Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam...

Tài liệu Căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam

.PDF
107
364
65

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ MAI PHƢƠNG CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CHUNG CỦA VỢ CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Ngành : Luật Học Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. HÀ THỊ MAI HIÊN HÀ NỘI - NĂM 2008 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 7 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 12 Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về căn cứ 12 xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng 1.1. Khái niệm, đặc điểm vai trò sở hữu chung của vợ chồng 12 1.2. Vấn đề xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu chung 17 của vợ chồng 1.2.1. Các căn cứ xác lập quyền sở hữu theo quy định 17 chung của luật dân sự 1.2.2. Sự tồn tại của quan hệ hôn nhân hợp pháp 18 1.2.3. Các căn cứ xác định các tài sản chung của vợ chồng 22 1.3. Khái quát sự phát triển của pháp luật về căn cứ xác 25 lập quyền sở hữu chung của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ 1.3.1. Trong cổ luật Việt Nam 25 1.3.2. Thời kỳ Pháp thuộc 26 1.3.3. Thời kỳ từ 1945 đến nay 28 Chƣơng 2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện 35 hành về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng và thực tiễn áp dụng 2.1. Quy định hiện hành 35 2.1.1. Các căn cứ xác lập quyền sở hữu theo quy định 36 chung của luật dân sự 2.1.2. Sự tồn tại của quan hệ hôn nhân hợp pháp 3 37 2.1.3. Các căn cứ xác định các tài sản chung của vợ chồng 52 2.2. Thực tiễn áp dụng 64 2.2.1. Những thuận lợi cơ bản trong việc áp dụng 64 2.2.2. Một số vƣớng mắc 67 Chƣơng 3. Những phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn 79 thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện và nâng cao hiệu quả 79 áp dụng pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng 3.2. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao 81 hiệu quả áp dụng pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật 82 3.2.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng 96 KẾT LUẬN 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104 4 CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ Luật Dân sự HNGĐ : Hôn nhân và gia đình SH : Sở hữu VC : Vợ chồng 5 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài: Hôn nhân là một hiện tƣợng phổ biến trong xã hội. Việc kết hôn giữa hai cá thể nam và nữ không chỉ là sự kết hợp thuần túy giữa hai bên mà còn tạo nên gia đình với các chức năng xã hội của nó. Để thực hiện các chức năng này, gia đình buộc phải có những tài sản đƣợc sử dụng chung. Từ đó khái niệm về quyền sở hữu chung của vợ chồng đƣợc hình thành và phát triển và đƣợc quyết định bởi chính quan điểm xã hội về các chức năng xã hội của gia đình. Tuy nhiên, do sở hữu chung của vợ chồng về bản chất là sở hữu của các thể nhân, vì vậy sở hữu chung của vợ chồng bên cạnh việc phản ánh và đƣợc quyết định bởi quan điểm xã hội về chức năng của gia đình còn phản ánh và đƣợc quyết định bởi quan điểm xã hội về quyền tự do cá nhân, quyền tự do dân sự và quyền sở hữu của cá nhân. Trong khi đó quyền tự do cá nhân và quan điểm về các chức năng xã hội của gia đình với mục tiêu phát triển và ổn định xã hội là hai vấn đề đang ngày càng thu hút sự quan tâm của xã hội và ngày càng trở nên bức thiết. Chính vì vậy, việc xác định các vấn đề liên quan đến sở hữu chung của vợ chồng cũng nhƣ các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng là một vấn đề cần đƣợc chú ý và đang ngày càng trở nên quan trọng trong đời sống xã hội. Hiện nay, theo quy định của nƣớc ta, các căn cứ cơ bản để xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng trƣớc hết là các căn cứ xác lập quyền sở hữu nói chung theo quy định của pháp luật và sự tồn tại quan hệ vợ chồng. Bên cạnh đó, theo Điều 27, 29 và 30 của Luật HNGĐ năm 2000, sở hữu chung của vợ chồng có thể đƣợc xác lập trên cơ sở quy định của pháp luật hoặc có thể do sự thỏa thuận của vợ chồng. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa các căn cứ này vẫn chƣa đƣợc thể hiện rõ trong luật làm phát sinh nhiều trƣờng hợp không thể xác định đƣợc nhƣ trƣờng hợp vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung trog thời kỳ hôn nhân và sử dụng tài sản này để đầu tƣ 6 sản xuất, kinh doanh. Khi đó lợi nhuận thu đƣợc từ hoạt động này nên đƣợc coi là thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân và là tài sản chung của vợ chồng hay sẽ là lợi tức thu đƣợc từ tài sản riêng theo Điều 30 của Luật và là tài sản riêng của vợ, chồng vẫn đang là vấn đề chƣa ngã ngũ. Bên cạnh đó, mặc dù pháp luật đã quy định khá đầy đủ về các căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng nhƣng với thời gian và thực tế sinh động của xã hội, nhiều trƣờng hợp vẫn chƣa đƣợc pháp luật dự liệu hết hoặc đã quy định nhƣng chƣa rõ ràng nhƣ việc xác định quan hệ vợ chồng trong trƣờng hợp một bên bị toà án tuyên là đã chết mà trở về, vấn đề về việc thay đổi giới tính, việc mua bán, trao đổi tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân…. dẫn đến những lúng túng khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình áp dụng. Thêm vào đó, quan niệm phong kiến cổ xƣa về việc ngƣời phụ nữ khi đi lấy chồng thì theo chồng, thuộc về ngƣời chồng “xuất giá tòng phu” và quan niệm coi trọng vấn đề tình cảm, tinh thần của ngƣời Á đông nên thƣờng không có sự rạch ròi trong quan hệ tài sản của vợ chồng. Chính vì vậy, khi ly hôn, việc xác định, phân chia tài sản thƣờng gặp nhiều khó khăn, dẫn đến các tranh chấp xảy ra. Để có luận cứ khoa học cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật, tăng cƣờng hiệu quả pháp luật về xác định các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng, đồng thời giúp các nhà lập pháp có cơ sở để giải quyết trong những trƣờng hợp pháp luật chƣa kịp dự liệu hoặc dự liệu chƣa cụ thể, em lựa chọn đề tài này làm luận văn cao học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay, chƣa có một công trình nghiên cứu nào, nghiên cứu riêng và sâu về vấn đề này. Một số công trình nghiên cứu có nghiên cứu về một số vấn đề liên quan nhƣ chế độ tài sản chung của vợ chồng… Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này, một số đƣợc thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp luật cũ nhƣ “Một số vấn đề về pháp luật dân sự việt Nam từ thế kỷ 7 XV đến thời kỳ Pháp thuộc” của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tƣ pháp hay “Chế độ hôn sản và thừa kế trong Luật dân sự Việt nam” của Nguyễn Mạnh Bách hoặc chỉ đƣa ra những nhận định chung hoặc giải thích các quy định của pháp luật. Đề tài nghiên cứu “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành” của Nguyễn Văn Cừ, tuy có đề cập đến vấn đề này nhƣng dƣới góc độ là một chế định liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng và chỉ dƣới góc độ xem xét tính phù hợp của quy định này trên cơ sở tìm hiểu về chế độ tài sản của vợ chồng mà chƣa đi vào tìm hiểu kỹ về bản chất, mục đích của quyền sở hữu chung của vợ chồng cũng nhƣ các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng. Thêm vào đó, Luận án đƣợc phân tích trên cơ sở BLDS năm 1999. Sự ra đời của BLDS năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 và những vấn đề mới phát sinh nhƣ thay đổi giới tính, hôn nhân đồng tính v.v... đã làm nảy sinh nhiều vấn đề mới chƣa đƣợc đề cập tại Luận án. Căn cứ xác lập quyền sở hữu của vợ chồng cũng đƣợc nhắc đến trong các sách giáo khoa, giáo trình giảng dạy tại các trƣờng đại học, tuy nhiên các tác phẩm này chỉ dừng lại ở việc giới thiệu sơ lƣợc và giải thích các quy định của pháp luật, đặc biệt đi sâu vào phân tích các căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng chứ không phân tích tổng thể các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng. Hiện nay cũng chƣa có một sách tham khảo nào đề cập cụ thể, nghiên cứu về bản chất của vấn đề này. Đề tài “Căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam hiện hành” mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu các quy định hiện hành về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng trên cơ sở nghiên cứu bản chất của sở hữu của vợ chồng để từ đó đƣa ra một số phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục đích của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu các quy 8 định của luật thực định về các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng, tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định này; từ đó đƣa ra một số phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng. Với mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu các đặc điểm, yếu tố quyết định đối với quyền sở hữu chung của vợ chồng để từ đó tìm hiểu việc xác định các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng. - Nghiên cứu các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng ở hệ thống pháp luật của một số nƣớc trên thế giới cũng nhƣ quá trình phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam về các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng. - Nghiên cứu các quy định hiện hành của Việt Nam về các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng và thực tiễn áp dụng các quy định này để đƣa ra đƣa ra một số phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng.. Do điều kiện hạn chế, đề tài chủ yếu đƣợc tập trung trong phạm vi luật thực định. 4. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu: Đề tài lấy các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác Lê nin làm trung tâm, cơ sở nền tảng. Các nguyên lý này bao gồm: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời giữa chúng có mối liên hệ biện chứng; Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thƣợng tầng xã hội, đƣợc hình thành từ một cơ sở hạ tầng phù hợp; pháp luật đƣợc coi là tấm gƣơng phản chiếu xã hội còn về phần mình, xã hội đƣợc coi là cơ sở thực tiễn của pháp luật. Về lý thuyết và thực tiễn cho thấy, các quy định của pháp luật phù hợp với 9 sự phát triển của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội thì mới có tính khả thi trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật; từ đó tạo cơ sở cho xã hội ổn định và phát triển. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phƣơng pháp sau: - Phƣơng pháp lịch sử đƣợc sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu về các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng qua các thời kỳ - Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp đƣợc sử dụng khi phân tích về các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng. - Phƣơng pháp so sánh đƣợc thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng với hệ thống pháp luật trƣớc đó cũng nhƣ hệ thống pháp luật của một số nƣớc. - Phƣơng pháp thống kê, khảo sát thực tiễn đƣợc áp dụng khi xem xét thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật trong lĩnh vực này. 5. Cơ cấu, cấu trúc luận văn Luận văn đƣợc chia thành 3 phần chính bao gồm: Mở đầu Kết quả nghiên cứu Chƣơng I. Những vấn đề lý luận về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng Chƣơng II. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng và thực tiễn áp dụng Chƣơng III. Những phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng Kết luận 10 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CHUNG CỦA VỢ CHỒNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò sở hữu chung của vợ chồng Quan hệ sở hữu chung của vợ chồng là quan hệ xã hội khách quan. Khi có quan hệ hôn nhân, quan hệ vợ chồng thì cuộc sống chung của họ sẽ tạo ra những giá trị chung về vật chất và tinh thần và sở hữu tài sản chung khi đó là cơ sở vật chất cho đời sống chung của hai ngƣời, là điều kiện để họ thực hiện các chức năng xã hội của gia đình nhƣ sinh đẻ, giáo dục nuôi dƣỡng, thoả mãn những nhu cầu chung cũng nhƣ của cá nhân họ. Trong xã hội có nhà nƣớc và pháp luật, khi sở hữu là đối tƣợng lập pháp thì sở hữu cá nhân, sở hữu gia đình, sở hữu vợ chồng cũng là một đối tƣợng lập pháp quan trọng. Có thể nói, xã hội nào có hôn nhân, vợ chồng thì cũng đều tồn tại sở hữu chung của vợ chồng. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của mỗi giai đoạn phát triển, sự điều chỉnh pháp luật về sở hữu chung của vợ chồng có những đặc trƣng riêng. Ví dụ: có thời kỳ luật pháp chỉ thừa nhận quyền sở hữu của vợ, chồng, không có sở hữu tài sản, có thời kỳ vợ chồng đều có quyền sở hữu tài sản, và tài sản chung có thể xác lập theo pháp luật hoặc theo thỏa thuận…. Tuy nhiên, về bản chất, sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu của các thể nhân, chứ không phải là sở hữu của một pháp nhân. Do đó, sở hữu chung của vợ chồng trƣớc hết phản ánh tƣ tƣởng, quan điểm của các nhà làm luật cũng nhƣ xã hội về quyền sở hữu của cá nhân cũng nhƣ quyền tự do dân sự của các cá nhân thông qua việc ghi nhận và thể hiện sự tự thỏa thuận của các bên chủ thể. Đây là một trong những quyền cơ bản của công dân hiện đã đƣợc cộng đồng quốc tế công nhận tại nhiều văn kiện quốc tế. Điều 17, Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế đã khẳng định “Mọi ngƣời đều có quyền sở hữu tài sản một mình hoặc sở hữu tài sản cùng với những 11 ngƣời khác”. Hiện nay, pháp luật các nƣớc trên thế giới cũng đều công nhận và bảo hộ quyền sở hữu của cá nhân trong các văn bản pháp luật của nƣớc mình. Ở Việt Nam, Điều 58 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định “Công dân có quyền sở hữu…. Nhà nƣớc bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân” [6]. Cụ thể hóa sự ghi nhận này, Điều 169 BLDS năm 2005 cũng khẳng định “Quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác đƣợc pháp luật công nhận và bảo vệ. Không ai có thể bị hạn chế, bị tƣớc đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối với tài sản của mình. Chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ ngƣời nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình, truy tìm, đòi lại tài sản bị ngƣời khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật” [10] Tùy từng thời điểm lịch sử và đặc điểm xã hội của từng nƣớc, quan điểm về quyền tự do cá nhân trong sở hữu lại đƣợc ghi nhận rộng hay hẹp khác nhau và đƣợc phản ánh một cách rõ nét trong sở hữu chung của vợ chồng thông qua mức độ công nhận quyền tự do thỏa thuận của các chủ thể trong sở hữu chung của vợ chồng. Sự phản ánh này đƣợc thể hiện cơ bản qua ba khía cạnh lớn là sự ghi nhận của pháp luật về sự thoả thuận của các bên trong việc thiết lập, tạo dựng quan hệ sở hữu chung của vợ chồng cũng nhƣ trong việc xác định các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng và thoả thuận của các bên trong việc thực hiện quyền sở hữu chung của vợ chồng. Trong việc thiết lập, tạo dựng quan hệ sở hữu chung của vợ chồng, nếu nhƣ trƣớc kia, với quan điểm và sự ghi nhận rất hạn chế của xã hội về quyền tự do cá nhân trong sở hữu cũng nhƣ quyền tự do dân sự cuả cá nhân, sự thoả thuận, thống nhất ý chí của hai bên chủ thể đã đƣợc ghi nhận rất hạn chế trong sở hữu chung của vợ chồng. Ví dụ dƣới thời kỳ phong kiến, quyền tự do cá nhân ít khi đƣợc nhắc đến nên sự thỏa thuận của các bên trong việc tạo lập quan hệ hôn nhân mà trên đó sở hữu chung của vợ chồng đƣợc thiết lập cũng không hề đƣợc quan tâm, chú ý đến. Mà yếu tố 12 tiên quyết lại chính là sự quyết định của hai bên dòng họ, gia đình. Đến ngày nay, với sự ghi nhận và bảo đảm rất cao của quyền tự do cá nhân, sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên chủ thể trong việc tạo lập quan hệ hôn nhân hay quan hệ sở hữu chung của vợ chồng đƣợc coi là một yếu tố quyết định. Chính hai bên chủ thể chứ không phải ai khác là ngƣời trƣớc tiên tự quyết định có xác lập quan hệ hôn nhân với nhau hay không. Không ai có thể ép buộc hoặc dùng bất cứ một biện pháp nào, hình thức nào để bắt buộc hai bên xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp mà không có sự đồng ý của các chủ thể đó. Tƣơng tự nhƣ vậy, quan điểm về quyền tự do cá nhân cũng đƣợc phản ánh rất rõ nét qua sự công nhận thỏa thuận của hai bên vợ chồng trong việc xác định tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng cũng nhƣ việc thực hiện quyền sở hữu chung của vợ chồng. Ngày nay, pháp luật của hầu hết các nƣớc trên thế giới cũng nhƣ Việt Nam đều cho phép các chủ thể về cơ bản có thể tự do thỏa thuận, bàn bạc và ủy quyền cho nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung hay nói cách khác là các bên có thể thỏa thuận về việc thực hiện quyền sở hữu chung của vợ chồng. Đồng thời, các bên cũng có thể thỏa thuận về tài sản chung của vợ chồng. Ví dụ Điều 1469 BLDS và Thƣơng Mại Thái Lan quy định “Khi vợ chồng không có sự thỏa thuận đặc biệt của họ về tài sản trƣớc khi kết hôn thì quan hệ tài sản giữa họ sẽ đƣợc điều chỉnh bởi những quy định của chƣơng này” [13] Nhƣ vậy, pháp luật sẽ chỉ can thiệp và chỉ quy định khi hai bên không có thỏa thuận về tài sản trƣớc khi kết hôn, nói cách khác sự tự thoả thuận của các bên về tài sản đƣợc coi là nền tảng, cơ sở đầu tiên trong việc xác định các tài sản chung của vợ chồng. Tóm lại, sở hữu chung của vợ chồng trƣớc hết luôn phản ánh tƣ tƣởng, quan điểm của xã hội về quyền tự do cá nhân trong sở hữu cũng nhƣ quyền tự do dân sự của cá nhân trong từng thời kỳ lịch sử và từng đặc điểm xã hội khác nhau. 13 Bên cạnh đó, sở hữu chung của vợ chồng còn luôn gắn liền với sự xuất hiện của hôn nhân và gia đình, phục vụ các chức năng của gia đình. Trong khi đó chức năng của gia đình không chỉ bó gọn trong hai chủ thể thiết lập quan hệ vợ chồng đó mà còn có ảnh hƣởng lớn đến toàn xã hội. Gia đình với các chức năng xã hội của nó nhƣ thỏa mãn những lợi ích, nhu cầu của vợ chồng, chức năng sinh sản, nuôi dƣỡng giáo dục trẻ em, chức năng kinh tế, văn hóa, xã hội ….. đã không còn là vấn đề của hai bên chủ thể xác lập quan hệ hôn nhân mà đã trở thành một vấn đề của cả xã hội, ảnh hƣởng tới toàn xã hội từ đó, gia đình đƣợc coi là một tế bào của xã hội là nền tảng của xã hội. Chính vì vậy, sở hữu chung của vợ chồng không chỉ phản ánh quan điểm, tƣ tƣởng của xã hội về quyền tự do cá nhân, quyền tự do dân sự mà còn phản ánh quan điểm xã hội trong việc bảo đảm và duy trì sự ổn định, phát triển của xã hội thông qua quan điểm của xã hội về chức năng của gia đình. Điều này đƣợc thể hiện trƣớc hết qua việc pháp luật quy định về các điều kiện để xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp mà trên đó sở hữu chung của vợ chồng đƣợc tạo lập. Kể cả trong trƣờng hợp sự thỏa thuận, ý chí tạo dựng quan hệ hôn nhân hợp pháp của các bên đƣợc coi là yếu tố tiên quyết thì pháp luật vẫn có những quy định về các điều kiện để xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp mà các bên chủ thể phải tuân theo. Các điều kiện này, tùy từng thời điểm lịch sử, đặc điểm xã hội của mỗi nƣớc lại đƣợc quy định khác nhau và luôn phản ánh quan điểm của xã hội về chức năng của gia đình nhằm bảo vệ trật tự, sự ổn định và phát triển của chính xã hội đó. Ví dụ, ở thời kỳ phong kiến, việc kết hôn với việc tạo lập nên gia đình đƣợc coi là để duy trì nòi giống, phát triển giòng họ nên sự đồng ý, xác nhận của hai bên giòng họ đƣợc coi là những điều kiện tiên quyết để công nhận mối quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa hai bên chủ thể. Ngoài ra, pháp luật ở thời kỳ nào cũng yêu cầu việc xác lập quan hệ hôn nhân để từ đó xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng phải đƣợc tiến hành theo những hình thức nhất định và phải đƣợc pháp luật quy 14 định. Nhƣ vậy, với các quy định về điều kiện kết hôn, điều kiện công nhận hôn nhân hợp pháp để từ đó tạo lập nên sở hữu chung của vợ chồng, pháp luật qua đó đã định hƣớng và góp phần để sở hữu chung của vợ chồng phản ánh quan điểm về ổn định và phát triển xã hội. Quan điểm của xã hội về chức năng của gia đình, về bảo vệ trật tự và phát triển của xã hội cũng đƣợc thể hiện trong quy định của pháp luật về việc thực hiện quyền sở hữu chung của vợ chồng và quy định của pháp luật về việc tài sản nào sẽ là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Để đảm bảo lợi ích của các bên chủ thể, ổn định trật tự và phát triển xã hội, pháp luật mặc dù cho phép các bên chủ thể có thể cùng nhau thỏa thuận về việc thực hiện quyền sở hữu chung cũng nhƣ thỏa thuận xác định các tài sản chung của vợ chồng, nhƣng sự thỏa thuận này luôn phải tuân theo những hình thức nhất định và phải đƣợc pháp luật công nhận. Ví dụ, pháp luật của các nƣớc tƣ bản cho phép hai bên có thể thuận thuận xác định các tài sản chung nhƣng sự thỏa thuận này phải đƣợc tiến hành trƣớc khi kết hôn và phải đƣợc lập thành văn bản với sự ghi nhận của các cơ quan có thẩm quyền, nếu không sự thỏa thuận này sẽ bị coi là vô hiệu. Thậm chí, trong nhiều trƣờng hợp, sở hữu chung của vợ chồng còn đƣợc quy định rõ ràng, không phụ thuộc vào ý chí, sự thỏa thuận của các bên nhƣ trƣờng hợp quy định về chế độ cộng đồng toàn sản pháp định. Tức là sau khi kết hôn, toàn bộ tài sản của hai bên vợ chồng dù có trƣớc hay sau hôn nhân đều thuộc tài sản chung của vợ chồng. Quy định này phản ánh quan điểm của xã hội về hôn nhân là một sự kết hợp hoàn toàn của hai bên, mang tính lâu dài, bền vững, không thể dễ dàng bị phá hủy. Nhƣ vậy, có thể thấy sở hữu chung của vợ chồng luôn phản ánh quan điểm, sự ghi nhận của xã hội về quyền tự do cá nhân cũng nhƣ quyền tự do dân sự của cá nhân đồng thời luôn phản ánh quan điểm xã hội về chức năng của gia đình, về sự ổn định, phát triển xã hội. Với đặc điểm này, sở hữu chung của vợ chồng đang ngày càng trở thành một vấn đề quan trọng trong đời sống 15 xã hội vì nó không chỉ liên quan tới việc bảo đảm quyền tự do cá nhân, bảo đảm quyền và lợi ích của chính các chủ thể mà còn liên quan tới sự ổn định gia đình, phát triển của xã hội – hai vấn đề đang ngày càng đƣợc xã hội quan tâm hơn. Vì vậy, các quy định về sở hữu chung của vợ chồng đang ngày càng có vai trò, vị trí hết sức to lớn. Do điều kiện có hạn, dƣới đây chỉ đề cập đến vấn đề về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng. 1.2. Vấn đề xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng Sở hữu chung của vợ chồng phản ánh và đƣợc quyết định bởi quan điểm xã hội về quyền tự do cá nhân, quyền tự do dân sự của cá nhân và quan điểm xã hội về các chức năng, vai trò của gia đình. Chính vì vậy, các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng cũng phản ánh và đƣợc quyết định bởi các quan điểm này. Các quan điểm này, tùy theo từng thời kỳ lịch sử và đặc điểm của từng xã hội khác nhau lại khác nhau, do đó, các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng tùy theo từng thời kỳ lịch sử và đặc điểm của từng xã hội khác nhau cũng đƣợc quy định khác nhau. Tuy nhiên, có thể thấy, thông thƣờng bao gồm các nhóm căn cứ sau: - Thứ nhất là các căn cứ xác lập quyền sở hữu nói chung theo quy định của pháp luật dân sự - Thứ hai là sự tồn tại của quan hệ hôn nhân hợp pháp - Thứ ba là các căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng bao gồm sự thoả thuận của các bên chủ thể hoặc theo quy định của pháp luật. Thiếu một trong các căn cứ, điều kiện trên, sở hữu chung của vợ chồng không thể đƣợc xác lập. Và tùy từng đặc điểm xã hội khác nhau mà các nhóm căn cứ này lại đƣợc quy định khác nhau trên cơ sở quan điểm của xã hội về quyền tự do cá nhân, quyền tự do dân sự của cá nhân và quan điểm xã hội về các chức năng, vai trò của gia đình. 16 1.2.1. Các căn cứ xác lập quyền sở hữu nói chung: Vì sở hữu chung của vợ chồng là một hình thức sở hữu nên các căn cứ trƣớc tiên để xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng là các căn cứ để xác lập quyền sở hữu nói chung. Đây là một căn cứ chung của các loại sở hữu vì vậy nó chỉ đƣợc quyết định bởi các quan điểm xã hội nói chung. Do điều kiện có hạn và sự tập trung cho việc phân tích, làm rõ những căn cứ riêng biệt của việc xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng luận văn không đi sâu phân tích căn cứ này mà chỉ đƣa ra những vấn đề cơ bản. Về vấn đề này, pháp luật của các nƣớc thƣờng có những quy định rất cụ thể về căn cứ xác lập quyền sở hữu. Các quy định này thƣờng đƣợc quy định trên cơ sở nguồn gốc của tài sản. Theo giáo trình Luật Dân sự Việt Nam của Đại học luật Hà Nội, có 3 nhóm căn cứ xác lập quyền sở hữu bao gồm: - Theo hợp đồng hoặc theo giao dịch của một bên - Theo quy định của pháp luật (nhƣ tài sản đƣợc hình thành do lao động, do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến, thừa kế…..) - Theo những căn cứ riêng: Bản án, quyết định của tòa án…. Ở Việt Nam, Điều 170, BLDS năm 2005 quy định quyền sở hữu đƣợc xác lập đối với tài sản trong các trƣờng hợp sau đây: 1. Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp 2. Đƣợc chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền 3. Thu hoa lợi, lợi tức 4. Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến; 5. Đƣợc thừa kế tài sản; 6. Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm 17 bị thất lạc, vật nuôi dƣới nƣớc di chuyển tự nhiên 7. Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhƣng ngay tình, liên tục, công khai phù hợp với thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS năm 2005. 8. Các trƣờng hợp khác do pháp luật quy định” 1.2.2. Sự tồn tại của quan hệ hôn nhân hợp pháp: Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu của hai chủ thể đặc biệt là vợ chồng, vì vậy không thể tồn tại bên ngoài quan hệ hôn nhân hợp pháp. Nói cách khác sự tồn tại của quan hệ hôn nhân hợp pháp là một trong những căn cứ quan trọng để xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng. Tuy nhiên, việc xác định thế nào là quan hệ hôn nhân hợp pháp lại đƣợc quyết định bởi quan niệm xã hội về quyền tự do cá nhân cũng nhƣ quan điểm xã hội về các chức năng xã hội của gia đình. Ngày nay, với quan điểm công nhận và bảo đảm các quyền tự do cá nhân đồng thời quan tâm, chú ý, định hƣớng phát triển xã hội, gia đình, ý chí và sự thỏa thuận của các bên chủ thể đƣợc coi là cơ sở nền tảng, quyết định trong việc xác lập, duy trì sự tồn tại của quan hệ hôn nhân hợp pháp, bên cạnh đó có những điều kiện khác nhằm đảm bảo cho gia đình có thể thực hiện đƣợc các chức năng xã hội của mình. Theo đó, quan hệ hôn nhân hợp pháp đƣợc coi là bắt đầu bằng sự kiện kết hôn theo pháp luật và chấm dứt khi một bên chết, hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, khi vợ và chồng ly hôn. Về nguyên tắc, kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật và đăng ký kết hôn. Ở một số nƣớc, kết hôn có thể đƣợc xác lập giữa một ngƣời đàn ông và nhiều ngƣời đàn bà mà không cần có sự chấm dứt của quan hệ hôn nhân trƣớc (hôn nhân đa thê), mặt khác, một số nƣớc cũng thừa nhận tính hợp pháp của hôn nhân đồng giới. Ở Việt nam, chỉ thừa nhận việc kết hôn giữa một bên là nam và một bên là 18 nữ và không công nhận hôn nhân đa thê, đa phu. Để tiến hành việc kết hôn, hệ thống pháp luật của các nƣớc thƣờng đặt ra các điều kiện nhất định. Thiếu các điều kiện này, việc kết hôn của hai bên chủ thể sẽ không đƣợc công nhận và khi đó quan hệ vợ chồng sẽ không phát sinh. Các điều kiện này thƣờng bao gồm : - Điều kiện về sự khác biệt giới tính: Trong thời gian gần đây, sự xuất hiện của quan hệ đồng giới đã làm nảy sinh nhiều cuộc tranh cãi gay gắt giữa các nhà lập pháp về việc thừa nhận hay không thừa nhận hôn nhân giữa những ngƣời đồng tính. Nhƣ trên đã nói, một số nƣớc đã có sự công nhận hôn nhân của những ngƣời đồng tính. Pháp luật Việt Nam nhìn chung cấm kết hôn giữa những ngƣời cùng giới tính. Việc cấm kết hôn giữa những ngƣời cùng giới tính đƣợc chính thức ghi nhận trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 của Việt Nam. Trong thời gian trƣớc, hôn nhân giữa những ngƣời cùng giới cũng không bao giờ đƣợc thừa nhận ở Việt Nam. Việc xác định giới tính thƣờng dựa vào giấy khai sinh của đƣơng sự. - Điều kiện về tuổi kết hôn: Hệ thống pháp luật các nƣớc thƣờng quy định tuổi kết hôn tối thiểu, theo đó, hai bên đƣơng sự chỉ có thể kết hôn khi đã đủ tuổi kết hôn tối thiểu. Ở các nƣớc, tuổi kết hôn tối thiểu thƣờng không giống nhau tuỳ theo từng nƣớc, ví dụ tuổi kết hôn tối thiểu ở Đức là 21 đối với nam và 16 đối với nữ, ở Thuỵ Sĩ là 20 và 18, ở ý là 16 và 14, ở Pháp là 18 và 15. ở Việt nam, tuổi kết hôn tối thiểu đƣợc quy định hiện nay là nam từ 20 tuổi trở lên và nữ từ 18 tuổi trở lên. - Điều kiện về sự ƣng thuận: Điều kiện này nhằm đảm bảo nguyên tắc của hôn nhân là nguyên tắc tự nguyện. Pháp luật ở bất kỳ một nƣớc nào đều không thừa nhận việc kết hôn nếu không có sự ƣng thuận của cả hai bên. Tuy nhiên, pháp luật các nƣớc lại có những quy định khác nhau về các trƣờng hợp đƣợc coi là không có sự ƣng thuận của cả hai bên. Nhƣng nhìn chung không có sự ƣng thuận của cả hai bên có thể xảy ra khi một hoặc cả hai bên bị cƣỡng ép, bị lừa dối, bị mất năng lực hành vi, bị hạn chế năng 19 lực hành vi hay không nhận thức đƣợc hành vi của mình. - Điều kiện về mối quan hệ thân thích: Theo đó, những ngƣời có cùng dòng máu về trực hệ, những ngƣời có quan hệ họ hàng, anh chị em thƣờng không đƣợc kết hôn với nhau. Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành của Việt Nam quy định cấm kết hôn giữa những ngƣời cùng dòng máu về trực hệ, giữa những ngƣời có họ trong phạm vi ba đời, giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, giữa ngƣời đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dƣợng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. [19] - Điều kiện về việc không tồn tại hôn nhân với ngƣời khác: Mặc dù nhƣ trên đã nói, pháp luật một số nƣớc thừa nhận hôn nhân đa thê nhƣng nhìn chung các nƣớc đều cấm ngƣời đang có vợ, có chồng không đƣợc kết hôn với ngƣời khác. Thiếu một trong các điều kiện trên, việc kết hôn giữa hai đƣơng sự không đƣợc công nhận, khi đó quan hệ vợ chồng không tồn tại và theo đó, quan hệ sở hữu chung của vợ chồng cũng không tồn tại. Hôn nhân có thể bị chấm dứt trong các trƣờng hợp: Vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết hoặc vợ và chồng ly hôn. Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân (về mặt pháp lý) ngay trong lúc cả vợ và chồng đều còn sống. Đây là biện pháp cuối cùng mà pháp luật cho phép thực hiện trong trƣờng hợp cuộc sống vợ chồng lâm vào tình trạng khủng hoảng mà không thể đƣợc khắc phục bằng bất kỳ biện pháp nào khác. Về vấn đề này, luật các nƣớc, ở các thời kỳ khác nhau cũng có sự nhìn nhận khác nhau: ở một số nƣớc thời kỳ nguyên sơ, hôn nhân đƣợc xác lập và đƣợc duy trì chỉ nhờ vào sự ƣng thuận lúc đầu (lúc kết hôn), cũng giống nhƣ sự ƣng thuận khi giao kết hợp đồng, một khi đã ƣng thuận kết hôn, ngƣời kết hôn không thể thay đổi ý nghĩa, nghĩa là phải chấp nhận cuộc sống chung cho đên cuối đời. Quan niệm này đƣợc duy trì khá 20 lâu ở nhiều nƣớc. Không ít nƣớc Châu âu chỉ mới từ bỏ quan niệm này cách đây không lâu nhƣ ở ý là từ năm 1975, ở Tây Ban Nha từ năm 1982… Trái ngƣợc với quan niệm trên là quan niệm cho rằng hôn nhân không thể đƣợc duy trì một khi vợ hoặc chồng hoặc cả hai không còn cảm thấy đƣợc thôi thúc bởi ý muốn chung sống. Mỗi ngƣời phải có quyền tự do chấm dứt quan hệ hôn nhân, nhƣ đã có quyền tự do xác lập quan hệ đó. Nếu cả vợ và chồng đều đồng ý ly hôn, thì càng tốt, nếu không, mỗi ngƣời có quyền ly hôn chỉ bằng quyết định đơn phƣơng của mình. Quyền tự do ly hôn đƣợc thiết lập trong luật La Mã thời kỳ cuối. Trong luật đƣơng đại của niều nƣớc theo Common law hoặc của các nƣớc Bắc Âu. Một số nƣớc, mặc dù công nhận quyền ly hôn nhƣ một quyền dân sự của cá nhân nhƣng yêu cầu ly hôn chỉ đƣợc Tòa án tiếp nhận trong những trƣờng hợp đƣợc luật dự kiến. Yêu cầu ly hôn có thể do vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng đƣa ra. Thẩm phán, về phần mình, có quyền quyết định cho phép hay không cho phép ly hôn trên cơ sở đánh giá mức độ chính đáng, hợp lý, hợp tình của yêu cầu ly hôn. 1.2.3. Các căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng: Ngoài việc đáp ứng đủ hai căn cứ chung nói trên, sở hữu chung của vợ chồng có thể đƣợc xác lập trên cơ sở sự thỏa thuận của hai vợ chồng hoặc trên cơ sở quy định của pháp luật. Đây cũng là một căn cứ thể hiện rất rõ quan điểm của xã hội về quyền tự do cá nhân, chức năng xã hội của gia đình cũng nhƣ vị trí, vai trò và mối quan hệ của hai vấn đề này trong xã hội. - Sự thỏa thuận của vợ chồng Ở những xã hội quyền tự do cá nhân đƣợc đặt lên hàng đầu, đƣợc coi là vấn đề then chốt thì sự thỏa thuận của vợ chồng về tài sản chung của vợ chồng đƣợc coi là cơ sở quyết định của việc xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng. Quan điểm này đang ngày càng đƣợc nhiều nƣớc công nhận, đặc biệt là ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa. Theo đó, pháp luật cho phép hai vợ 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan