Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng...

Tài liệu Cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng

.DOC
108
209
108

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH LÊ THỊ THÙY LINH LUẬN VĂN THẠC SỸ CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ VƯƠNG TRỌNG CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.01.21 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN VĂN HẠNH NGHỆ AN, 2014 MỤC LỤC MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................... 2. Lịch sử vấn đề.............................................................................................. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................... 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 6. Cấu trúc luận văn...................................................................................... Chương 1: CON ĐƯỜNG THƠ VƯƠNG TRỌNG................................... 1.1. Vài nét về cuộc đời và con người Vương Trọng...................................... 1.1.1. Về cuộc đời.................................................................................... 1.1.2. Những phẩm cách cá nhân............................................................ 1.2. Đường thơ Vương Trọng ......................................................................... 1.2.1. Quan niệm thơ Vương Trọng........................................................ 1.2.2. Các chặng đường thơ.................................................................... 1.3. Hai cảm cảm hứng chủ đạo trong thơ Vương Trọng............................... 1.3.1. Cảm hứng sử thi............................................................................ 1.3.2. Cảm hứng thế sự – dòng mạch chính trong thơ Vương Trọng...... Chương 2: CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ VƯƠNG TRỌNG NHÌN TỪ ĐỀ TÀI VÀ GIỌNG ĐIỆU ........................................................ 2.1. Cơ sở cho sự xuất hiện cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng .......... 2.1.1. Những đổi thay của đất nước sau chiến tranh............................... 2.1.2. Yêu cầu đổi mới tư duy nghệ thuật .............................................. 2.1.3. Sự nhạy cảm, tinh tế, nhiều suy tư của một hồn thơ .................... 2.2. Cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng - nhìn từ đề tài........................ 2.2.1. Chiến tranh từ góc nhìn thế sự....................................................... 2.2.2. Những nghịch cảnh trong cuộc sống đời thường.......................... 2.2.3. Đối thoại với những nhân vật văn chương.................................... 2.2.4. Về những miền quê đã đi qua........................................................ 2.3. Cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng - nhìn từ giọng điệu............... 2.3.1. Giọng khắc khoải, u hoài .............................................................. 2.3.2. Giọng xót xa thương cảm.............................................................. 2.3.3. Giọng chiêm nghiệm suy tư.......................................................... 2.3.4. Giọng hài hước hóm hỉnh.............................................................. Chương 3: CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ VƯƠNG TRỌNG NHÌN TỪ HÌNH THỨC THỂ HIỆN........................................................... 3.1. Lựa chọn hình thức thơ linh hoạt............................................................. 3.1.1. Thể thơ tự do................................................................................. 3.1.2.Thể thơ lục bát................................................................................ 3.2. Xu hướng tự sự hóa trữ tình..................................................................... 3.2.1. Kết cấu bài thơ theo “tính chuyện”............................................... 3.2.2. Mở rộng trường liên tưởng, so sánh trong kiến tạo câu thơ.......... 3.3. Ngôn ngữ thơ............................................................................................ 3.3.1. Sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh................................................... 3.3.2. Sử dụng ngôn ngữ đời thường....................................................... 3.3.3. Sử dụng ngôn ngữ mang tính biểu tượng...................................... KẾT LUẬN.................................................................................................... TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................100 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Vương Trọng thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ. Với hơn 40 năm cầm bút, ông đã có một gia tài phong phú ở nhiều thể loại. Trong đó, thơ là thể loại thành công nhất. Nhiều giải thưởng Văn học, đặc biệt giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật trao cho Vương Trọng là sự thừa nhận tài năng, đóng góp của ông cho văn học dân tộc. Tuy nhiên đến nay, nghiên cứu thơ Vương Trọng chưa có nhiều thành tựu, hầu hết mới dừng lại ở những bài viết ngắn, nhỏ lẻ. Nghiên cứu thơ Vương Trọng, vì vậy không chỉ để hiểu tài năng, cá tính sáng tạo của một nhà thơ, mà còn góp phần để hiểu hơn về một thế hệ nhà thơ tài năng và những đóng góp của họ cho thơ ca dân tộc. 1.2. Thơ Vương Trọng gắn liền với lịch sử và đời sống dân tộc trong gần bốn thập kỷ qua. Những vấn đề về chiến tranh, về cuộc sống con người, nhân tình thế thái... đã đi vào thơ ông một cách giản dị, tự nhiên, với nhiều suy tư chiêm nghiệm. Mảng thơ viết về thế sự được xem là mảng thành công nhất trong thơ Vương Trọng. Ở đó, ông đã thể hiện một cái tâm, cái tài rất riêng của mình. Tìm hiểu Cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng, vì vậy có ý nghĩa như một sự khởi đầu để tìm hiểu tài năng, cá tính sáng tạo của nhà thơ. 2. Lịch sử vấn đề Vương Trọng xuất hiện trên văn đàn Việt Nam từ cuối thập niên 70 của thế kỷ trước. Ngay từ những bài thơ đầu tiên, Vương Trọng đã thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình văn học và công chúng yêu thơ, nhất là từ sau khi ông được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Kể từ đó đến nay, đã có nhiều bài giới thiệu, nghiên cứu về thơ Vương Trọng. Dựa vào nguồn tư liệu bao quát được và trong phạm vi quan tâm của đề tài, chúng tôi điểm lại một số vấn đề cơ bản. 2 Trong bài viết Đọc tuyển tập thơ Vương trọng, lời bạt cho Tuyển tập Ngoảnh lại, ( Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2001), Trần Đăng Khoa đã có một cái nhìn khái quát về thơ Vương Trọng. Theo ông, “Từ những năm chiến tranh, chúng ta đã có một nhà thơ quân đội Vương Trọng. Ở mảng thơ trận mạc này, Vương Trọng có nhiều bài thơ chân thực nói về nỗi gian nan, vất vả của người lính Trường Sơn, hay sau này là những người lính lặng lẽ chiến đấu ở Tà Sanh Căm Pu Chia, ở những cánh rừng của nước bạn Lào, rồi những người lính biên cương, hải đảo. Bằng mảng thơ này, Vương Trọng đã hoà mình vào đội ngũ của những nhà thơ khoác áo lính” [ 35 ]. Từ sau thời kì đổi mới, Vương Trọng đã tìm đúng "mỏ quặng" dồi dào cho chính bản thân mình khai thác. Ông xoáy sâu hơn vào những vỉa tầng của xã hội qua những số phận, tính cách và tầng lớp người. Sự thông minh của ông càng làm cho "con chữ của ông không nhạt" và sự lô gic trong từng câu chữ nhờ kiểu tư duy toán học. Từ cách nhìn ấy, Trần Đăng Khoa viết: "Với tuyển tập thơ Vương Trọng đã cho thấy một bút lực vạm vỡ, phong phú trên nhiều mảng đề tài. Hầu như ở mảng nào Vương Trọng cũng có thơ hay". Bên cạnh việc chú trọng đến nội dung chuyển tải, Vương Trọng cũng chú ý đến hình thức thể hiện. Thơ ông "viết theo lối cổ điển, truyền thống với cấu trúc chặt chẽ, vần điệu chỉn chu" vì thế ông có một lối thơ rất dễ đọc và dễ nhớ. "Tuyển tập này cho ta một cái nhìn tương đối đầy đủ về một đời thơ của một thi sĩ có tài trong nền thi ca hiện đại"[ 35 ]. Tháng 3/ 2002, trên Tạp chí Văn nghệ quân đội, Nguyễn Bùi Vợi đăng bài viết Ngoảnh lại – tuyển tập thơ chất lượng giới thiệu về thơ Vương Trọng. Theo ông: “Con đường thơ Vương Trọng là con đường chính thống: thơ phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ chiến đấu và sản xuất. Những bài thơ như thế chưa in đã được dán nhãn an toàn”. Lý giải cho điều này, ông đã đi từ đặc điểm con người, tính cách Vương Trọng, một con người mà theo ông là "không bao giờ bằng lòng với sự bảo lãnh an toàn trong thơ mình, Vương 3 Trọng ngẫm nghĩ việc đời, thu nhận thực tế và tìm cách lí giải, đánh giá lật ngược, lật xuôi vấn đề" [ 74 ]. Hành trình thơ Vương Trọng là hành trình của trải nghiệm qua các bước chân và hành trình thực tế trong sáng tác, vì thế thơ ông thấm đẫm sắc màu hiện thực. Sự thành công trong thơ Vương Trọng "bắt nguồn từ tài năng và lao động thơ miệt mài của anh trong đất đỏ màu mỡ của vườn ươm quân đội" [ 76 ]. Vũ Quần Phương trong lời tựa cho tập thơ Vương Trọng – Thơ với tuổi thơ ( Nxb Kim Đồng, 2002 ), đã đưa ra những cảm nhận tinh tế, sâu sắc về hồn thơ Vương Trọng. Ông viết: “Vương Trọng tìm chất thơ trong đời thường khi vui hóm, khi bâng khuâng cả tâm trí nhưng bao giờ cũng thành thật, nó là chất thơ vốn có trong đời, không đắp điếm, không ngụy tạo, càng không điệu bộ ngôn từ. Thơ ấy tạo ra những dư luận bùng nổ, nhưng lại có sức thấm, cũng lặng lẽ xuống lòng người. Sở hữu một bút pháp kiểu ấy không dễ đâu, không gan không làm được. Ông như người đào giếng vùng đồi, chưa tới mạch ngầm là giếng không có nước, bài thơ không thành thơ, không thể lấy nước bề mặt mà làm ra lênh láng như thợ giếng vùng xuôi”[58]. Cũng theo Vũ Quần Phương, hồn thơ Vương Trọng nhạy bén với tất cả những gì diễn ra trong cuộc sống, ngôn ngữ thơ ngắn gọn súc tích, không văn hoa, mĩ miều. Điều đó được xuất phát từ một tâm hồn nhạy cảm, một trí tuệ thông minh. Trong bài Những Trái tim đồng vọng, in trên Văn nghệ quân đội, (3/ 2003), Võ Văn Trực đã có những phân tích, lý giải khá thấu đáo về con đường thơ Vương Trọng. Cũng như những nhà thơ cùng thế hệ, Vương Trọng đến với thơ như một lẽ tự nhiên, một sự giải bày cảm xúc trước những vấn đề đang diễn ra trong hiện thực chiến tranh. Theo Võ Văn Trực, hồn thơ Vương Trọng trải dài trên những chặng đường ông qua, từ những cảm thương phận "bạc" của các vĩ nhân, đến cái hoang sơ điêu tàn nơi mười cô gái đã ngã xuống vì lịch sử cho đến những mảnh đời, số kiếp không may mắn trong chính xã hội đầy nhiễu nhương,... Cái chất suy tư, trằn trọc về thế sự lại là cơ sở cho sự lần tìm về quá 4 khứ, về các bậc tiền nhân, đó như một quy luật của tâm lí. Thơ thế sự là địa hạt không phải là mới và cũng là đề tài được các nhà thơ, nhà văn quan tâm đi sâu khai thác mỗi người một góc cạnh nhưng cái nổi trội và biệt lập của Vương Trọng là ở chỗ "với trách nhiệm của người cầm bút ông tỏ ra có chừng mực" và để lại những bài thơ gây ấn tượng cho độc giả [ 73 ]. Có cùng cách nhìn ấy, nhưng có phần cụ thể và bao quát hơn, Nguyễn Thanh Tú trong bài viết Những nghịch cảnh thế sự trong thơ Vương Trọng, http://chuthanhtung.vnweblogs.com đã khái quát một cách ngắn gọn, súc tích những nghịch cảnh thế sự diễn ra trong thơ Vương Trọng, đó là nghịch cảnh của những “vĩ nhân” như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ; nghịch cảnh những người thân như người mẹ, người chị; nghịch cảnh huyền thoại như nàng Tô Thị, chàng Trương Chi; cuối cùng là những nghịch cảnh thế sự đời thường. Ông viết: “Thơ Vương Trọng là thơ về những nghịch cảnh thế sự. Những bài thơ hay nhất của anh, theo tôi là những bài thơ viết về nghịch cảnh những số phận, những cảnh đời. Vì thế mà mỗi bài thơ lại mang dáng dấp một câu chuyện có nhân vật, có tình tiết. Thơ anh là thứ thơ gợi nhiều hơn tả. Bài thơ đọc xong không trơn tuột mà để lại dư âm trong lòng, thường là nỗi day dứt hay sự băn khoăn về một câu chuyện trái ngang nào đó”. Suy cho cùng, tất cả xuất phát từ tấm lòng nhân hậu , biết quan tâm, chia sẻ, biết đau nỗi đau của những người có cảnh ngộ éo le nên ông như đã hóa thân vào nhân vật để nói lên nỗi niềm từ tận sâu trong đáy lòng nhân vât. Vì vậy, thơ ông mới để lại sự day dứt xót xa, ý thức trách nhiệm với cuộc đời và dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. Dương Thị Hường trong bài viết Thân phận con người sau chiến tranh trong thơ Vương Trọng, ĐH KH Xã Hội và Nhân văn, 2004, đã có những cảm nhận khá thấu đáo về thơ Vương Trọng trên cả hai phương diện nội dung tư tưởng và phương thức biểu hiện. Tác giả viết: “Có một điều quan trọng trong quan niệm sáng tác của Vương Trọng là hình tượng thơ có sức khái quát cao. Nhà thơ nói về con người cụ thể như mẹ, chị dâu, con dâu…mà người đọc 5 ai cũng đồng cảm bởi họ thấy những hình tượng đó có gì rất giống với những người thân của họ”. Điều này xuất phát từ chính tài năng thơ ca thiên bẩm và từ tư duy lôgic của toán học. Tất cả đã cộng hưởng với nhau tạo nên sự mạch lạc và khả năng bao quát lớn trong ngôn từ cũng như hình ảnh thơ. Thông thường, người viết khi đi từ cái khái quát đến cái cụ thể thì dễ hơn là từ những vấn đề cụ thể mà khái quát lên được cả một vấn đề rộng lớn. Và Vương Trọng là người đã làm được điều này, ông viết về những cái rất nhỏ nhặt, đời thường nhưng khả năng bao quát rộng lớn, chỉ là hình ảnh một ai đó thôi, nhưng người đọc có thể thấy hình ảnh mình hay người thân mình trong đó”. Cũng theo hướng đi sâu phân tích, cắt nghĩa sức hấp dẫn của thơ Vương Trọng, Trần Thị Thu Hường trong: Những tìm tòi đổi mới của Vương Trọng sau 1975, ĐH KH Xã Hội và Nhân văn, 2005, đã bộc bạch những cảm nhận đầy chất văn và thâu tóm được hồn thơ Vương Trọng như sau: “Thơ Vương Trọng giống như những tâm tình mà chúng ta dành cho nhau trong cuộc sống đời thường. Nó mộc mạc, giản dị mà sâu lắng đến nỗi đôi khi tôi không nghĩ đó là thơ- lãnh địa mà lâu nay vẫn được xem là nơi ngự trị của trí tưởng tượng và một chút phiêu diêu khó nắm bắt. Tôi cảm thấy gần gũi tựu như những gì Vương Trọng đã sống, trải nghiệm giờ muốn chia sẻ với mọi người. Đó là thơ - một lối thơ không chỉ để cảm mà còn để hiểu, không chỉ để hiểu mà còn để sống. Tôi yêu thơ Vương Trọng vì thế”. Điều này bắt nguồn từ chính phẩm cách con người ông, một con người điềm tĩnh, nhân hậu, ý thức công dân cao cùng với việc ông là người “đi nhiều”, sống chan hòa gần gũi với những người xung quanh, từ đó ông cảm nhận và quan sát những gì đang diễn ra và chép lại. Thơ ông có những điều bình thường đến nỗi “tưởng chừng như không thành thơ được” nhưng qua ngời bút của ông tất cả đều trở nên có ý nghĩa. Nguyễn Trường Văn trong bài viết Vương Trọng và những vần thơ chuyển tải nỗi lòng, http://vnca.cand.com, (9/ 2014), nhận xét: “Thơ Vương Trọng thường hướng đến người thực việc thực, đến những vấn đề cụ thể. Nó nặng về cấu tứ, ít tung tẩy, biến hóa trong cách 6 diễn đạt. Bởi vậy, đọc Vương Trọng ta có cảm nhận đó là một tiếng thơ nghiêng về sự thông minh hơn là… tài hoa”. Vốn là một con người thông minh, khả năng liên tưởng nhanh nhạy, hài hước, dí dỏm, đặc biệt, ông là một người giàu năng lực đồng cảm, chia sẻ vì thế khi đọc thơ của ông, hiện lên trước mắt độc giả những "cuộc đời, tâm trạng và số phận". Thơ hay trước hết phải hay ở ý, ở tứ và ngôn ngữ chỉ là phương tiện "giúp tác giả chuyển tải những suy nghĩ, tình cảm", nó được ví như một "chiếc xe mà cấu trúc câu thơ như thể con đường. Xe càng chắc chắn bao nhiêu, đường càng bớt gồ ghề quanh co bao nhiêu, thì những suy nghĩ, tình cảm của tác giả càng được chuyển tải đến độc giả nhanh bấy nhiêu". Vì thế, đọc thơ Vương Trọng, ta luôn bắt gặp những kiểu kết hợp từ rất giản dị, những hình ảnh gần gũi không khuếch trương, phóng đại, cũng không có kiểu "cách tân thơ" để lòe người đọc, cấu trúc ổn định, hiếm có những cấu trúc câu "đột biến, và có ý tưởng mù mờ, không rõ nghĩa". Bên cạnh những bài nghiên cứu theo hướng khám phá dấu ấn phong cách thơ còn có khá nhiều bài viết bàn về lối sống, con người nhà thơ và cảm nhận về những bài thơ được xem là độc đáo của Vương Trọng. Xuân Hải trong bài viết Nhà thơ Vương Trọng: Thơ sinh ra cốt để chuyển tải nỗi lòng,:http://www.thotre.com, (5/ 2008), đã có những ấn tượng mạnh về con người Vương Trọng. Ông viết: “Tuổi đã ngoại lục tuần nhưng ông còn rất phong độ. Da trắng, tóc bồng bềnh, nụ cười hiền mà ý vị, dáng vẻ một thầy đồ hơn là một đại tá quân đội.” Ông là một người có lòng yêu quê hương tha thiết, là người có tấm lòng chung và mong muốn đóng góp ý kiến của mình vào công cuộc cải tạo xã hội. Ông từng nói: “tôi luôn nghĩ về trách nhiệm công dân của nhà thơ vì thế luôn muốn cho thơ mình có ích. Một bài thơ hay để cho người đời ngẫm ngợi cũng là có ích, nhưng nếu ý tưởng trong bài thơ làm thay đổi được những sự bất hợp lý của cuộc đời thì thơ càng có ích hơn”. Lý giải cho sự nổi trội của chất trí tuệ, suy tư trong thơ Vương Trọng, Quỳnh Lâm trong bài 7 Nhà thơ Vương Trọng – Thổn thức nhịp quê, http://www.baonghean.vn, (9/2014), viết: “Vương Trọng thi đậu đại học Tổng hợp Hà Nội, khoa toán. Chính tư duy toán học đã giúp ông có được khả năng khá nổi trội về mặt diễn thuyết với cách nói rành mạch, bố cục rõ ràng khúc chiết. Song thơ ca như đã ngấm vào trong máu, Vương Trọng mặc dù không chọn nó nhưng có thể nó đã chọn ông, hay điều gì đấy như là “trời định” vậy”. Sinh ra vốn mang trong mình chất tư duy toán học nhưng cái nghiệp văn chương quấn lấy ông như một cái nợ "tiền định", như một sự hợp tác "cơ duyên" của đất trời đã đưa ông đến với nhân duyên một nhà thơ chuyên nghiệp. Chính cái tư duy toán học đã ảnh hưởng sâu sắc trong sự nghiệp sáng tác của ông và "khả năng nổi trội về mặt diễn thuyết với cách nói rành mạch, bố cục rõ ràng, khúc chiết". Thơ gắn với nỗi lòng, thơ đi ra từ chính trái tim vì thế thơ ông như chính con người ông vậy "vừa mạch lạc khúc chiết vừa đằm thắm sâu sắc, vừa hóm hỉnh dí dỏm, vừa lắng đọng thiết tha". Phan Quế sau khi đọc bài thơ Nhớ mẹ và nghe Vương Trọng tâm sự về mẹ của mình cũng những tình cảm ông dành cho người mẹ kính yêu, đã có sự đồng cảm sâu sắc. Trong bài viết Nhà thơ Vương Trọng với bài thơ Nhớ mẹ, http://www.cand.com, ( 3/2009), Phan Quế viết: “Nhà thơ Vương Trọng đã cho tôi sự đồng cảm hiếu đễ khi đọc bài Khóc mẹ giữa chiêm bao của ông. Bài thơ về nước mắt nhưng thấm đẫm nghĩa tình. Giọt nước mắt ấy không thể làm chúng ta mộng mị mà chỉ có khắc sâu thêm nỗi thương nhớ mẹ một đời vất vả nuôi ta để được sống tốt hơn như những điều mẹ mong muốn”. Đối với mẹ, con luôn là điều tuyệt vời nhất, đối với con mẹ như là biển cả mênh mông. Vì thế, không phải chỉ đến Vương Trọng, trong lịch sử văn học, đã nhiều nhà thơ viết và có những trang thơ hay về mẹ như Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Chế Lan Viên…Và hẳn rằng không chỉ Phan Quế mà tất cả chúng ta, những người con, ai cũng có tình cảm yêu mến và trân trọng người mẹ của mình. Do đó, khi đọc bài thơ ắt hẳn sự đồng cảm sẽ lan tỏa đến cộng đồng trên một diện rộng. Bàn về trường ca Hà Nội của tôi của Vương Trọng, Bích 8 Hường trong bài viết Nhà thơ Vương Trọng và “Hà Nội của tôi”, http://www.baomoi.com, nhận xét: “ Trường ca Hà Nội của tôi đã khái quát một thời kỳ lịch sử từ những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở thủ đô (1946) cho đến lúc kết thúc chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” của thời kỳ chống Mỹ. Hai mươi bảy năm so với hàng ngàn năm của lịch sử Thăng Long – Hà Nội thì quả là ngắn ngủi, nhưng đây lại là những năm tháng của một thời kỳ lịch sử đầy đau thương nhưng rất dỗi anh hùng”. Viết về Hà Nội, tác giả viết bằng chính lòng yêu bao la và muốn nhắc đến cái kí ức về một thời "oai hùng nhưng cũng nhiều nước mắt của thủ đô, thành phố vì hòa bình". Với Hà Nội của tôi, tác giả đã khái quát được cả chặng đường dài lịch sử Hà Nội, trải qua bao khó khăn gian khổ chiến đấu vì nền độc lập, Hà Nội vẫn luôn đẹp, gần gũi và cũng rất oai hùng, con người Hà Thành không chỉ có ở vẻ đẹp thanh lịch mà còn đẹp ở cả tâm hồn. Chính vì yêu cuộc sống thanh bình mà các cảm tử quân đã phải "dạng chân ngồi lau bom ba càng", "cầm chắc hi sinh sau khi bom nổ nhưng vẫn ngời lên nét mặt lạc quan vì sự bình yên của thủ đô, vì nền văn hóa nước nhà. Cũng đi vào một bài thơ cụ thể, từ đó cảm nhận về tài năng, phong cách một hồn thơ, Phạm Tuấn Vũ trong bài Bài thơ “Chị dâu” của Vương Trọng, http://baonghean.vn, đã có những cảm nhận tinh tế, sâu sắc về bài thơ. Theo ông, cái làm nên sức hấp dẫn của bài thơ trước hết là sự giản dị. Giản dị trong cấu tứ, qua cách diễn tả cảm xúc chân thành của nhà thơ đối với người chị dâu của mình. Ông viết: “Từ đầu bài thơ, nhân vật trữ tình em chỉ đứng ra kể và tả, đến đây mới trực tiếp dãi bày cảm xúc thương lắm chị dâu và cầu cho hoàng hôn đừng xuống trước khi chị về! Đó là sự diễn tiến cảm xúc hợp lôgic. Hình bóng chị dâu tần tảo, chịu biết bao khó nhọc vì gia đình chồng, trong đó có cả nhân vật đang hồi tưởng, khiến không chỉ người trong cuộc mà cả người đọc cũng xót xa thương cảm”. Có cùng cách nhìn ấy, Văn Khoa trong bài Hai chị em của Vương Trọng, www.phunudanang.org.vn, đã phân tích, lí giải cái hay của bài thơ một cách cặn kẽ. Ông viết: “Cái thâm hậu của “Hai chị em” là 9 ở phía sau câu chuyện tưởng như rất đời thường, nhưng không ai mong ước. Càng đọc bài thơ ta càng nhận ra cái sự bẽ bàng, xót đắng của việc “xẻ ngang tình đoàn tụ” – mà thủ phạm chính là những bậc làm cha, làm mẹ.” Với Vương Trọng, việc sử dụng tiếng khóc con trẻ trong bài thơ nhằm tăng thêm tính "tình thân" trong mỗi con người, nhằm "đánh thức lương tâm và trách nhiệm của các bậc cha mẹ đối với con cái". Xuất phát từ một người lính trong chiến trường, tay cầm chắc cây súng bảo vệ biên cương ít ai hiểu được những suy tư đời thường đến vậy. Vậy mà, với Vương Trọng những suy tư về người lính, về chiến trường, về đồng đội dường như không còn chỗ mà thay vào đó là tiếng khóc trẻ con, tình đời, tình người, rồi những cảnh đời, những số phận bất hạnh kém may mắn. Tiếng khóc con trẻ xuất hiện trong thơ ông chính là "điềm báo nỗi bất hạnh lớn lao" mà Văn Khoa đã viết: "Phải chăng hồn thơ người lính Vương Trọng muốn phát tín hiệu" với mọi người rằng: "Nỗi đau này không của riêng ai?". Đó mới chính là chất thơ Vương Trọng, len lỏi trong mọi vỉa tầng của xã hội hiện đại. Vũ Bình Lục trong bài viết Sợi tóc hai màu của Vương Trọng, http://trannhuong.com, (6/ 2010), sau những phân tích, lý giải bài thơ, tác giả nhận xét: “Vương Trọng có điệu thơ riêng, không ồn ào to tát mà đằm thắm nhân tình, giàu chất suy tư chiêm nghiệm”. Đúng vậy, với Vương Trọng, sau những tháng ngày trải nghiệm, hiện thực cuộc sống va đập vào tầng sâu ý thức cộng hưởng với lối tư duy lôgic mà toán học đưa lại, thơ của ông càng thêm tĩnh lặng đối diện với đời làm tăng thêm tính triết luận cho những câu thơ, bài thơ. Giữa hai miền "thực và ảo cùng với xôn xao bồng bềnh những suy tư về cái hữu hạn mỏng manh bất lực trước biển trời số phận con người" càng gợi lên nỗi buồn thẳm sâu trong chính bản thân tác giả. Phạm Hoài An trong lời bình bài thơ Với đứa con ngoài giá thú,www.baobinhdinh.com, viết: “Vương Trọng viết chân thực như anh đang kể lại câu chuyện của “người trong cuộc”. Sự đồng cảm ấy đã mang đến cho người đọc một ấn 10 tượng đẹp về bài thơ", "đẹp về tình mẫu tử". Là con người có tấm lòng bao dung cao cả, đau nỗi đau chung của con người, khóc tiếng khóc của đồng loại, Vương Trọng không thể làm ngơ trước cảnh tượng Ngoài giá thú, sao ngoài lòng thương cảm/ Để người đời ghét bỏ mẹ con tôi. Tác giả đồng cảm với cái bản năng khao khát được làm mẹ dù cho chưa từng được làm vợ bao giờ. Ca ngợi tình thương của người mẹ, cảm thấu nỗi lòng người mẹ, Vương Trọng không khỏi bàng hoàng trước cảnh tượng mẹ ngồi dậy vuốt ve con khi đêm đã khuya, phòng lặng ngắt, thèm trái chua mẹ phải trùm kín chăn khỏi "mắt đời" nhìn thấy...Chính những điều đó càng làm tăng tình mẫu tử trong bài thơ và thẩm thấu được nỗi lòng người mẹ, nỗi lòng tác giả. Trần Xuân Toàn trong lời bình bài thơ Về thôi nàng Vọng Phu, http://www.baobinhdinh.com.vn đã viết: "Chuyện nàng Vọng Phu cuối cùng vẫn là chuyện về khát vọng muôn đời hòa bình, xua bóng chiến tranh "để những người vợ muôn đời thoát khỏi cảnh chờ mong", là sự trân trọng và tin tưởng ở phẩm giá của con người - mà người phụ nữ Việt Nam là tiêu biểu. Phải chăng đó là ý nghĩa nhân văn sâu xa, là minh triết và tình thương của dân tộc trong một câu chuyện cổ, là tâm thức của con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, mong muốn hạnh phúc". Quả thật, chuyện nàng Vọng phu đã ăn thấm vào tâm thức của bao lớp người, là cảm hứng cho bao thi sĩ, nhạc sĩ,...là niềm cảm phục trước vẻ đẹp thủy chung, son sắt của người vợ chờ chồng ra trận. Đây là đức tính cần thiết cho mọi thời, mọi người. Về thôi nàng Vọng phu, tác giả nhằm ca ngợi vẻ đẹp đôn hậu thủy chung của người phụ nữ, đồng thời nói lên tiếng nói khát vọng hòa bình và mong muốn sống hạnh phúc của dân tộc ta. Nhìn lại quá trình nghiên cứu, phê bình thơ Vương Trọng, có thể thấy, hầu hết các bài viết mới dừng lại ở việc cảm nhận, phê bình. Điểm gặp gỡ dễ nhận thấy là các nhà nghiên cứu đều đánh giá cao tài năng, cá tính sáng tạo của Vương Trọng trong mảng thơ thế sự. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu quy mô về cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng. 11 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Như tên đề tài đã xác định, mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra những đặc điểm nổi bật của cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật. 3.2. Với mục đích đó, đề tài có nhiệm vụ: Thứ nhất, chỉ ra được con đường thơ Vương Trọng. Thứ hai, chỉ ra được những biểu hiện của cảm hứng thế sự trên phương diện nội dung trong thơ Vương Trọng. Thứ ba, chỉ ra được những biểu hiện của cảm hứng thế sự trên phương diện nghệ thuật thể hiện trong thơ Vương Trọng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thế giới nghệ thuật thơ viết về thế sự của Vương Trọng. 4.2. Phạm vi khảo sát của đề tài Tuyển tập thơ Vương Trọng, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2011. Ngoài ra, chúng tôi còn khảo sát thêm một số tập thơ của Vương Trọng như: Về thôi Nàng Vọng Phu; Đảo chìm; Ngoảnh lại và sáng tác của một số nhà thơ khác trong thơ Việt Nam hiện đại. 5. Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp cấu trúc - hệ thống - Phương pháp thống kê - phân loại - Phương pháp phân tích - tổng hợp - Phương pháp so sánh - đối chiếu 6. Cấu trúc luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm ba chương: Chương 1. Con đường thơ Vương Trọng 12 Chương 2. Cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng nhìn từ đề tài, giọng điệu Chương 3. Cảm hứng thế sự trong thơ Vương Trọng nhìn từ hình thức thể hiện 13 Chương 1 CON ĐƯỜNG THƠ VƯƠNG TRỌNG 1.1. Vài nét về cuộc đời và con người Vương Trọng 1.1.1. Về cuộc đời Vương Trọng tên thật là Vương Đình Trọng, sinh ngày 01/08/1943, ở làng Đông Bích, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Đây là một vùng quê nghèo có truyền thống hiếu học, yêu văn chương. Trong kháng chiến chống pháp, làng Đông Bích được chọn làm nơi đặt trụ sở của Hội Văn nghệ cứu quốc Liên khu bốn. Nhiều nhà văn nổi tiếng bấy giờ như Thanh Tịnh, Hoài Thanh, Chế Lan Viên… đã từng về đây đọc và bình thơ. Trong trí nhớ Vương Trọng, ngày ấy các văn nghệ sỹ dựng sân khấu trên những ruộng mạ đầu làng để tổ chức đọc thơ, bình thơ. Đó chính là một trong những mạch nguồn nuôi dưỡng cho nhiều người trong làng biết làm thơ. Trong số đó, nổi lên hai nhà thơ lớn là Thạch Quỳ và Vương Trọng. Họ đều đi ra từ miền quê Trung Sơn, trưởng thành từ dân học toán. Sinh ra trong một gia đình nhà nho có truyền thống hiếu học, từ rất sớm Vương Trọng đã được thụ hưởng lối giáo dục của một gia đình có nề nếp gia phong. Bố và các anh trai Vương Trọng đều có thiên hướng văn chương. Hai người anh của nhà thơ trở thành giáo viên văn ở trường trung học phổ thông và đã có nhiều thơ đăng báo. Điều này đã ảnh hưởng một cách tự nhiên vào tâm hồn, tình cảm Vương Trọng. Ông học giỏi văn từ nhỏ và thuộc nhiều thơ, thích làm thơ. Năm lớp bốn, Vương Trọng đã làm bài thơ Vịnh khe bò đái. Tứ thơ phảng phất thơ cổ điển. Lên lớp sáu Vương Trọng đã thuộc lòng Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, và đặc biệt là Truyện Kiều. Ông mê Kiều từ nhỏ, và Truyện Kiều đã theo ông đi suốt cuộc đời. Từ những năm tiểu học, Vương Trọng đã học giỏi đều các môn, có năng khiếu văn chương và cũng học toán rất giỏi. Ông đã từng được cử đi thi 14 quốc gia môn văn. Tuy nhiên, do gia đình đã có hai anh trai dạy văn cấp 3 nên ông muốn chọn con đường khác. Năm 1962, Vương Trọng thi đỗ vào khoa Toán, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội ( nay là trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội ). Điều này có ảnh hưởng lớn đến thơ Vương Trọng. Năm 1966, tốt nghiệp đại học, Vương Trọng được điều về làm thám mã ở Cục Quân báo ở vùng núi Ba Vì với nhiệm vụ là thám dịch mật mã của địch. Năm 1970, ông được chuyển về dạy Toán ở trường Văn hóa Bộ quốc phòng, đóng tại thị xã Lạng Sơn. Năm 1972, ông được cử đi thực tế chiến trường. Năm 1974, Vương Trọng được điều về làm phóng viên tại tạp chí Văn nghệ quân đội. Vương Trọng đến với thơ ca như một cái duyên trời định. Ông không chọn thơ mà chính thơ ca đã chọn ông. Mặc dù đã đi theo con đường toán học nhưng cái nghiệp văn chương cứ vận vào ông. Học Toán rồi dạy toán không được bao lâu, Vương Trọng được cử đi học lớp bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du, sau đó công tác tại Tạp chí văn nghệ quân đội và sáng tác, kể từ đó, ông trở thành nhà báo và là một nhà thơ nổi tiếng. Từ một biên tập viên, ông đã trở thành phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội và công tác ở đó cho đến khi về hưu, mang quân hàm Đại tá. 1.1.2. Những phẩm cách cá nhân Vương Trọng nổi tiếng là người thông minh, nhạy cảm, có trí nhớ tuyệt vời. Những phẩm chất ấy bộc lộ từ rất sớm, khi ông còn là một cậu bé. Nhận xét về con người Vương Trọng, Nguyễn Hòa trong bài Khẩu khí trào lộng của đồ Nghệ Vương Trọng (An ninh thế giới, 2005) viết: “Ở Văn nghệ quân đội, Đồ Nghệ – Vương Trọng nổi tiếng là người hóm hỉnh, thông minh và có trí nhớ tuyệt vời. Nếu ông không phải là người yêu thơ và thật sự có tài thơ thì quân đội đã có một chuyên gia cơ yếu vào hàng “cao thủ”. Vương Trọng thuộc lòng Truyện Kiều từ câu đầu đến câu cuối, hỏi câu nào anh trả lời câu đó, hỏi đoạn nào anh đọc đoạn đó. Anh em cần sưu tầm sử liệu của tạp chí từ quãng đầu những năm 70 đến nay chỉ cần hỏi Vương Trọng là ra. Anh có thể 15 kế chính xác thời gian, địa điểm, số lượng và tên tuổi những người tham dự từng chuyến đi công tác, từng sự kiện đã diễn ra trong cơ quan cách đây hàng chục năm. Chẳng thế mà mới đây, trong số các nhà văn của Văn nghệ quân đội vừa đi công tác ở Mường Lò trở về chỉ riêng Vương Trọng là nhớ chính xác giai điệu và lời bài hát mời rượu của các cô gái Thái”. Tài năng, trí tuệ của Vương Trọng càng ngày càng rõ nét. Ông sáng tạo ở nhiều thể loại, như: thơ, trường ca, câu đối, truyện thiếu nhi, truyện ngắn, ký, dịch các tác phẩm nước ngoài… Và dường như ở lĩnh vực nào ông cũng thành công. Tuy nhiên, cho đến nay, dấu ấn Vương Trọng rõ nhất là ở thơ. Là người chịu khó đi, ưa quan sát, Vương Trọng đã tự làm giàu vốn sống, vốn văn hóa của mình qua những chuyến đi. Trong những ngày ác liệt của chiến tranh chống Mỹ, Vương Trọng đã có mặt ở Quảng Trị, ở biên giới Tây Nam. Sau chiến tranh, ông lại ngược lên biên giới phía Bắc, đến với những người lính biên phòng đang ngày đêm bảo vệ biên cương. Sự tỉ mỉ sâu sát của một nhà báo kết hợp với sự nhạy cảm, tinh tế của một nhà thơ đã giúp Vương Trọng có được cái nhìn mới về cuộc sống con người. Viết về Vương Trọng, Nguyễn Bùi Vợi nhận xét: “Vương Trọng là người chịu khó đi. Anh có mặt ở mọi chiến trường nóng bỏng, mọi miền biên giới và hải đảo xa xôi. Đi, đọc, viết là ba khâu được tiến hành nhịp nhàng. Trong anh, sôi nổi và thâm trầm một nhà thơ, mẫn cán và cần cù một nhà báo” [ 74 ], “Sự thành công của nhà thơ Vương Trọng bắt nguồn từ tài năng và lao động thơ miệt mài của anh trong đất đỏ mỡ màu của vườn ươm quân đội” [ 74 ]. Vương Trọng được biết đến là một con người điềm tĩnh, nhân hậu. Ông sống hướng nội nhiều hơn là hướng ngoại. Thâm trầm, kín đáo. Thủa thiếu thời Vương Trọng sống chan hòa, gần gũi với bà con lối xóm, được bà con lối xóm tin yêu. Trưởng thành, tham gia học tập, chiến đấu, sáng tác, Vương Trọng được bạn bè đồng nghiệp yêu mến bởi tính cách điềm đạm, khiêm nhường và giàu lòng nhân hậu. Trong bài Vương Trọng như tôi cảm nhận, 16 nhân dịp Vương Trọng nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007, nhà thơ Hoàng Cát viết: “Tôi có thể kể ra đây hàng chục việc làm cụ thể của Vương Trọng, mà tôi biết, để khẳng định rằng-thiên bẩm, anh là người hết sức nhân hậu, tử tế. Tuy nhiên, điều đáng mừng hơn hết cho Vương Trọng là, với tư cách và thiên chức của một nhà thơ, anh đã thể hiện được rất đậm nét tính nhân hậu, lòng bao dung đối với con người, đối với cuộc đời rộng lớn-thông qua mọi sáng tác thơ của mình”. Từ một trái tim biết đau nỗi đau của người khác, với nỗi lòng của con người đa cảm, nhân hậu, những số phận hẩm hiu, những cảnh đời bất hạnh, những cảnh ngộ éo le đã được Vương Trọng thấu hiểu,cảm thông trong những bài thơ chan chứa tình người. Ông sống chừng mực, không ham hố, bon chen. Ông quan niệm rằng, bất hạnh của cuộc sống tỷ lệ thuận khoảng cách giữa điều mình được hưởng với điều mình muốn hưởng. Có lẽ vì thế mà ông không bao giờ coi mình là người thiếu thốn, mặc dù ông không phải là người giàu có. Quan niệm sống ấy đã được ông kín đáo gửi vào thơ, mà bài Nói với Trương Chi là một ví dụ. Ông viết: “Buồn thì ngủ để quên đi / Giọng hay dành để hát khi tối trời / Ai nghe, ai cảm mặc người / Dại gì mơ tưởng đến nơi lầu vàng? / Sông một giải, trời một gian / Chui vào trong chén bạch đàn làm chi?”. Nói với Trương Chi hay ông nói với chính mình? Lòng dặn lòng hãy sống với những gì mình có, thành thực với người, thành thực với mình. Sống nghĩa tình, nhân hậu, Vương Trọng rất nặng tình quê hương. Phần lớn cuộc đời Vương Trọng gắn liền với thủ đô Hà Nội, nhưng hình ảnh vùng đất Trung Sơn – Đô Lương luôn hiện hữu trong tâm trí ông. Xa quê đã 40 năm, ông vẫn nhận mình là nông dân, là người con của quê mùa, đồng nội. Lòng canh cánh lo âu khi quê nhà nắng hạn, bão giông: “Là nông dân? Vâng, ta vẫn nông dân/ Nhìn trăng quầng lo mùa nắng hạn/ Nghe tin bão, hướng quê nhà phấp phỏng/ Gặp ăn mày, lo giáp hạt quê xa” (Nông dân, 2000). Có dịp rảnh rỗi ông lại tranh thủ bắt xe về quê để được nhìn ngắm 17 quê hương và tận hưởng không khí yên bình, thân thuộc, nơi ông đã gửi trọn hồn mình ở đó. Biền biệt xa quê, rong ruổi trên nhiều con đường, đến với nhiều miền quê trong Nam ngoài Bắc, song Vương Trọng vẫn nhớ đến từng khúc hát dân ca, từng món ăn quê mùa dân dã của quê hương. Hai mươi lăm năm trước, vào tuổi 46, Vương Trọng đã nghĩ đến ngày từ giã cuộc đời. Ông ước muốn được trở về với quê hương, được đùm bọc, chở che trong lòng đất mẹ: “Nếu đời tôi dừng lại chốn tha hương / Tang lễ xin đừng làm với lễ nghi cấp tá và Thi hài tôi sẽ trở lại với làng / Trên sức lực bạn bè, xóm mạc. Bởi với ông: Những vòng hoa thành phố chóng tàn/ So sao được với tình thương gốc rễ?” (Lời dặn, 1989). Điều này góp phần lý giải vì sao, thơ Vương Trọng lại mang đậm dấu ấn văn hóa xứ Nghệ đến vậy. 1.2. Đường thơ Vương Trọng 1.2.1. Quan niệm thơ Vương Trọng Trong sáng tạo thơ ca, các nhà thơ, nhất là nhà thơ tài năng, giàu cá tính, luôn có quan niệm sáng tạo của riêng mình. Họ có thể phát biểu thành lời như một tuyên ngôn, hoặc thể hiện trong thơ. Vương Trọng là một nhà thơ như thế. Nói tới quan niệm thơ là nói đến cái ý niệm thẩm mĩ riêng biệt mang tính cá nhân, cá thể của mỗi nhà thơ. Với Vương Trọng, thơ là tiếng nói tình cảm, cảm xúc, thơ đến với người, người đến với người bằng tình cảm. Nói về thơ của mình, ông tâm sự: “Thơ tôi đến với người đọc bằng tình cảm của chính mình và của bạn đọc”. Theo ông, thơ hay trước hết là ở ý, ở tứ. Và bài thơ giá trị là bài thơ mà khi đọc lên, “nhiều khi người ta không còn thấy thơ đâu mà chỉ thấy cuộc đời, tâm trạng và số phận” [ 76 ]. Ngôn từ chỉ là phương tiện giúp nhà thơ chuyển tải những suy nghĩ tình cảm của mình về những vấn đề liên quan đến cuộc sống con người. Đọc thơ Vương Trọng, không khó để nhận ra lối diễn đạt giản dị, được sắp xếp theo một cấu trúc ổn định, rất hiếm những câu có cấu trúc đột biến hay ý tưởng mù mờ không rõ nghĩa. Ông
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất