Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cảm thức thời gian trong thơ chữ hán nguyễn du và thơ sonnet shakespeare...

Tài liệu Cảm thức thời gian trong thơ chữ hán nguyễn du và thơ sonnet shakespeare

.PDF
249
134
89

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Minh CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ THƠ SONNET SHAKESPEARE LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Minh CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ THƠ SONNET SHAKESPEARE Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ THU YẾN Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến PGS. TS Lê Thu Yến – người đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới TS. Nguyễn Thanh Sơn – người đã có những gợi ý rất hay về đề tài và là người luôn truyền nhiệt hứng cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu. Xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với thày Phan Nhật Chiêu đã cung cấp nhiều tư liệu quý giúp cho tôi có thể tìm hiểu vấn đề toàn diện hơn. Xin cảm ơn tất cả gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên, ủng hộ tôi trong quá trình làm luận văn Ngày 15/5/2010 Nguyễn Thị Minh MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 3 T 1 T 1 MỤC LỤC .................................................................................................................... 4 T 1 T 1 MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6 T 1 T 1 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................6 T 1 T 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................7 T 1 T 1 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................13 T 1 T 1 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ...................................................................14 T 1 T 1 5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................14 T 1 T 1 6. Cấu trúc luận văn .........................................................................................................14 T 1 T 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .............................................................. 16 T 1 T 1 1.1. Nguyễn Du và thơ chữ Hán ......................................................................................16 T 1 T 1 1.1.1. Nguyễn Du ...........................................................................................................16 T 1 T 1 1.1.2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du .....................................................................................18 T 1 T 1 1.2. Shakespeare và thơ sonnet .......................................................................................21 T 1 T 1 1.2.1. Shakespeare ..........................................................................................................21 T 1 T 1 1.2.2. Thơ sonnet Shakespeare .......................................................................................23 T 1 T 1 1.3. Vấn đề cảm thức thời gian ........................................................................................27 T 1 T 1 CHƯƠNG 2: NHỮNG GẶP GỠ TÌNH CỜ GIỮA THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ THƠ SONNET SHAKESPEARE VỀ CẢM THỨC THỜI GIAN ......... 33 T 1 T 1 2.1. Bước đi của thời gian ................................................................................................33 T 1 T 1 2.1.1. Thời gian – nỗi ám ảnh khôn nguôi với thi nhân .................................................34 T 1 T 1 2.1.2. Bước chân nhanh chóng, vô tình, không chờ đợi của thời gian ...........................37 T 1 T 1 2.2. Sức tàn phá của thời gian .........................................................................................44 T 1 T 1 2.2.1. Vũ khí của thời gian .............................................................................................44 T 1 T 1 2.2.2. Thời gian dẫn tới tuổi già .....................................................................................50 T 1 T 1 2.2.3. Thời gian đưa tới cái chết .....................................................................................57 T 1 T 1 2.3. Ý thức về sự ngắn ngủi của kiếp người trước cái vô hạn thời gian ......................61 T 1 T 1 2.3.1. Những suy tư về đời người và cuộc sống trần thế ...............................................61 T 1 T 1 2.3.2. Thời gian hiện tại .................................................................................................67 T 1 T 1 CHƯƠNG 3 : DẤU ẤN CÁ NHÂN TRONG CẢM THỨC THỜI GIAN Ở THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ THƠ SONNET SHAKESPEARE........................ 72 T 1 T 1 3.1. Hai gương mặt thời gian ...........................................................................................72 T 1 T 1 3.1.1. Thời gian thuần nhất trong thơ Nguyễn Du .........................................................74 T 1 T 1 3.1.2. Thời gian hai mặt trong thơ Shakespeare .............................................................82 T 1 T 1 3.2. Hai tâm trạng, hai cách xử thế .................................................................................95 T 1 T 1 3.2.1. Nỗi tiếc nuối, buồn đau trong thơ chữ Hán Nguyễn Du ......................................95 T 1 T 1 3.2.2. Những nỗ lực chiến đấu với thời gian trong thơ Shakespeare ...........................103 T 1 T 1 3.3. Hai giọng điệu ..........................................................................................................121 T 1 T 1 3.3.1. Giọng trầm ngâm suy tưởng trong thơ chữ Hán Nguyễn Du .............................123 T 1 T 1 3.3.2. Giọng đối thoại, tranh luận trong thơ Shakespeare ............................................132 T 1 T 1 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 142 T 1 T 1 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 145 T 1 T 1 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 150 T 1 T 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Đầu thế kỉ XX, khi văn hóa phương Tây tràn vào, cô gái Việt như bừng tỉnh sau một giấc mơ dài trong vòng tay ông hoàng Trung Hoa, hăm hở bứt ra để đón nhận luồng gió mới, làm đầy chiếc dạ dày tinh thần đang háu đói nhưng đã chán ngấy hương vị cũ của mình bởi những trải nghiệm mới lạ. Kể từ đó, chúng ta được biết đến một nền văn minh khác mình về rất nhiều phương diện. Giống như cục nam châm hút những gì trái dấu, nó hấp dẫn sự quan tâm tìm hiểu của nhiều người, nhiều thế hệ. Trong xu hướng toàn cầu hóa, mở rộng giao lưu, hợp tác giữa các nước trên thế giới hiện nay, việc biết người để hiểu mình là một nhu cầu tự thân bức thiết. Khi các nước cùng tề tựu dưới một mái nhà chung, điều làm nên bộ mặt riêng của mỗi dân tộc chính là các giá trị văn hóa. 1.2. Là một tài năng hiếm có, mang chở cả tâm hồn người mẹ Việt vào những trang thơ, Nguyễn Du cùng các tác phẩm của ông đã trải qua thật nhiều thăng trầm trước khi được công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du, người ta thường nhắc đến kiệt tác Truyện Kiều, rất ít người lưu tâm đến mảng thơ chữ Hán đặc sắc và giá trị của ông. Cũng như vậy, khi nhắc đến Shakespeare “nhà ảo thuật của ngôn ngữ Anh”, người ta cũng thường chỉ quan tâm đến kịch, mảng thơ sonnet và các trường ca thường không được để ý đến hoặc nếu có thì cũng chỉ được nhận xét chung chung. Sự tương đồng về số phận giữa hai mảng sáng tác là khởi đầu của rất nhiều nét chung khác: cả hai nhà thơ đều xuất hiện trong giai đoạn tỏa sáng của văn học hai dân tộc thời kì chế độ phong kiến suy tàn, đều là hai nghệ sĩ tài năng trong việc hoàn thiện ngôn ngữ dân tộc, ý thức về sứ mệnh ngòi bút, khao khát có được sự đồng cảm của người đời và nhất là sáng tác của họ luôn đau đáu những nỗi niềm nhân sinh muôn thuở. Nếu nét tương đồng đưa hai thi hào ở hai miền xa xứ lạ đến gần nhau thì sự khác biệt lại cho phép ta suy nghĩ về đặc trưng tiêu biểu của hai con người thuộc hai nền văn hóa, hai dân tộc. 1.3. Khi Ađam và Êva nhận ra sự trần trụi của mình giữa chốn vườn địa đàng cũng là lúc họ có ý thức về bản thân, ý thức mình là một con người. Khi con người nhận ra sự hữu hạn của mình giữa thế giới bao la, họ có ý thức về thời gian. Đằng sau sự cảm nhận ấy là cả một thế giới quan, nhân sinh quan gắn với khí chất, đời sống riêng tư cũng như đặc điểm dân tộc, môi trường văn hóa của mỗi cá nhân. Không hẹn mà nên, Shakespeare và Nguyễn Du trong thơ mình đều dành mối quan tâm đặc biệt tới thời gian, thể hiện nó như một hình tượng có sức ám ảnh lớn. Cảm thức thời gian có thể xem như một cánh cửa đi vào thế giới nghệ thuật của hai thi sĩ. 2. Lịch sử vấn đề Nguyễn Du và Shakespeare đều là hai thi hào lớn của dân tộc, những công trình nghiên cứu về hai tác giả này rất đồ sộ. Ở đây chúng tôi chỉ quan tâm đến các tài liệu có liên quan đến đề tài. Về thơ chữ Hán Nguyễn Du Để thuận tiện cho việc tìm hiểu, chúng tôi phân tài liệu về thơ chữ Hán Nguyễn Du làm 2 dạng: dạng tài liệu phân tích một vấn đề trong sáng tác Nguyễn Du nói chung hoặc nói về các vấn đề khác nhưng có đả động đến thơ chữ Hán; dạng tài liệu lấy thơ chữ Hán làm đối tượng nghiên cứu chính. Về dạng tài liệu thứ nhất, ý kiến đầu tiên có thể kể đến là những nhận xét xác đáng của Trần Đình Sử trong cuốn Thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Ở phần phân tích về thời gian con người trong thơ ca trung đại, tác giả nhận định: “Phải sang thời kì ý thức cá nhân được khẳng định ở bình diện thân xác như đã nói, ý thức thời gian con người mới được biểu hiện rõ nét trong thơ và đến thời này con người trong thơ mới bắt được cái mạch trong thơ các đời Hán, Ngụy, Đường” [42, tr.209]. Nhà nghiên cứu lấy sáng tác thơ chữ Hán Nguyễn Du làm minh chứng để thấy “Bao trùm lên hết thảy là một cảm thức thời gian tàn, tạ, phôi pha. Đối với Nguyễn Du các đơn vị đo thời gian như năm, tháng, ngày không thật có ý nghĩa. Cái có ý nghĩa sâu sắc là sự đổi thay nhanh chóng, cho nên không phải ngẫu nhiên mà thơ ông đầy mùa thu, buổi chiều, trời đêm, tóc bạc, lá rụng… mọi thứ cứ phôi pha, tàn tạ mà không cách gì dừng lại được” [42, tr.209]. Xem Nguyễn Du như một tác giả tiêu biểu giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX để phân biệt với các nhà thơ ở giai đoạn trước và sau đó, Trần Đình Sử thấy “Nguyễn Du cảm được sự nhỏ nhoi của con người trước thời gian”, “ông thường sử dụng biểu tượng thời gian khái quát”, “thời gian chỉ hủy diệt cuộc đời”, “nhà thơ đau tiếc từng giờ”, “thời gian như giấc mộng” và “Nếu so với thời gian vũ trụ thanh bình, thời gian cá thể là nhỏ nhoi, hữu hạn. Giờ so với sự đổi thay lịch sử, cá thể trở thành vô nghĩa! Nhà thơ cảm thấy kinh sợ thời gian”. Dù mới chỉ dừng lại ở những nhận xét sơ lược, khái quát, song đây cũng là một cơ sở để chúng tôi đi vào tìm hiểu sâu hơn cảm thức thời gian trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Trong luận án tiến sĩ Nguyễn Du và Đỗ Phủ - những tương đồng và khác biệt về tư tưởng nghệ thuật, tác giả Hoàng Trọng Quyền từ chỗ lí giải vai trò của cảm hứng chủ đạo trong tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Du và Đỗ Phủ đã phân tích một số biểu hiện thời gian trong Truyện Kiều và thơ chữ Hán để thấy ở Nguyễn Du “Các mùa xuân, hạ, thu, đông đều nằm trong các tia sáng tham chiếu của cảm thức về thân phận con người” [36, tr.162]. Nguyễn Đăng Thục trong cuốn Thế giới thi ca Nguyễn Du đã gợi lại không khí xã hội thời Lê mạt Nguyễn sơ qua các dẫn chứng lấy từ Hoàng Lê nhất thống chí, từ đó phân tích tâm hồn Nguyễn Du thể hiện qua các sáng tác của ông. Khi nhắc đến thơ chữ Hán, tác giả chủ yếu gắn nó với tâm Thiền như một biện pháp giải thoát của nhà thơ khỏi tình cảnh bế tắc. Về dạng tài liệu thứ hai, có thể kể đến các bài viết: Thơ chữ Hán Nguyễn Du và tâm sự của nhà thơ của Nguyễn Lộc, Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán của Hoài Thanh, Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán của Xuân Diệu, Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán của Nguyễn Huệ Chi, Tâm sự của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán của Trương Chính, Thơ chữ Hán Nguyễn Du của Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán của Đào Xuân Quý, Thơ chữ Hán Nguyễn Du của Mai Quốc Liên… Các bài viết đều đưa ra những nhận định khái quát về thơ chữ Hán Nguyễn Du, khẳng định bên cạnh Truyện Kiều, thơ chữ Hán là một cứ liệu quan trọng nếu muốn thực sự đi sâu vào thế giới tâm hồn, thấu hiểu những suy tư kín đáo của Nguyễn Du. Các tác giả đã phần nào chỉ ra, lí giải thực chất cái gọi là “tâm sự hoài Lê” cùng thái độ chính trị phức tạp trong thơ cụ Nguyễn Tiên Điền. Dù có khi bất đồng ở chỗ này chỗ khác, các ý kiến trên thống nhất với nhau ở một điểm: khẳng định giá trị hiện thực, nhân đạo cùng nét đặc sắc về mặt nghệ thuật của thơ chữ Hán, xem đây như một kho báu còn chưa được khai thác hết và vẫn hứa hẹn những điều bất ngờ. Nhưng công trình công phu, chi tiết về các khía cạnh nghệ thuật thơ chữ Hán phải kể đến là luận án tiến sĩ Ngữ Văn của Lê Thu Yến: Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du. Trên cơ sở xử lí những vấn đề liên quan đến văn bản thơ, tác giả xem xét thơ chữ Hán Nguyễn Du từ góc độ thi pháp trên các phương diện: hình tượng nghệ thuật về con người, thời gian, không gian nghệ thuật, ngôn ngữ. Trong phần thời gian nghệ thuật, tác giả đã phân tích thời gian úa tàn, thời gian kí ức, thời gian khoảnh khắc để làm rõ cái nhìn riêng của nhà thơ đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tác giả có một số nhận định sâu sắc: “Qua khung thời gian được vẽ ra trong thơ, chúng ta thấy rõ ràng dấu tích của con người cá nhân với những bứt phá vượt thời đại. Con người cá nhân ấy luôn vùng vẫy, cựa quậy, quay đầu về quá khứ, trực diện với hiện tại, đánh dấu hỏi vào tương lai… nhưng chưa đủ mạnh để có thể lật tung mọi ngõ ngách tâm hồn, tự mình tìm khắc khoải giữa đời hoặc tiến lên một bước đấu tranh giành quyền sống quyết liệt như con người của thế kỉ XX” [52, tr.140]. Công trình gần đây nhất về thơ chữ Hán là cuốn Đọc và dịch thơ chữ Hán của Thảo Nguyên. Bên cạnh các bài dịch thơ, tác giả cũng đưa ra một số lời bình chú có phần nghiệp dư nhưng nếu chú ý ta sẽ thu được một vài suy ngẫm thú vị. Ngoài ra còn có một số luận văn như luận văn thạc sĩ của Vũ Thu Hường: Tìm hiểu phạm trù Tha trong việc biểu hiện ý thức cá nhân trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, luận văn tốt nghiệp của Nguyễn Thị Thanh Thảo: Giọng điệu nghệ thuật trong thơ chữ Hán Nguyễn Du cùng một số bài viết đăng trên các báo và tạp chí chủ yếu tìm hiểu một tác phẩm hoặc một vấn đề riêng. Về thơ sonnet Shakespeare Chúng tôi cũng phân chia tài liệu về thơ sonnet Shakespeare thành hai loại: tài liệu bằng tiếng Việt và tài liệu bằng tiếng Anh. Tài liệu bằng tiếng Việt Sonnet là thể thơ rất phổ biến ở phương Tây nhưng ở Việt Nam, thể thơ này chưa thực sự được biết đến một cách rộng rãi. Shakespeare nổi tiếng ở Việt Nam từ cách đây hơn một thế kỉ, tuy nhiên người ta biết đến ông chủ yếu với tư cách là nhà viết kịch. Đến nay hầu hết các tác phẩm kịch của ông đã được dịch ra tiếng Việt, còn sonnet Shakespeare thì vẫn chưa có bản dịch nghĩa nào mà chủ yếu là dịch thơ 1. Tài liệu bằng tiếng Việt về thơ F 0 P P sonnet Shakespeare do vậy càng hiếm hơn nữa. Tài liệu sớm nhất mà chúng tôi tìm được là cuốn Khái niệm về ngôn ngữ và thi pháp Anh của tác giả Đỗ Khánh Hoan – Trưởng ban văn hóa Anh – Mĩ Đại học Văn khoa Sài Gòn, xuất bản lần đầu năm 1971, được sửa chữa và in lần thứ hai năm 1974. Trong cuốn sách này, tác giả đã phân tích quá trình lịch sử của ngôn ngữ Anh, nêu lên một cách khá đầy đủ các hình thức thi ca Anh, trong đó có sonnet mà ông gọi là thể “thập tứ hàng thi”. Khi nhận xét sơ bộ tiến trình phát triển của thể sonnet, ông có nhiều nhận định đáng chú ý: “Thập tứ hàng thi (Anh) kiểu Shakespeare và thập tứ hàng thi kiểu Milton là những biến đổi đầy tính cách thí nghiệm đã được công nhận, bởi vì có nhiều bài thơ giá trị đã được sáng tác theo khuôn khổ này; tuy nhiên, nếu không có Shakespeare và Milton chắc uy tín của chúng chưa hẳn lộng lẫy như thế” [19, tr.117]. Tác 1 Tuyển tập Shakespeare in năm 2006 cũng chỉ có kịch. giả cũng khẳng định: “Cũng như trong các kịch phẩm, qua tập thập tứ hàng thi gồm 154 bài, Shakespeare tỏ ra hiểu cuộc đời, hiểu trái tim con người hơn ai hết. Thêm vào đó ông đã sử dụng một thứ ngôn từ thật thi vị đơn giản nhưng trau chuốt. Không kể 37 kịch phẩm bất hủ, riêng thi phẩm này đã đủ đưa Shakespeare lên hàng thi hào của Anh quốc” [19, tr.119]. Do giới hạn của một cuốn sách khái quát về một đối tượng thuộc phạm vi rộng, tác giả không đưa ra dẫn chứng, cũng không phân tích, song các nhận xét của ông đã giúp chúng tôi rất nhiều trong bước đầu tìm hiểu sonnet Shakespeare. Tài liệu thứ hai có thể kể đến là cuốn W. Secxpia thơ xônê chọn lọc của dịch giả Thái Bá Tân. Tác giả đã chọn dịch 77 bài sonnet tiêu biểu của Shakespeare kèm theo lời giới thiệu nhiều tâm huyết. Trong phần này, Thái Bá Tân có giới thiệu sơ bộ về hình thức, bố cục và những yêu cầu nghiêm nhặt đã trở thành bắt buộc của thể sonnet cùng quá trình phát triển của nó và đi vào sonnet Shakespeare : “Nhìn chung, mặc dù chủ đề xen kẽ nhau khá phức tạp, đại khái ta có thể chia toàn tập 154 bài xônê của Shakespeare thành hai phần lớn – một phần nói về người bạn, và phần kia nói về người yêu. Cụ thể hơn, có thể chia thành từng nhóm như sau: - Từ xônê 1 đến xônê 26: ca ngợi vẻ đẹp của bạn, thuyết phục bạn lấy vợ, có con để truyền lại vẻ đẹp ấy cho các thế hệ sau - Từ xônê 27 đến xônê 32: nỗi buồn xa cách - Từ xônê 33 đến xônê 42: những nghi ngờ và rạn nứt đầu tiên trong tình bạn - Từ xônê 43 đến xônê 75: nỗi buồn và lo sợ - Từ xônê 76 đến xônê 96: lòng ghen tuông và đố kị đối với các nhà thơ khác - Từ xônê 97 đến xônê 99: mùa đông của sự chia li - Từ xônê 100 đến xônê 126: niềm vui của tình bạn được khôi phục - Từ xônê 127 đến xônê 127 đến xônê 152: tình cảm mâu thuẫn của nhà thơ đối với người yêu: “the Dark Lady” - Hai bài 153 và 154 là hai xônê kết, ít liên quan đến toàn bộ “cốt truyện”, chủ yếu phỏng theo các bài xônê cổ điển có trước” [43, tr.14 – 15]. Nhà nghiên cứu cũng chia sẻ những khó khăn trong quá trình đến với tác phẩm để thấy: “Cho đến nay chưa hề có bản dịch thơ Sêxpia nào ra tiếng Việt, nghĩa là chúng ta hoàn toàn chưa biết đến một Sêxpia khác cũng vĩ đại như Sêxpia kịch, đó là Sêxpia thơ trữ tình. Nguyên nhân thì nhiều, nhưng có lẽ nguyên nhân cơ bản nhất là ở chỗ dịch thơ xônê của Sêxpia rất khó, hầu như vượt ra ngoài khả năng của người dịch, ngay cả những người dịch tài năng và kinh nghiệm.” [43, tr.17]. Có thể nói trong tình hình tư liệu tiếng Việt còn ít ỏi, cuốn sách của Thái Bá Tân là một tư liệu quý đối với quá trình nghiên cứu của chúng tôi. Ngoài ra chúng tôi còn được biết đến báo cáo khoa học của sinh viên trường Đại học Phú Xuân Nguyễn Thị Thu Cúc: Thời gian trong sonnet của Shakespeare. Người viết có nêu ra nhận xét về các chiều thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai cùng khát vọng vĩnh cửu của nhà thơ cũng như một số phương thức thể hiện thời gian trong sonnet. Tuy một số nhận xét chưa thật chính xác vì người tìm hiểu mới chỉ tiếp cận văn bản qua bản dịch thơ và do giới hạn của một báo cáo khoa học sinh viên nhưng có thể nhận thấy ở đây niềm say mê và sự cố gắng đưa sonnet đến gần hơn với độc giả. Tài liệu bằng tiếng Anh Về Shakespeare, các tư liệu khi nhắc đến thơ sonnet thường khái quát chúng thành các nhóm bài có chủ đề chung. Các nhà nghiên cứu chủ yếu chú ý đến vần, nhịp thơ cùng các nhân vật bí ẩn “a young man” và “a sensual woman” là đối tượng mà Shakespeare muốn gửi gắm, nhắn nhủ trong các bài thơ của mình. Yếu tố thời gian nếu có được nhắc đến cũng chỉ được xem là một đề tài bên cạnh các đề tài khác. Công trình nghiên cứu công phu và kĩ lưỡng về thơ sonnet Shakespeare được nhiều người nhắc đến là của Giáo sư Đại học Harvard Helen Vendler: The art of Shakespeare’s sonnets. Trong cuốn sách này, bằng việc diễn giải chi tiết 154 bài sonnet của Shakespeare, nhà nghiên cứu đã chỉ ra những hình tượng được ẩn giấu và đặc điểm phong cách các bài thơ, nêu lên được những tầng nghĩa quan trọng trong mỗi dòng thơ cũng như cách các phần kết hợp với nhau để tạo ra ý nghĩa. Mark Van Doren – nhà Shakespeare học nổi tiếng trong cuốn Shakespeare, phần nghiên cứu về thơ ca (poems) có nhận xét khái quát: “Đơn chủ đề lớn nhất trong sonnet là Thời gian với bước chân nhanh chóng, khủng khiếp. Thời gian là thứ có khả năng vẽ đường chết trên khuôn mặt (tạo ra nếp nhăn), phá sập tận gốc thành quả mọi công trình, làm tàn héo hoa hồng, mang mùa đông đến sau xuân và tạo ra bản nhạc chung trong đó cả thế giới rên rỉ bước đi tới điểm kết thúc. Dưới ảnh hưởng của tên bạo chúa khát máu này, Shakespeare đã sáng tác những bài sonnet được biết đến nhiều nhất, trong chừng mực chuỗi các bài thơ thống nhất với nhau ở chủ đề sự phá hủy của thời gian. Cái chết của ngày và mùa, sự sinh sôi và tàn lụi của cây (và của con người giống như cây), gương mặt bị tàn phá, bờ biển bị tàn phá, cuốn sử biên niên của thời gian bị lãng phí, sự tàn tạ và cái chết của chính nhà thơ, nỗi mất mát những người bạn quý, nỗi đau buồn, cô đơn và sự hủy diệt – tất cả được viết bằng ngôn ngữ tuyệt nhất của nhà thơ – thứ ngôn ngữ được dùng để nói về những điều không thể nói hay hơn, hoặc với một tình yêu sâu sắc hơn 2”[59, tr.6 – 7]. G. Wilson Knight F 1 P P trong cuốn The Mutual Flame on Shakespeare ‘s sonnets and The Phoenix and the Turtle, ở phần nghiên cứu về sonnet đã dành một chương để nói về vấn đề “time and eterniry” (thời gian và sự trường tồn bất diệt). Theo tác giả, thời gian, cái chết và sự bất diệt (time, death and eternity) là ba vấn đề lớn của sonnet. Nhà nghiên cứu đã đi vào các bài thơ xuất hiện hình ảnh thời gian và chỉ ra “Hình ảnh so sánh cuộc sống con người với sự thay đổi theo mùa hay theo ngày được nhấn mạnh từ đầu chí cuối” 3[63, tr.71], “dù nhanh hay F 2 P P chậm, có một điều chắc chắn: thời gian không bao giờ ngừng nghỉ” 4[63, tr.74], nó “là sự 3F P P liên tục huyền bí trong đó cả tự nhiên bị bao chứa và giới hạn” 5 [63, tr.73]. Tác giả cũng F 4 P P liên hệ với các vở kịch của Shakespeare: Antony and Cleopatra, Henry IV, Richarch II, Troilus and Cressida… để cho thấy trong toàn bộ các tác phẩm Shakespeare, thời gian là một mối quan tâm lớn. Bằng những phân tích sâu sắc và một cái nhìn hệ thống, nhà nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố truyền thống cũng như cách tân trong sử dụng hình ảnh miêu tả thời gian của Shakespeare. Trong cuốn Shakespeare’s sonnets, Tiến sĩ James K. Lowers của Đại học Hawaii có đưa ra những kiến giải về các vấn đề cơ bản nhất của sonnet Shakespeare: thời điểm sáng tác (date of composition); trật tự và cách sắp xếp (order and arangement); các nghi vấn mang tính tự truyện (question of autobiography) liên quan tới các nhân vật “the fair young man”, “the dark lady”, “the rival poet”; các chủ đề nổi trội (dominant themes) và tập hợp các bài phê bình hay của các nhà nghiên cứu. Tác giả xem ba trong số các chủ đề nổi trội của sonnet Shakespeare là sự bất tử qua thế hệ sau (immortality through offspring), sự bất tử qua thơ ca (immortality through verse), sự bất tử qua tình yêu (immortality through love). Khát vọng bất tử này có nguyên nhân từ việc nhận thức về thời gian như một kẻ thù: “Trong hầu hết các bài thơ đầu của tập sonnet, thời gian là kẻ thù lớn của tuổi trẻ và cái đẹp. Nhà thơ, giống như rất nhiều các thi sĩ cùng thời, nhìn với sự đau đớn, lo lắng trước sức mài mòn của thời gian (đối với vạn vật) và đi tìm câu trả lời làm thế nào đánh bại hắn 2 The great single subject of the sonnets is Time, swift – footed, terrible. Time that writes death on faces, roots out the work of masonry, fades roses, brings winter after spring, and makes in general the music to which all the world marches groaning to its end. Under the wing of this bloody tyrant Shakespeare has composed the sonnet which the world knows best; in so far as the sequence has unity it is organized about the theme of Time’s decay. The death of days and seasons, the springing and the withering of plants (and of men as plants), ravaged faces and ravaged shores, the chronicle of wasted time, the poet’s own decline and death, the loss of precious friends, woe, loneliness, and doom – the are the grammar of the poet’s finest language, a language which he is using to say what has never been said better of with profouder love. 3 The comparison of human life to seasonal or diurnal change is emphatic throughout. 4 Slow or fast, one thing is certain: Time is “never - resting” (sonnet 5). 5 Time is a mysterious continuum within which all nature is contained and limited. để tuổi thanh xuân cũng như vẻ đẹp được bảo tồn. Ở tập thơ của Shakespeare, ba câu trả lời được đưa ra 6”[64, tr.27]. Không dừng ở các nhận xét, tác giả còn có sự thống kê: “Thật F 5 P P thú vị khi khám phá ra rằng từ sonnet 1 đến sonnet 126 từ “time” được sử dụng 78 lần và không chỉ xuất hiện một lần trong các bài còn lại. Trong số các bài thơ đầu này, có 9 bài phát triển chủ đề về sức mạnh của thơ ca chiến thắng thời gian, thứ nhiều lần được miêu tả bằng những từ khác nhau như “mau lẹ”, “có khả năng phá hủy 7” [64, tr.30]. 6F P P Cũng theo các cuốn sách này, có khá nhiều tài liệu trực tiếp đề cập đến thơ sonnet Shakespeare nhưng đều xuất bản ở nước ngoài nên chúng tôi chưa có cơ hội tiếp cận. Các tài liệu đã có đều là những gợi ý quý báu cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Tóm lại qua các tư liệu ta đều thấy được thời gian là một vấn đề rất quan trọng cả trong sáng tác của Nguyễn Du lẫn Shakespeare. Tuy nhiên, việc phân tích cảm thức thời gian trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare bằng cái nhìn so sánh vẫn còn là một mảnh đất trống để chúng tôi tìm hiểu, tuy chắc chắn còn nhiều bập bõm và không thể toàn diện. 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu Mục đích của luận văn là tìm hiểu những nét tương đồng, dị biệt trong cảm thức thời gian giữa thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare, cố gắng phần nào phân tích và lí giải chúng từ nhiều góc độ. Đối tượng chính của luận văn là ba tập thơ chữ Hán Nguyễn Du: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục và 154 bài thơ sonnet Shakespeare. Các mảng sáng tác khác chỉ có thể xem là tài liệu tham khảo. Cho nên trong phần trình bày, khi nhắc đến thơ Nguyễn Du và thơ Shakespeare là chúng tôi muốn nhắc đến các đối tượng này, không phải thơ hai tác giả nói chung. Như cái tên của đề tài, trong luận văn này, chúng tôi giới hạn sự tìm hiểu ở vấn đề thời gian, cụ thể là cảm thức thời gian trong sáng tác của hai nghệ sĩ lớn. Về thơ chữ Hán 6 In the first large division of the Sonnets, Time is the great enemy of youth and beauty. The Poet, like so many of his contemporaries, viewed with pain and sorrow the corrosive effects of Time and sought answers to the question of how it could be defeated and youth and beauty preserved. In Shakespeare’s sequence three answers are propounded. 7 It is not without interest to find that the word time is used sevety – eight times in sonnet 1 – 126 and not once in the remainings sonnets. Of this first large group, nine develop the theme of poetry’s power to conquer Time, which is variously described as “swift - footed” and “devouring”. Nguyễn Du, chúng tôi sử dụng cuốn Nguyễn Du toàn tập (tập 1) do Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân chủ biên. Về văn bản thơ sonnet Shakespeare, do chưa có bản dịch nghĩa tiếng Việt, chúng tôi sử dụng nguyên bản tiếng Anh từ cuốn Shakespeare’s sonnets của nhà xuất bản Đại học Yale và mạnh dạn đưa ra một hướng dịch của mình trên cơ sở tham khảo một số tài liệu đáng tin cậy. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Ý nghĩa khoa học: Bằng kết quả khảo sát, phân tích, người viết mong chỉ ra những nét đặc sắc trong cảm thức thời gian ở hai tác giả, đặc biệt nhấn mạnh những chỗ tương đồng và dị biệt, phần nào chỉ ra nguyên nhân cũng như ý nghĩa của nó. Ý nghĩa thực tiễn: góp thêm một phần nhỏ đưa thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare đến gần hơn với độc giả, góp phần vào việc tìm hiểu cũng như giảng dạy thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare trong trường phổ thông và đại học. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp sau: - Phương pháp thống kê, phân loại: dùng để thống kê các câu thơ, bài thơ thể hiện cảm thức thời gian trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare, sau đó hệ thống hóa, đặt chúng vào các nội dung chung phục vụ cho mục đích nghiên cứu. - Phương pháp so sánh: đặt sáng tác của Shakespeare và Nguyễn Du trong cái nhìn tương quan để tìm ra những nét tương đồng, dị biệt. Vì không tìm thấy dấu vết ảnh hưởng của Shakespeare tới Nguyễn Du, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh về mặt loại hình, lí giải các tương đồng, dị biệt từ các hiểu biết về tiểu sử nhà văn cũng như đặc điểm xã hội, môi trường văn hóa mà nhà văn sống. Bên cạnh đó, đặt hai tác giả này trong mối quan hệ với các nhà thơ xuất hiện trước và sau họ để thấy nét độc đáo trên cái nền chung của thời đại cũng như trong tiến trình lịch sử văn học. - Phương pháp phân tích – tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong luận văn nhằm kết hợp phân tích dẫn chứng với việc đưa ra những nhận định ở các chương, các phần. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Những vấn đề chung - Chương 2: Những gặp gỡ tình cờ giữa thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare về cảm thức thời gian - Chương 3: Dấu ấn cá nhân trong cảm thức thời gian ở thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Nguyễn Du và thơ chữ Hán 1.1.1. Nguyễn Du Người ta đã thấy trong thơ Hồ Xuân Hương nỗi khát khao hạnh phúc của một người phụ nữ tình duyên dang dở, trong thơ Nguyễn Khuyến một ông lão vừa tha thiết với “vườn Bùi chốn cũ” vừa đầy tâm sự thời thế nặng sâu..., và cũng không khó để thấy trong thơ Nguyễn Du những dấu ấn tiểu sử đậm nét, bởi giống như đứa con do người mẹ bao ngày thai nghén, tác phẩm dù mang tính độc lập đến đâu cũng không thể tách hoàn toàn khỏi người đã sinh thành ra nó. Cho nên nghiên cứu tác phẩm Nguyễn Du, ta không thể không tìm hiểu các chi tiết đời tư có ảnh hưởng đến thơ ông. Chúng có thể được trình bày tường tận trong rất nhiều tài liệu, song ở đây chúng tôi chỉ nhấn mạnh một vài chi tiết có thể ít nhiều liên quan đến cảm nhận thời gian của thi sĩ. Nguyễn Du sống vào khoảng 30 năm cuối thế kỉ XVIII, 20 năm đầu thế kỉ XIX – một thời kì bão táp trong lịch sử dân tộc với những biến thiên khôn lường của thời cuộc. Những cuộc tranh giành quyền bính diễn ra trong phủ chúa Trịnh, sự nổi lên rồi bị dập tắt của đám kiêu binh, sấm sét từ triều đại Tây Sơn rồi ngay sau đó là sự suy tàn của triều đại ấy, sự tiếp nối của nhà Nguyễn, biết bao cuộc khởi nghĩa nông dân, bạo loạn, li tán liên miên cuốn ông đi như dòng thác cuốn một cánh bèo đơn chiếc. Tưởng như chỉ trong chớp mắt mà đã có bao cuộc tang thương dâu bể diễn ra mà con người lại không thể dự đoán được chiều hướng của nó 8. Biến động là vậy mà cuối cùng vẫn là một triều đại phong kiến F 7 P P Thời Lê mạt, Nguyễn sơ là một thời kì vô cùng hỗn loạn, khi tất cả các quan hệ rường mối (vua – tôi, quân – thần, phụ - tử…) bị đảo lộn, không còn ý nghĩa. Có thể thấy điều ấy qua đoạn tả cảnh chạy loạn của Lê Chiêu Thống được ghi lại trong Hoàng Lê nhất thống chí: “Hoàng thượng (Lê Chiêu Thống) và Hoàng thái hậu chờ ở bờ sông lâu lắm (sông Như Nguyệt) không thấy có đò, Hoàng thượng liền cho vời Thược (Nguyễn Cảnh Thược trấn thủ Kinh Bắc) đến hỏi, Thược thưa: - Các thuyền đều không ở đây, bệ hạ muốn gấp sang sông, xin hãy cho thần ít nhiều vàng lụa thì mới thuê được. Nếu không dẫu đến sáng mai cũng vẫn ở đây. Giá như quân giặc đuổi đến, thần xin dùng cái chum gỗ để đưa bệ hạ qua sông, chỉ e rằng những đồ ngự dụng không thể giữ được mà thôi. Hoàng thượng nói: - Trẫm có cả nước cũng không giữ nổi, còn tiếc cái gì? Tức thì ngài sai mở hòm cho xem. Trong đó chỉ có một chiếc truyền quốc ngọc tỉ 40 lạng vàng mà thôi. Ngài bảo Cảnh Thược: - Đấy người muốn lấy gì thì lấy. Thược thưa: - Mong ơn bệ hạ ban cho, thần xin chia lấy một nửa. 8 nối tiếp trị vì, mọi thứ rồi quay về quỹ đạo cũ, không biết bao giờ kết thúc. Thời gian vừa tuần hoàn lại vừa biến động, con người chẳng thể điềm nhiên nhìn thế sự xoay vần, nhưng càng không thể lay chuyển được gì, chỉ có thể “trông thấy mà đau đớn lòng”. Cuộc đời Nguyễn Du do đó cũng thăng trầm theo thời cuộc. Sống sung túc trong cảnh xa hoa không được bao lâu, ông đã sớm nếm trải cảm giác mất mát của một đứa trẻ mồ côi, một kẻ sĩ bất đắc chí, một hành nhân lưu lạc khắp chốn cùng nơi, một thi nhân thấy chữ nghĩa chẳng ích lợi gì trong thời loạn lạc dù vẫn luôn “vô hạn cảm” 9 với đời. Có lẽ cũng F 8 P P giống như Kiều, Nguyễn Du cứ mãi đi tìm một chỗ neo đậu trong đời mà kết cục chỉ bị đẩy lăn vào chốn phong trần. Kiều yêu Kim Trọng nhưng lúc nguy biến Kim Trọng không cứu vớt được đời nàng. Mối tình với Từ Hải chỉ là một giấc mơ ngắn ngủi, còn tình với Thúc Sinh không thể vẹn tròn vì Kiều là kẻ đến sau, dẫu chấp nhận tủi hổ bẽ bàng cũng chẳng được yên thân với duyên thừa phận hẩm. Để rồi cuối cùng cô Kiều truân chuyên hay chính là chàng Nguyễn đa đoan chấp nhận sự tái hợp muộn màng gượng gạo với người tình xưa – mà thực chất đã chẳng như xưa. Sự trọng dụng của triều đình nhà Nguyễn sau này không đem đến cho Nguyễn Du niềm an ủi hay nhiệt huyết cống hiến. Có lẽ quá mệt mỏi, Nguyễn Du tự khép mình làm một kẻ khờ để tránh sự ghen ghét của hóa công. Đời vừa như mộng vừa như một cuộc đi đày mãi không hết hạn, người vừa nặng lòng với nhân gian vừa chán ghét cảnh thị phi, nhà thơ bơ vơ giữa dòng nhân thế mà khóc mà cười mà than thở. Tiếp thu truyền thống học vấn của gia đình cộng với bao năm trên đường gió bụi, hòa vào đám người tha hương chạy loạn khắp nơi, Nguyễn Du tinh thông cả Nho, Phật, Đạo. Các nhà Nho đắn đo trước sự trôi chảy của thời gian nhưng chủ yếu quan tâm đến sự hưng vong hay thành bại của các triều đại, thời gian đời người trong mắt họ là thời gian để thực hiện cái tâm, cái chí của bậc quân tử, kẻ trượng phu. Đạo gia lại khuyên con người quay trở về với bản nguyên, tìm giải thoát giữa thiên nhiên, vũ trụ bao la trong cảm giác “vô thời gian” ung dung, tự tại. Phật giáo xem thời gian là bánh xe luân hồi không dứt trong đó đời người chỉ là một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi. Chỉ có vượt qua được cái nhìn nhị nguyên phân biệt: quá khứ - hiện tại, già – trẻ, dài – ngắn... con người mới được giải thoát. Cái cố Nhưng mà Hoàng thượng cho cả. Thược bèn gọi lái đò đến bến, chở Hoàng thượng và Hoàng hậu sang. Khi thuyền đến bờ, Thược lại cho người đuổi theo lột tấm ngự bào của Hoàng thượng đang mặc. Ngài ứa nước mắt cởi ra trao cho hắn” (dẫn lại theo Nguyễn Đăng Thục [45, tr.34 – 35]. 9 Ý thơ Nguyễn Du trong bài Độ Phú Nông giang cảm tác: Du nhân vô hạn cảm Phương thảo biến thiên nhai chấp với cương thường của nhà Nho 10, cái thiên hướng “vô vi”, muốn giữ thiên tính tự nhiên 9F P P của Đạo và tinh thần từ bi hỉ xả, thương khắp cả chúng sinh đã trộn lẫn thật kì lạ trong một con người theo một công thức mà ta không thể lí giải. Tóm lại, ở Nguyễn Du, người ta thấy một loạt các nghịch lí: sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, quyền thế bậc nhất lúc đương thời, có truyền thống cả về văn chương lẫn khoa cử 11, nhưng Nguyễn Du lại phải sống long đong lận đận, chạy loạn khắp nơi, nhiều khi F 0 1 P P đói không cơm ăn, bệnh không thuốc uống, vào tù ra tội; tuổi trẻ từng khao khát đem tài năng giúp đời giúp nước nhưng vì thời thế nên đành nhìn thanh kiếm mà rơi lệ ; bản tính vốn thanh sạch, chỉ muốn quanh năm làm bạn với làn mây núi Hồng, với người đánh cá, người hái củi, nhưng vì miếng cơm manh áo, Nguyễn Du cho đến bạc đầu vẫn mãi bon chen giữa chốn bụi hồng; là con người nhạy cảm, yêu cái đẹp, vậy mà Nguyễn Du cứ luôn phải chứng kiến những bất công, ngang trái giáng xuống cho người tài hoa... Vốn kiến thức, vốn sống hấp thu được từ quê hương, dòng họ, gia đình cũng như từ bao năm tháng lưu lạc đã khiến ông trở thành một con người trải đời, với “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” hiếm có. Các phức hợp đời tư này sẽ khúc xạ một cách đầy đủ qua các sáng tác Nguyễn Du, đặc biệt là thơ chữ Hán mà vấn đề thời gian không là một ngoại lệ. Từ đó ta hiểu được, những điều được phản ánh trong văn chương của ông đều là các suy tư thấm thía chắt lọc từ cuộc đời, dù buồn hay vui, chúng không bao giờ có hơi hướng giả tạo. 1.1.2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du Thơ chữ Hán Nguyễn Du gồm ba tập: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục, được làm trong thời gian từ năm nhà thơ 21 tuổi đến năm 49 tuổi (theo Lê Thước, Trương Chính). Các tập thơ theo sát cuộc đời gian truân, chìm nổi của nhà thơ. Thanh Hiên thi tập được làm từ thời kì đầu đến trước khi Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn, Nam trung tạp ngâm được viết trong thời gian ông làm quan ở Huế và Quảng Bình, Bắc hành tạp lục là tập thơ ra đời khi nhà thơ đi sứ ở Trung Quốc. Cho đến nay, có khá nhiều bản dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du của các nhà nghiên cứu Hán học: bản dịch của Theo gia phả họ Nguyễn Tiên Điền, Nguyễn Du từng chạy theo Lê Chiêu Thống nhưng không kịp, cũng đã từng có ý định chống lại Tây Sơn hòng “phục quốc” nên bị bắt giam. 11 Đương thời người ta còn lưu truyền câu ca về dòng họ Nguyễn Tiên Điền: Bao giờ ngàn Hống hết cây Sông Rum hết nước họ này hết quan 10 Bùi Kỉ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh (1959) gồm 102 bài, bản dịch của Lê Thước, Trương Chính (1965) gồm 249 bài, bản dịch của Quách Tấn (1973) gồm 92 bài, bản dịch của Đào Duy Anh (1988) gồm 249 bài, bản dịch của nhóm Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Lê Thu Yến… gồm 250 bài. Ngoài ra còn các bản dịch thơ mang tính ngẫu hứng của những người yêu mến Nguyễn Du như : Trần Văn Nhĩ (2007), Thảo Nguyên (2009). Có lẽ con số này đến đây vẫn chưa phải đã chấm dứt. Với sức hấp dẫn của chữ Hán Nguyễn Du, ta hoàn toàn có cơ sở tin tưởng trong tương lai, các tác phẩm vẫn sẽ tiếp tục giành được sự quan tâm của người đọc nhiều thế hệ. Về nguồn gốc và đặc điểm thể loại, trong các tập thơ chữ Hán, Nguyễn Du sử dụng các thể thơ vay mượn từ Trung Quốc, chủ yếu là tứ tuyệt và bát cú Đường luật. Đây đều là những thể loại có quy định chặt chẽ về niêm, luật, vận, đối, số chữ trong câu, số câu trong bài. Về nội dung, thơ chữ Hán Nguyễn Du viết về số phận cực khổ long đong của những người dân thường bất hạnh, người tài hoa bạc mệnh và cả những nhân vật mà nhà thơ khi tán thành, khi phê phán trong lịch sử Trung Quốc. Như có một thiết bị thu phát nhạy cảm từ trái tim, Nguyễn Du đặc biệt dễ cảm thông với những khó khăn, vất vả của mọi kiếp người. Nếu Văn chiêu hồn là khúc ca đầy ưu ái dành cho người chết thì thơ chữ Hán là tác phẩm trong đó Nguyễn Du chia sẻ niềm yêu thương với những con người đang ngày ngày đối mặt với cõi hồng trần khắc nghiệt. Ông thương cho mẹ con người ăn xin lưu lạc quê người áo quần lam lũ, trưa rồi vẫn không có gì ăn (Sở kiến hành), ông thay lời người lính thú bao năm xa nhà bày tỏ tâm sự như Ban Siêu đầu bạc mong chi ngày trở về quê hương (Đại tác cửu thú tư quy), ông cũng xót xa khi chứng kiến cha con người hát rong miệng sùi bọt, tay mỏi rời, gắng hết tâm sức gần một trống canh mà chỉ được năm sáu đồng tiền nhưng vẫn rối rít cảm ơn, trong khi mọi người ăn uống thỏa thuê, còn cơm thừa canh cặn đổ cả xuống sông (Thái Bình mại ca giả), cho đến cả con ngựa già bị bỏ quên dưới chân thành, con chó chết… Nguyễn Du cũng dành tình cảm cho chúng. Trong Độc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du từng thổ lộ: “Phong vận kì oan ngã tự cư” (Ta tự đặt mình vào vị trí những người mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã). Như một sự “đồng bệnh tương liên”, hay như Thúy Kiều thấy mộ Đạm Tiên đã có cảm giác của những người cùng hội, nhà thơ tìm thấy rất nhiều người đồng cảnh ngộ - người tài hoa bạc mệnh, xót thương họ cũng là xót thương cho mình. Người tài hay khác người, khác đời, và chính cái khác đó đem bi kịch đến cho họ: Khuất Nguyên một mình tỉnh trong khi những kẻ khác say nên đành ôm hận bên dòng Mịch La, Đỗ Phủ vì văn chương hơn người mà cả đời cùng khổ… Dường như mang trong mình thiên tính nữ vốn là một đặc điểm trong tâm hồn người phương Đông, Nguyễn Du cũng hay viết về những người phụ nữ tài sắc nhưng phải chịu một số phận bi thảm: nàng Tiểu Thanh chết trong cô độc trên núi Cô Sơn, Tây Hồ, Dương Quý Phi tức tưởi kết thúc cuộc đời ở đền Mã Ngôi, chịu mang tiếng xấu oan ức chỉ vì cả triều đình bất tài bạc nhược dồn trách nhiệm lên đầu nàng, người ca nữ đất La Thành như một cành hoa thắm đẹp từ cõi tiên rơi xuống, lúc sống làm vui cho đời nhưng khi chết đi chỉ mang tiếng là người trăng gió, cô Cầm từng nức tiếng kinh thành Thăng Long một thời nhưng cảnh huy hoàng chẳng kéo dài mãi, đến khi nhà thơ gặp lại đã biến đổi cả hình hài vóc dáng, tàn tạ dung nhan, chỉ còn lại tiếng đàn giúp ông nhận ra người cũ... Trên con đường đi sứ, qua nơi nào Nguyễn Du cũng làm sống lại các nhân vật tưởng đã chìm trong dòng lịch sử để đánh giá họ từ góc độ văn hóa, nhân văn. Những con người từng sống và chết: Kinh Kha, Dự Nhượng, Quản Trọng, Kê Khang, Lạn Tương Như, Liêm Pha, Tào Tháo, Tần Cối, Âu Dương Văn Trung… qua thơ ông khiến người đọc suy nghĩ khôn nguôi về lẽ biến dịch, cái mất – còn, thịnh – suy, vinh – nhục… trên đời. Nguyễn Du viết Truyện Kiều, gửi gắm vào đó bao tâm sự, nhưng vẫn chỉ coi đây là tác phẩm “lời quê chắp nhặt dông dài” để “mua vui” cho người đọc “một vài trống canh”. Lời ấy vừa thể hiện sự khiêm tốn, nhưng đồng thời cũng phần nào cho thấy quan niệm của người xưa: tác phẩm chữ Nôm được viết để giải trí, còn tác phẩm chữ Hán mới thực sự là tác phẩm chuyển tải hết nỗi niềm nhà thơ. Quả thực, đọc thơ chữ Hán, ta thấy “nhân vật” chủ yếu vẫn là chân dung tinh thần của chính nhà thơ qua bao thăng trầm cuộc sống. Độc giả bắt gặp ở đây một con người bản tính thâm trầm lặng lẽ, ý thức rất rõ tài năng, giá trị của mình nhưng nhiều khi bất lực trước thời cuộc nên chưa già mà tóc đã sớm bạc, không lúc nào không suy tư với nhiều mặc cảm chất chứa chẳng biết giãi bày cùng ai vì không có được người tri âm tri kỉ trong hiện tại. Các tác phẩm thể hiện nhiều tâm sự u uất và những nỗi niềm khó tỏ bày, lí giải. Phảng phất trong các bài thơ là một tấm lòng xót thương vô hạn trước những bi kịch cõi nhân sinh, một cái nhìn riêng phần nào vượt thoát ra khỏi giới hạn của thời đại, dù còn chất chứa không ít bế tắc. Về nghệ thuật, dù vay mượn thể loại của văn học nước ngoài, nhưng Nguyễn Du đã thổi vào đó tâm hồn, cách cảm, cách nghĩ của người Việt. Thơ ông có nhiều đóng góp đặc sắc về ngôn ngữ, kết cấu…Nói như nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên: “Thơ chữ Hán Nguyễn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan