới vịnh Bengan: nóng ẩm. Bản chất của gió này ban đầu là mang theo nhiều hơi nước ẩm  ướt. Khi vào nước ta đã vượt qua dãy Trường Sơn. Sau khi trút mưa  ở  sườn tây, vượt qua đỉnh, trườn xuống theo sườn đông thì nhiệt độ  tăng lên (10/100m), độ   ẩm giảm mạnh. Gió thổi đến đâu gây ra thời tiết khô nóng (thậm chí cực kì khô nóng) đến đó. Lúc đó gọi là thời tiết gió Lào, trời quang mây, oi bức, không mưa, nhiệt độ cao, có lúc đạt tới 39 – 400C, độ ẩm tương đối xuống đến 70 – 50%, thấp nhất có thể dưới 30%. Câu  20: Tại sao nói: “Sông ngòi là hàm số  của khí hậu trên một nền cảnh quan nhất định”. ĐÁP: Trong số  các nhân tố  địa lí tự  nhiên có tác động tới chế  độ  nước sông thì nhân tố khí hậu có tác dụng khá quyết định. Trong thực tế, điều đó được biểu hiện rất rõ: những nơi có lượng nước rơi lớn, dòng chảy sẽ phong phú, ngược lại, những nơi có lượng nước rơi nhỏ, dòng nước sẽ nghèo nàn. Chế độ nước rơi điều hoà thì thuỷ  chế  sông điều hoà. Khi mưa rất lớn thì nước sông lớn.  Ở  nước ta 2 mùa khí hậu trùng với hai mùa nước sông trong năm. Về mùa mưa nước sông dâng cao, về mùa khô dòng nước cạn kiệt, làm sông bé lại. Tương quan đó có thể biểu diễn bằng một hàm số như đã nói. Câu  21: Tại sao cũng trong khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa mà hệ thống sông Hồng hay gây ra lũ lụt, có chế độ nước thất thường, còn hệ thống sông Cửu Long lại điều hòa hơn. ĐÁP: Hệ thống sông Hồng gồm có hai sông lớn là sông Hồng và sông Đà đều bắt nguồn từ Trung Quốc. Khi chảy vào nước ta, phần lớn chiều dài các sông đều chảy qua vùng núi Tây Bắc, có núi non hiểm trở, độ dốc lớn, thảm thực vật đã bị tàn phá nhiều. Mặt khác, do lưu vực của hệ thống sông khá rộng, lượng nước cung cấp rất lớn về mùa mưa (60% lượng nước là của sông Đà). Nước ở phần thượng lưu được tập trung khá nhanh, dồn một lượng nước lớn về  hạ  lưu làm cho nước sông hay dâng cao đột ngột, nhiều lúc lên đến mức báo động số 3.   Sông Cửu Long bắt nguồn  ở  Tây Tạng trên độ  cao 5000m. Đây là một trong những con sông lớn của thế giới, chảy qua 5 nước với tên gọi là Mê Công. Chiều dài sông tổng cộng lên tới 4500 km, đoạn hạ lưu chảy vào nước ta gọi là Cửu Long dài 220 km. Tổng lượng nước của sông rất lớn, gấp 5 lần sông Hồng, nhưng lòng sông lại rộng, sông đổ  ra biển bằng 9 cửa, nên lượng nước thoát nhanh. Đặc biệt đoạn này chảy qua Phnôm Pênh (Campuchia) sông Mê Công được nối với Biển Hồ bằng sông Tônlêsáp. Biển Hồ  có tác dụng rất lớn trong việc điều tiết chế độ  nước sông, đặc biệt là phần từ  đó chảy ra biển qua Việt Nam (tức là sông Cửu Long). Mùa nước lớn, Biển Hồ  nhận nước vào làm giảm mực nước sông. Về  mùa khô, nước lại từ Biển Hồ theo dòng Tônlêsáp chảy vào Cửu Long. 22: Thế nào gọi là “đất ngoài đê” và “đất trong đê”. ĐÁP: Đây là cách nói thông thường của nhân dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi có hệ thống đê rất quy mô và từ lâu đời, nhằm chỉ đơn thuần vị trí của đất so với chỗ cư trú của con người.   Ở  hai bên bờ  các sông Hồng, sông Đáy, sông Đuống, sông Thái Bình…có hệ thống đê ngăn lũ. Về mùa khô, mực nước hạ thấp, phần bãi bồi và thềm sông lộ ra, nhân dân sử dụng đất đó để canh tác, trồng cc1 loại rau màu vụ đông. Còn về mùa mưa, nước sông dâng cao, vùng đó ngập nước. Gọi là đất trong đê và đất ngoài đê là nhằm phân biệt hai loại đất: được bảo vệ ở bên trong và không được đê bảo vệ ở bên ngoài. 23: Đất phèn là đất gì? Đặc tính của nó ra sao? ĐÁP: Đất phèn còn gọi là đất chua mặn là loại đất được hình thành  ở  các vùng châu thổ trong quá trình lấn dần ra biển. Đặc điểm của loại đất này là vừa chua vừa mặn. độ chua khá lớn (pH: 3 – 4,5) chủ yếu do phèn nhôm (sunphát nhôm) và phèn sắt (sunphát sắt) sinh ra. Còn mặn là do các clorua như NaCL.   Đất phèn chủ  yếu được hình thành  ở  những vùng biển trước đây có rừng ngập mặn phát triển. Xác các cây đước, sú, vẹt, tràm.v.v…có chứa một lượng lưu huỳnh rất lớn. Khi bị vùi xuống sâu và phân huỷ ở môi trường yếm khí (ngập nước), lưu huỳnh tạo thành các sunphua. Khi gặp không khí, chúng lại bị  ôxi hoá thành axit sunphuric và các sunphát nhôm, sắt…Đất phèn có độ độc hại lớn đối với cây trồng, vì vậy để  sử  dụng được loại đất này cần phải có các biện pháp cải tạo. Trước hết phải có các công trình thuỷ  lợi đưa nước ngọt về  để: “thau chua rửa mặn”, làm giảm nồng độ phèn và muối trong đất, sau đó phải bón vôi để giảm độ chua rồi mới trồng dần các loại cây có khả năng chịu phèn cao như: sắn, mía, dứa v.v…   Ở nước ta, đất phèn phân bố ở nhiều nơi, chủ yếu là ở đồng bằng sông Cửu Long. Ở đồng bằng Bắc Bộ đất phèn tập trung ở dải đất ven biển từ hải phòng đến Quảng Ninh. Câu  24: Những đặc điểm của đất feralit. Trong các loại đất feralit  ở nước ta, đất nào có giá trị kinh tế cao nhất, đặc điểm của nó và sự phân bố? ĐÁP: Đất feralít bao gồm nhiều loại khác nhau: feralít vàng đỏ  miền rừng, feralít đỏ sẫm, feralít nâu xám, feralít mùn trên núi cao…Đặc tính chung của chúng là có lượng khoáng nguyên sinh thấp, lượng các hiđrôxit sắt, nhôm, titan cao, cấu tượng bền, độ  mùn đáng kể. Trong số  đó, loại đất tốt nhất là feralít đỏ  sẫm do các sản phẩm phong hoá của đá ba dan và đá vôi tạo thành.   Đất hình thành trên đá ba dan ở nước ta có khoảng 2 triệu ha, chủ yếu phân bố ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Quảng Trị, Phủ Quỳ. Đặc điểm của loại đất này là có tầng đất dày, có thể  đến vài chục mét, thành phân cơ  giới phần nhiều nặng. Loại đất này rất thích hợp cho các loạicây công nghiệp nhiệt đới quý như cao su, cà phê, chè, hồ tiêu…   Đất đỏ đá vôi có màu nâu đỏ và vàng tập trung chủ yếu ở Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, trên những diện tích rộng. Đây cũng là loại đất tốt có cấu tượng bền và tơi xốp, dễ thấm nước, thoáng khí. Đất này thích hợp cho việc trồng nhiều loại cây, từ lúa, ngô, đỗ, lạc cho đến bông, gai, thuốc lá… Câu  25: Tại sao nói đất đai không phải là tài nguyên vô tận. Đất đai nước ta có những mặt thuận lợi và khó khăn nào? ĐÁP: Tài nguyên vô tận là loại tài nguyên không khi nào khai thác hết được, ví dụ: năng lượng Mặt Trời, không khí,…Diện tích đất nổi trên bề  mặt Trái Đất là một con số hữu hạn 148.825.000 km2, con người không thể khai thác một cách vô hạn được. Mặt khác, quá trình hình thành đất kể từ  khi phong hoá đá đến khi con người sử dụng vào canh tác phải trải qua một thời gian hết sức dài. Do vậy, khi đất đai bị  thoái hoá thì sẽ  mất rất nhiều thời gian, tiền của mới có thể  phục hồi lại được. Chính điều đó xác định đất đai không phải là loại tài nguyên vô tận mà thuộc loại tài nguyên có thể phục hồi lại được.   Ở  nước ta hiện nay, đất sử  dụng cho nông nghiệp khoảng trên dưới 7 triệu ha, nhìn chung có các thuận lợi cơ bản:   ­ Diện tích đất có thể  khai hoang để  mở  rộng diện tích còn tập trung  ở  gò đồi, vùng núi và ven biển.   ­ Có nhiều loại đất khác nhau cho phép phát triển một hệ  cây trồng đa dạng, phong phú.   ­ Có đất tốt với diện tích đáng kể  để  tăng năng suất cây trồng, như  đất phù sa thường xuyên được bồi đắp, đất đỏ ba dan, đất đỏ đá vôi…   Bên cạnh đó khó khăn cũng còn nhiều:   ­ Còn nhiều diện tích đất xấu (đầm lầy, phèn, chua mặn, bạc màu…) phải cải tạo tốn kém.   ­ Diện tích đất canh tác bình quân trên đầu người quá nhỏ (0,3 ha/người. Riêng ở đồng bằng Bắc Bộ 0,1 ha/người).   ­ Trong điều kiện nắng lắm, mưa nhiều, tập trung theo mùa, quá trình xói mòn, rửa trôi và bạc màu diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi phải thực hiện nhiều biện pháp bảo vệ đất. Câu  26: Thế nào là thực vật bản địa, thực vật di cư, thực vật nhập nội? Cho ví dụ. ĐÁP: Thực vật bản địa là những loài thực vật phát sinh và phát triển ngay trong điều kiện khí hậu, đất đai,…tại chỗ  trên lãnh thổ  nước ta. Ví dụ: cây lúa nước. Theo nhiều kết quả điều tra nghiên cứu, ở nước ta có 250 loài thực vật bản địa.   ­ Thực vật di cư  là những loài thực vật mà trong quá trình biến đổi của khí hậu Trái Đất, hay trong những lần băng hà tràn xuống rồi rút lui, chúng đến theo và nằm lại. Ví dụ: cây thông pơ mu, sa mu, cây hồi…Những loài thực vật này thường ở những nơi có khí hậu thích hợp, có thể gần tương tự như nơi phát sinh của chúng. Ví dụ: cây thông thường mọc ở nơi khí hậu có tính ôn đới hay cận nhiệt.   ­ Nếu như hai loại trên chủ yếu là các loài thực vật tự nhiên, thì thực vật nhập nội lại nằng về các loại cây trồng. Thực vật nhập nội  ở nước ta có rất nhiều, góp phần làm phong phú hệ thực vật nước ta. Ngô, khoai lang, sắn, lạc, khoai tây, cà chua, bí đỏ, đậu và các cây ăn quả như na, dứa, đu đủ, vú sữa, hồng xiêm; cây công nghiệp như thuốc lá, cao su, có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Trung Nam Mĩ. Thầu dầu, cà phê, dưa hấu thì gốc từ  vùng nhiệt đới châu Phi. Một số  loài có nguồn gốc từ   Ấn Độ  như: xoài, me, đay, bông, cà, mướp, dưa chuột. Từ  vùng cận nhiệt đới và ôn đới Trung Quốc đến nước ta có nhiều cây ăn quả như cam, quýt, vải, hồng; cây làm thuốc như xuyên khung, sinh địa, một số hoa cảnh như cúc, trà v.v…   Kể cả thực vật nhập nội thì hệ thực vật của nước ta có đến 700 – 800 loài. Câu  27: Nước ta ở trong vòng đai nhiệt đới. Tại sao có rừng cận nhiệt và rừng ôn đới? ĐÁP: Tính chất cận nhiệt và ôn đới (kể cả thực vậtrừng lẫn khí hậu) bắt nguồn từ sự phân hoá theo đai cao. Càng lên cao, các yếu tố địa lí tự nhiên như nhiệt độ, áp
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan