Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hính sự theo luật tố tụng hình sự việt nam (trên cơ ...

Tài liệu Căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hính sự theo luật tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà tĩnh)

.PDF
81
80
80

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VÕ XUÂN MÃO C¡N Cø, C¥ Së KHëI Tè Vô ¸N H×NH Sù THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Hµ TÜnh) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VÕ XUÂN MÃO C¡N Cø, C¥ Së KHëI Tè Vô ¸N H×NH Sù THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Hµ TÜnh) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN TẤT VIỄN HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Võ Xuân Mão MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ VÀ CƠ SỞ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................ 4 1.1. Khởi tố vụ án hình sự - giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự..... 4 1.1.1. Đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự ..................................................... 4 1.1.2. Những yêu cầu đối với giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ...................... 7 1.2. Khái niệm căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự.............................. 10 1.2.1. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự ............................................................. 10 1.2.2. Cơ sở khởi tố vụ án hình sự ............................................................... 13 1.3. Căn cứ và cơ sở khởi tố vụ án trong pháp luật tố tụng hình sự của một số quốc gia .......................................................................... 19 1.3.1. Trung Quốc......................................................................................... 19 1.3.2. Liên bang Nga .................................................................................... 20 1.3.3. In-đô-nê-xia ........................................................................................ 21 1.3.4. Một số quốc gia khác ......................................................................... 22 Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 25 Chƣơng 2: CĂN CỨ, CƠ SỞ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY .......................................................................................... 26 2.1. Các quy định pháp luật về căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự từ 1945 đến trƣớc 1988 .................................................................... 26 2.2. Căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ............................ 31 2.2.1. Căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ......... 31 2.2.2. Căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ....... 36 2.3. Căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án trong Bộ luật tố tụng hình sự năm năm 2015 ................................................................................... 40 Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 47 Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ CĂN CỨ, CƠ SỞ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở HÀ TĨNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ...... 48 3.1. Khái quát tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật trên địa bàn Hà Tĩnh trong các năm 2010-2016 .......................................... 48 3.2. Những vƣớng mắc, hạn chế trong việc áp dụng các quy định về cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự từ thực tiễn của Hà Tĩnh và một số kiến nghị ................................................................. 60 3.2.1. Những vướng mắc về pháp luật ......................................................... 60 3.2.2. Những hạn chế trong việc áp dụng các quy định về căn cứ, và cơ sở khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn Hà Tĩnh........................................ 63 3.2.3. Một số kiến nghị ................................................................................. 65 Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 68 KẾT LUẬN .................................................................................................... 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 71 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự CCTP: Cải cách Tư pháp KKT: Khu kinh tế TAND: Tòa án nhân dân TTHS : Tố tụng hình sự UBND: Ủy ban nhân dân VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã Hội Chủ Nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật tố tụng hình sự là phương tiện của nhà nước đương đại nhằm phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, phụ thuộc vào kiểu tố tụng, mô hình tố tụng và truyền thống pháp luật mỗi nhà nước có cách thức thực hiện khác nhau. Việc lựa chọn quy định cách thức nào để khởi động tố tụng hình sự đối với vụ án do đặc điểm cụ thể của mỗi quốc gia quy định. Tuy nhiên, mục đích chung hướng đến là nhà nước phải chủ động nắm được nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, xử lý tội phạm, kiểm soát được tội phạm, duy trì trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của hoạt động tố tụng hình sự, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định có hay không dấu hiệu tội phạm để quyết định đưa vụ việc giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự, đây là giai đoạn đầu tiên, mở đầu cho các giai đoạn tiếp theo của tố tụng hình sự trong vụ án hình sự. Giai đoạn này bắt đầu từ việc tiếp nhận và phát hiện các nguồn thông tin về tội phạm và kết thúc bằng việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Khởi tố vụ án hình sự có căn cứ đúng pháp luật làm cơ sở cho các hoạt động tiếp theo, ngược lại khởi tố không có căn cứ pháp luật sẽ dẫn đến tình trạng làm oan sai người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Thời gian qua, đã có nhiều bài báo, công trình khoa học, đề tài luận văn, luận án đề cập dưới nhiều giác độ khác nhau nghiên cứu về: lý luận, thực tiễn pháp luật thực định về khởi tố vụ án hình sự. Các công trình nghiên cứu đã luận giải về tầm quan trọng, ý nghĩa và nội dung của chế định khởi tố vụ án hình sự. Qua các kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy: 1 a) Có rất ít công trình nghiên cứu về căn cứ và cơ sở khởi tố vụ án hình sự. Mặt khác, thực tiễn hoạt động khởi tố vụ án hình sự còn nhiều bất cập trong đó có nguyên nhân từ các quy định pháp luật tố tụng hình sự mà nội dung chưa rõ ràng, cần phải tiếp tục nghiên cứu. b) Chưa có công trình nào nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về căn cứ và cơ sở khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn một tỉnh, cụ thể như tỉnh Hà Tĩnh. Từ công việc thực tiễn của học viên và được sự gợi ý của Bộ môn Luật hình sự, học viên đã chọn đề tài: “Căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh)” làm Luận văn tốt nghiệp cao học. 2. Mục đích, phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu 2.1. Mục đích Làm sáng tỏ về lý luận những căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Đồng thời, thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện các quy định về căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự, xác định những nguyên nhân của kết quả cũng như hạn chế từ đó kiến nghị, đề xuất những giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện đúng đắn chế định này. 2.2. Phạm vi: Luận văn thực hiện trên cơ sở thực tiễn của tỉnh Hà Tĩnh trong áp dụng các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 về khởi tố vụ án hình sự. 2.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật, đặc biệt là những chế định trong Bộ luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. 3.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Dựa trên phương pháp luận là phép duy vật biện chứng, duy vật lịch 2 sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, trong đó có hệ thống cơ quan tư pháp. Chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác tư pháp thể hiện trong các nghị quyết: 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, 48-NQ/TW ngày 24/5/2005, 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được luận văn sử dụng bao gồm: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê... được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài. 4. Ý nghĩa của luận văn Góp phần làm rõ hơn khái niệm căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự; việc áp dụng căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự vào thực tiễn ở tỉnh Hà Tĩnh Điểm mới của luận văn: - Làm rõ hơn cơ sở lý luận về căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự từ thực tiễn của một tỉnh miền Trung là Hà Tĩnh. - Đánh giá việc thực hiện các quy định về căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh; - Đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện các quy định về căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự. Chương 2: Các quy định pháp luật về căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Chương 3: Áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự từ thực tiễn của tỉnh Hà Tĩnh và một số kiến nghị. 3 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ VÀ CƠ SỞ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khởi tố vụ án hình sự - giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự Để nghiên cứu về căn cứ và cơ sở khởi tố vụ án hình sự trước hết cần tìm hiểu ý nghĩa, vai trò, đặc điểm và những yêu cầu đặt ra cho giai đoạn khởi tố vụ án hình sự với ý nghĩa là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự. 1.1.1. Đặc điểm của khởi tố vụ án hình sự Trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, yêu cầu mà pháp luật hình sự đặt ra là mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật. Thực hiện yêu cầu đó, các cơ quan tiến hành tố tụng phải có một quá trình thu thập chứng cứ làm rõ tội phạm, sử dụng các biện pháp cần thiết để ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục xảy ra. Khi sự việc có dấu hiệu của tội phạm, các cơ quan có thẩm quyền phải làm sáng tỏ có hay không có sự việc phạm tội, ai là người phạm tội và có thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm hay không, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và những vấn đề khác có liên quan của vụ án... việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án trải qua một quá trình gồm nhiều giai đoạn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tiến hành tố tụng. Các giai đoạn đó bao gồm: khởi tố, điều tra, xét xử. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, bắt đầu bằng việc phát hiện những thông tin về tội phạm và kết thúc bằng việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Việc khởi tố vụ án hình sự là thể hiện nguyên tắc trách nhiệm của nhà nước trong khởi tố và xử lý vụ án hình sự, là sự chính thức thừa nhận sự tồn tại của một vụ án, khẳng định trên thực tế có sự kiện phạm tội đã xảy ra. Về mặt lý luận Luật tố tụng hình sự, khởi tố vụ án hình sự là một khái niệm được 4 hiểu ở các góc độ khác nhau. Trước hết, khởi tố vụ án hình sự là một chế định pháp lý, tập hợp những quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về trình tự và thủ tục khởi tố vụ án hình sự. Thứ hai, khởi tố vụ án hình sự được coi là một hành vi tố tụng mà từ đó hoạt động điều tra tội phạm bắt đầu được tiến hành. Thứ ba, khởi tố vụ án hình sự được coi là một giai đoạn tố tụng độc lập trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cũng như các giai đoạn khác của tố tụng hình sự, khởi tố vụ án hình sự có mục đích và nhiệm vụ riêng. Nếu như mục đích chung của tố tụng hình sự là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, thì mục đích cụ thể của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác định tội phạm và phát hiện người phạm tội, củng cố các dữ kiện, xác định các dấu hiệu của tội phạm bảo đảm phản ứng mau lẹ của Nhà nước trước hành vi phạm tội, góp phần ngăn ngừa và xử lý kịp thời tội phạm và người phạm tội. Mục đích và nhiệm vụ này đều tuân thủ mục đích và nhiệm vụ chung của tố tụng hình sự là phát hiện chính xác, nhanh chóng kịp thời và công minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Nhiệm vụ cụ thể của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự sự thể hiện việc tiếp nhận, xử lý tin báo và tố giác về tội phạm, xác minh các tin báo, tố giác đó để kiểm tra tính hợp pháp của các lý do và căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Giai đoạn này cũng có nhiệm vụ làm rõ các tình tiết loại trừ tố tụng đối với vụ việc, phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm, giữ gìn, bảo quản các dấu vết của vụ án. Có thể nói, việc khởi tố vụ án hình sự tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ xác định người phạm tội và tội phạm ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Với mục đích và nhiệm vụ quan trọng như vậy, khởi tố vụ án hình sự có nhiều ý nghĩa. Trước hết, về mặt chính trị - xã hội, khởi tố thể hiện việc phản ứng kịp thời của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong đấu tranh 5 chống tội phạm trên phương diện pháp luật hình sự. Khởi tố vụ án hình sự là một biện pháp rất quan trọng để xác định sự thật của vụ án và truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi phạm tội; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi phạm tội. Và điều quan trọng hơn là khẳng định trên thực tế „„nguyên tắc không tránh khỏi hình phạt‟‟ của người có hành vi phạm tội. Việc khởi tố kịp thời các vụ án hình sự còn góp phần đấu tranh chống tội phạm “ẩn”. Theo nhận xét của nhiều nhà khoa học pháp lý hình sự, tình trạng tội phạm “ẩn” vẫn còn là vấn đề nan giải với nhiều nguyên nhân khác nhau và ở các mức độ khác nhau. Vì vậy, việc khởi tố kịp thời các vụ án hình sự là yếu tố quan trọng làm giảm tội phạm “ẩn” trong tình hình hiện nay. Bên cạnh đó khởi tố vụ án hình sự có nhiệm vụ làm rõ các tình tiết loại trừ tố tụng đối với vụ việc, cũng cần thấy rõ là nếu không khởi tố vụ án khi đã có dấu hiệu tội phạm, hoặc khởi tố vụ án không kịp thời thì dễ dẫn đến việc tội phạm bị bỏ lọt, bị che giấu, chứng cứ bị thất thoát, bị tiêu hủy làm cho việc điều tra xử lý khó khăn. Ngược lại, giai đoạn khởi tố còn có nhiệm vụ làm rõ các tình tiết loại trừ tố tụng đối với vụ án. Khi có những căn cứ pháp luật quy định không được khởi tố, cơ quan tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh chấp hành để tránh oan, sai. Việc khởi tố cũng như không khởi tố vụ án theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự sẽ tạo niềm tin cho xã hội vào sự công minh của pháp luật, đồng thời cũng tiết kiệm chi phí của xã hội, nhà nước và công dân. Thứ hai, ý nghĩa pháp lý của việc khởi tố vụ án hình sự được thể hiện ở chỗ khi các cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố hình sự là thời điểm bắt đầu áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự. Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để từ đó ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, tính độc lập 6 của giai đoạn khởi tố vụ án cũng như các giai đoạn khác trong quá trình tố tụng chỉ mang tính tương đối, giữa chúng có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau; giai đoạn trước là tiền đề cho giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện các hoạt động điều tra. Khi chưa có quyết định khởi tố vụ án thì không được tiến hành các hoạt động điều tra cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Trong giai đoạn này, các cơ quan có thẩm quyền chỉ được phép tiến hành các biện pháp kiểm tra, xác minh nguồn tin mà không được phép tiến hành bất cứ các biện pháp cưỡng chế tố tụng nào ngoại trừ một số trường hợp được pháp luật quy định do không thể trì hoãn như khám nghiệm hiện trường, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang. Tuy quyết định khởi tố vụ án hình sự chỉ là sơ bộ đánh giá hành vi phạm tội nhưng cũng đã chỉ ra rằng tội phạm bị khởi tố là tội gì. Chỉ sau khi khởi tố vụ án hình sự thì các hoạt động điều tra, khởi tố và hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, khám xét, bắt bị can để tạm giam, đối chất, nhận dạng... mới được tiến hành (trừ hành vi tố tụng cấp thiết như khám nghiệm hiện trường). Cũng từ giai đoạn này, các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa cơ quan có thẩm quyền, người tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng được xác lập. 1.1.2. Những yêu cầu đối với giai đoạn khởi tố vụ án hình sự Khởi tố vụ án hình sự phải xuất phát từ mục đích của pháp luật hình sự. Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội an toàn, lành mạnh, nhân văn. Để đạt mục tiêu này, nhà nước sử dụng các biện pháp tổng hợp để đạt mục tiêu đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi 7 tội phạm ở mức độ thấp nhất. Vì vậy, việc khởi tố vụ án hình sự trước hết xuất phát từ phương diện đấu tranh chống tội phạm trong khung khổ pháp luật hình sự. Từ đó, nhiệm vụ đặt ra cho tố tụng hình sự nói chung, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự nói riêng là bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Khởi tố vụ án hình sự phải tuân theo các thủ tục của mô hình tố tụng hình sự Việt Nam.Trên thế giới hiện nay tồn tại ba mô hình tố tụng hình sự là: mô hình tố tụng thẩm vấn, mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình kết hợp giữa thẩm vấn và tranh tụng. Với mỗi kiểu tố tụng đó hình thành mô hình tương ứng: kiểu tố tụng thẩm vấn hình thành nên mô hình kiểm soát tội phạm; kiểu tố tụng tranh tụng hình thành nên mô hình tố tụng tranh tụng. Còn mô hình thứ ba là sự kết hợp giữa thẩm vấn và tranh tụng hiện đang được một số quốc gia áp dụng, tuy mức độ kết hợp có khác nhau (Mêxicô, Liên bang Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc…). [33, tr.18-35]. Hệ thống tư pháp hình sự Việt Nam hiện đang áp dụng mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn (xét hỏi), thể hiện qua những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, tố tụng hình sự Việt Nam xác định vai trò chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Khác với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, tố tụng hình sự Việt Nam xác định vai trò chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, không coi đó là trách nhiệm của bị cáo. Bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội. Nhà nước trực tiếp là cơ quan tư pháp có thẩm quyền chủ động phát động quá trình tố tụng và chấm dứt tố tụng theo các quy định pháp luật do mình ban hành. Như vậy, việc giải quyết 8 vụ án hình sự hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Trong khi đó, mô hình tố tụng tranh tụng nhấn mạnh một quy trình tìm kiếm bằng chứng nặng tính hình thức thông qua tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, với vị trí bình đẳng của các bên tranh tụng, xác định trách nhiệm và khả năng chứng minh của các bên trong quá trình tố tụng đối với vụ án. Thứ hai, tố tụng hình sự Việt Nam phân chia quá trình giải quyết vụ án thành các giai đoạn tố tụng. Tố tụng hình sự Việt Nam phân chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành các giai đoạn tố tụng (giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử). Ở từng giai đoạn khác nhau, có những thành phần chủ thể khác nhau nhưng đều hướng đến một mục tiêu chung là làm sáng tỏ sự thật khách quan, tìm đến chân lý của sự việc. Trong mỗi giai đoạn tố tụng có sự phân định tương đối rành mạch về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng, quy định cụ thể và chặt chẽ thời hạn của từng hoạt động tố tụng và thời hạn áp dụng từng biện pháp cưỡng chế tố tụng. Các giai đoạn tố tụng được tiến hành gắn liền và kế tiếp nhau, giai đoạn tố tụng trước làm tiền đề cho giai đoạn tố tụng sau, giai đoạn tố tụng sau kiểm nghiệm lại kết quả đạt được của giai đoạn tố tụng trước. Thứ ba, tố tụng hình sự Việt Nam xác định việc tìm kiếm sự thật vụ án bằng phương pháp điều tra, thẩm vấn. Đây là phương pháp chủ yếu được sử dụng ở tất cả các giai đoạn tố tụng, bắt đầu là việc khởi tố vụ án hình sự. Trong giai đoạn điều tra, điều tra viên thực hiện mọi biện pháp điều tra do pháp luật quy định để thu thập chứng cứ. Khi hồ sơ vụ án được chuyển sang cho Viện kiểm sát đề nghị truy tố, Viện kiểm sát tiếp tục kiểm tra hồ sơ vụ án để ra quyết định truy tố hoặc không truy tố người phạm tội. Tại phiên toà, phương pháp điều tra, thẩm vấn là phương pháp chủ yếu được áp dụng. Tuy nhiên, theo tinh thần cải cách tư pháp, tranh tụng đã trở thành một nguyên tắc hiến định. Việc 9 tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội tại phiên tòa; việc ra bản án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa góp phần bảo đảm thủ tục tố tụng dân chủ, quyền con người, quyền công dân được thực hiện tốt hơn. Tố tụng hình sự Việt Nam xác định bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Tố tụng hình sự của bất kỳ hệ thống quốc gia dân chủ nào cũng đều phải thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ: vừa phải xác định cho được sự thật của vụ án, bảo đảm để công lý được thực thi nhưng lại vừa phải làm thế nào để trên con đường đi tìm sự thật và công lý thì quyền của tất cả những người có liên quan đều phải được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ. Tư pháp là lĩnh vực gắn trực tiếp với số phận con người, quyền về nhân thân và quyền tài sản của họ là lĩnh vực dễ xảy ra những vi phạm quyền con người, quyền công dân. Vì vậy việc khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự cần phải tuân thủ các quy định của Hiến pháp và pháp luật, trước hết là pháp luật tố tụng hình sự trong việc bảo đảm công lý của chế độ, quyền con người, quyền công dân. Những hành vi xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp là vi phạm Hiến pháp, pháp luật cần được xử lý nghiêm khắc. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam đã có nhiều quy định mới mang tính nguyên tắc về bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đặc biệt trong lĩnh vực tư pháp. 1.2. Khái niệm căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án hình sự 1.2.1. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự Khi một sự kiện có dấu hiệu tội phạm xảy ra được thông tin đến các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ làm phát sinh mối quan hệ giữa nhà nước và các chủ thể có liên quan đến việc giải quyết sự kiện có dấu hiệu tội phạm. Với góc độ là giai đoạn của tố tụng hình sự, khởi tố vụ án hình sự bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết tin báo tội phạm tiếp nhận thông tin về sự việc có dấu hiệu tội phạm theo thủ tục luật định để xem xét giải quyết, kết thúc khi cơ 10 quan này quyết định theo một trong hai phương án là quyết định khởi tố vụ án hình sự (khi xác định có dấu hiệu tội phạm) hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự (khi xác định không có dấu hiệu tội phạm). Căn cứ để khởi tố vụ án hình sự là “dấu hiệu tội phạm” cụ thể trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Để xác định có dấu hiệu tội phạm hay không, cần dựa vào lý luận pháp luật hình sự, trong đó xác định tội phạm là hiện tượng xã hội với bốn dấu hiệu: (1) tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi; (2) tính có lỗi; (3) tính trái pháp luật hình sự; (4) tính chịu hình phạt [4, tr.105-107]. Như vậy, về mặt pháp lý, căn cứ khởi tố vụ án hình sự đã được xác định là “dấu hiệu của tội phạm”, nghĩa là chỉ được khởi tố khi đã xác định có dấu hiệu của tội phạm, khi có đủ các đặc điểm của tội phạm thì mới có cơ sở xác định “có dấu hiệu tội phạm” và khi đó mới (có thể) ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một thuộc tính phản ánh bản chất xã hội và thuộc tính khách quan của tội phạm, thể hiện ở việc gây thiệt hại hoặc tạo ra nguy cơ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là đối tượng bảo vệ của luật hình sự. Nó là thuộc tính cơ bản và quan trọng nhất, quyết định những thuộc tính khác của tội phạm, là căn cứ để phân loại tội phạm. Bộ luật hình sự coi tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. Tính có lỗi: Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, thể hiện dưới dạng cố ý và vô ý. Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc quy tội khách quan chỉ thông qua hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của người thực hiện hành vi đó. 11 Tính trái pháp luật hình sự là đặc điểm pháp lý hình thức của tội phạm thể hiện qua việc quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, dựa theo nguyên tắc của Luật La mã: không có luật quy định thì không quy tội. Những hành vi được coi là trái pháp luật cũng đồng thời là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Luật hình sự, nghĩa là bị luật hình sự cấm, bị nhà làm luật coi là tội phạm, có lỗi trong khi thực hiện hành vi thì mới bị coi là tội phạm. Tính trái pháp luật là căn cứ để đảm bảo quyền lợi của công dân, tránh việc xử lý tùy tiện. Tính chịu hình phạt cũng là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, không có tội phạm cũng không có hình phạt. Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính phải chịu hình phạt. Tuy nhiên, trong giới luật có những ý kiến khác nhau về căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Một số tác giả cho rằng: căn cứ để khởi tố vụ án hình sự là khi có được những thông tin thực tế khách quan về hành vi phạm tội [32, tr.76]. Ý kiến thứ hai cho rằng: căn cứ khởi tố vụ án hình sự là có sự việc xảy ra và sự việc đó có dấu hiệu tội phạm [42, tr.154]. Ý kiến thứ ba cho rằng: có dấu hiệu tội phạm là căn cứ cần và đủ để khởi tố vụ án hình sự [34, tr.200]. Còn theo tác giả Lưu Thanh Hùng, các ý kiến trên đây đều xuất phát từ cặp phạm trù nội dung - hình thức để phân tích, lý giải căn cứ khởi tố, nhưng do đặt trong mối quan hệ khác nhau và phương diện tiếp cận khác nhau nên dẫn đến sự giải thích khác nhau. Trên cơ sở lý luận chứng cứ và đặt căn cứ khởi tố trong mối quan hệ với nguồn tài liệu chứa đựng phản ánh nó thì căn cứ khởi tố được giải thích là chứng cứ chứng minh (xác định) có dấu hiệu tội phạm. Đặt trong mối quan hệ giữa Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự thì căn cứ khởi tố được giải thích là dấu hiệu của tội phạm [22]. Dấu hiệu tội phạm chính là 12 những tài liệu ban đầu về sự kiện phạm tội nói chung, chưa phải tài liệu về người phạm tội cụ thể nào. Như vậy, dấu hiệu của tội phạm được coi là căn cứ để khởi tố là những thuộc tính của tội phạm: tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi; tính có lỗi; tính trái pháp luật hình sự; tính chịu hình phạt. Đó là những biểu hiện, những “khía cạnh” của tội phạm được chứng minh, xác định bằng chứng cứ cụ thể. Khi khởi tố vụ án hình sự, mới chỉ dừng lại ở việc xác định các dấu hiệu (biểu hiện) của tội phạm, chưa phải là xác định đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, khi khởi tố vụ án hình sự không chỉ dựa vào các dấu hiệu tội phạm. Ngoài việc xác định các dấu hiệu của tội phạm còn phải tính đến các chế định khác có liên quan như thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự hay đặc điểm của một số tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự. 1.2.2. Cơ sở khởi tố vụ án hình sự Cơ sở khởi tố vụ án hình sự là những nguồn tin mà dựa vào đó cơ quan có thẩm quyền khởi tố xác định có dấu hiệu tội phạm. Khi nhận được sự tố giác hay tin báo về tội phạm, cơ quan có thẩm quyền khởi tố phải kiểm tra nhằm xác định có dấu hiệu tội phạm hay không và có những căn cứ được khởi tố vụ án hình sự hay không, để ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Những thông tin đó bao gồm: - Thứ nhất, thông tin từ việc tố giác tội phạm. Tố giác tội phạm là quyền và nghĩa vụ của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm của một người nào đó hay pháp nhân nào đó với cơ quan có thẩm 13 quyền. Khái niệm tố giác được giải thích là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết [2]. Như vậy, đặc trưng của tố giác về tội phạm là cung cấp thông tin của cá nhân có danh tính rõ ràng về hành vi có dấu hiệu tội phạm để các cơ quan có thẩm quyền thụ lý, xác minh, xử lý theo pháp luật. Tố giác bao gồm hai nội dung: “tố cáo” và “phát giác” về tội phạm. Tính chất của tố cáo là cá nhân có quyền tố cáo hành vi của bất kỳ chủ thể nào cho rằng có dấu hiệu phạm tội mà bản thân mình biết được, khẳng định được với các cơ quan có thẩm quyền. Còn phát giác là việc cá nhân phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm của bất kỳ chủ thể nào mà mình tiếp cận được thông tin không phải ở mức độ biết được, khẳng định được trực tiếp với các cơ quan có thẩm quyền để phát hiện, xác minh, xử lý theo pháp luật. Luật cho phép công dân có thể tố cáo về mọi tội phạm, với bất cứ cơ quan nào mà họ thấy tiện lợi. Như vậy, việc tố giác không chỉ giới hạn ở việc công dân đến cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hay Tòa án để tố cáo. Tố giác của công dân có thể trực tiếp bằng miệng, bằng văn bản, qua điện thoại hoặc thư điện tử. Việc người bị hại làm đơn trình báo về sự việc phạm tội gây thiệt hại cho họ cũng là một hình thức của tố giác tội phạm. Việc tố giác qua điện thoại có thể coi là trường hợp tố giác bằng miệng. Tuy nhiên, cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận điện thoại phải kiểm tra, ghi nhận số điện thoại, nội dung tố cáo và người tố cáo. - Thứ hai, nguồn tin từ tin báo của tổ chức, cá nhân:Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Đặc trưng của tin báo là ở tính chất thông tin sơ bộ, ban đầu để xác định sự việc là có thật, có căn cứ sự việc; còn hành vi đó là tội phạm hay chưa thì cần phải được cơ quan có thẩm quyền xác minh, 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan