Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ trương nam hương...

Tài liệu Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ trương nam hương

.PDF
143
243
73

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Ngô Thị Vĩnh Duy CẢM HỨNG, HÌNH ẢNH VÀ NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRƯƠNG NAM HƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Ngô Thị Vĩnh Duy CẢM HỨNG, HÌNH ẢNH VÀ NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRƯƠNG NAM HƯƠNG Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. PHÙNG QUÝ NHÂM Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 LỜI CẢM ƠN Hoàn thành được luận văn thạc sỹ này, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đối với Ban giám hiệu, phòng KHCN – SĐH, khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Tp. HCM cùng tất cả Quý Thầy Cô đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập tại trường. Đặc biệt tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Phùng Quý Nhâm đã tận tình giúp đỡ, quan tâm, động viên, lo lắng và chỉ dẫn cho tôi trong suốt quá trình làm chuyên luận. Xin cám ơn gia đình bé nhỏ của tôi đã là nguồn hậu thuẫn vững chắc, động viên tôi hoàn thành chuyên luận này. Tp.HCM, tháng 10 năm 2011 Ngô Thị Vĩnh Duy. MỤC LỤC Trang LỜI CẢM ƠN ................................................................................................ 1 MỤC LỤC ...................................................................................................... 2 DẪN NHẬP....................................................................................................... 4 1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................... 4 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ....................................................................... 5 3. Đóng góp của luận văn .......................................................................... 10 4. Phạm vi nghiên cứu................................................................................ 10 5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 11 6. Kết cấu luận văn..................................................................................... 11 CHƯƠNG 1: CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRƯƠNG NAM HƯƠNG. ......................................................................................................... 13 1.1. Cảm hứng nghệ thuật – vùng thẩm mĩ riêng của nhà thơ ............... 13 1.1.1 Cảm hứng nghệ thuật ................................................................ 13 1.1.2 Cảm hứng nghệ thuật – vùng thẩm mĩ riêng của nhà thơ ......... 16 1.2. Cảm hứng nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương ..................... 22 1.2.1 Cảm hứng hoài hương ............................................................... 22 1.2.2 Cảm hứng thế sự........................................................................ 42 CHƯƠNG 2: HÌNH ẢNH TRONG THƠ TRƯƠNG NAM HƯƠNG ........... 62 2.1. Hình ảnh thơ .................................................................................... 62 2.2. Hình ảnh trong thơ Trương Nam Hương ......................................... 68 2.2.1 Hình ảnh người mẹ .................................................................... 68 2.2.2 Hình ảnh tuổi thơ ....................................................................... 81 2.2.2.1 Hình ảnh tuổi thơ gắn bó với đồng quê cùng những trò chơi 82 2.2.2.2 Hình ảnh tuổi thơ nghèo khó, thanh sạch .............................. 86 2.2.2.3 Hình ảnh tuổi thơ được đẫm mình trong ca dao, dân ca ....... 91 CHƯƠNG 3: NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRƯƠNG NAM HƯƠNG ......................................................................................................................... 96 3.1. Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm thơ ........................................... 96 3.2. Ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương ...................... 101 3.2.1 Dấu ấn của nhà thơ và chiếc bẫy chữ trong khu vườn ngôn từ..... 101 3.2.2 Ngôn từ thơ mang âm hưởng dân gian.................................... 113 3.2.3 Ngôn từ lạ hóa trong thơ Trương Nam Hương ....................... 119 KẾT LUẬN ................................................................................................ 129 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 134 TIỂU SỬ..................................................................................................... 140 DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài Trương Nam Hương thuộc lớp nhà thơ xuất hiện vào cuối những năm 70 đầu những năm 80 ở thành phố Hồ Chí Minh, cùng với các nhà thơ Đỗ Trung Quân, Bùi Chí Vinh, Lê Minh Quốc, Phạm Sỹ Sáu, Thanh Nguyên, Thái Thăng Long, Nguyễn Quang Thiều, ... Anh trở thành cái tên không còn xa lạ với bạn đọc yêu thơ. Với hơn hai mươi năm cầm bút, anh đã gặt hái nhiều giải thưởng danh giá. Giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam cho tập thơ đầu tay Khúc hát người xa xứ và trở thành Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam trẻ nhất lúc bấy giờ là nguồn cổ vũ khích lệ tinh thần rất lớn cho nhà thơ. Sau đó lần lượt là các tập thơ và nhiều giải thưởng khác, Trương Nam Hương đã khẳng định vị trí của mình trên thi đàn và trong lòng độc giả. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về thơ Trương Nam Hương trong cùng với tiến trình thơ đương đại một mặt giúp chúng ta nhận diện được sự phát triển của thơ Việt Nam hiện đại. Đồng thời, qua đó ta thấy được những đóng góp nhất định của Trương Nam Hương trong nền văn học Việt Nam nói chung và thơ ca đương đại nói riêng. Với hơn mười tập thơ, bạn đọc yêu thơ Trương Nam Hương có thể nhận thấy ngay một hồn thơ đã tìm thấy lối đi riêng âm thầm, lặng lẽ mà ấm áp, giàu hoài niệm trên con đường hình thành phong cách thơ của mình. Thơ của anh có sự giao hòa giữa chất Huế quê cha và tinh chất vùng đất Bắc Ninh quê mẹ cùng với ngôn ngữ sáng tạo góp phần làm phong phú thêm cho tiếng Việt hiện đại. Có rất nhiều ý kiến đánh giá về thơ Trương Nam Hương. Các ý kiến đó dù ở các góc độ khác nhau nhưng đều góp phần khẳng định tên tuổi của thơ Trương Nam Hương. Anh làm thơ là để giãi bày những xúc cảm chân tình của lòng mình trước cuộc đời, cho nên mọi cung bậc tình cảm của con người từ yêu ghét, vui buồn, sướng khổ…đều thành thơ. Nghiên cứu về thơ Trương Nam Hương, người viết hy vọng nối nhịp cầu để bạn đọc yêu thơ theo những phấn thông vàng mà nhà thơ đã gửi trao trong cuộc đời, tri ngộ đồng điệu tìm về bên câu thơ tâm tình. Trong bối cảnh hội nhập và hiện đại hóa, các nhà thơ đương đại cần phải có sự cố gắng để thi ca luôn có chỗ đứng trong lòng công chúng. Không những thế, làm sao cho thi ca có tính hiện đại để có khả năng thích ứng với nhu cầu hội nhập nhưng vẫn phải giữ được bản sắc độc đáo và tinh túy của thi ca dân tộc... Trương Nam Hương đã góp một phần rất đáng quý trong việc định hình một phong cách thơ hướng về cội nguồn văn hóa truyền thống, coi trọng khai thác chất liệu ca dao mà vẫn mang được dấu ấn của sự đổi mới. Vì thế khi nghiên cứu đề tài “Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương”, chúng tôi hy vọng sẽ phần nào lí giải được một vài khía cạnh liên quan đến một trong những vấn đề đang được quan tâm của thi ca đương đại. Đó là hiện đại hóa thơ ca theo hướng tiếp thu, gìn giữ và cách tân những giá trị truyền thống theo cách mà nhà thơ đã thể hiện trong cuộc đời thơ của mình. Chúng tôi chọn đề tài này với mong muốn góp phần nhỏ trong việc nghiên cứu thơ Trương Nam Hương để từ đó có cái nhìn khái quát, toàn vẹn, tổng thể hơn nhằm tạo ra một hình dung cụ thể về chân dung thơ Trương Nam Hương. Mặt khác, khi bước chân vào thế giới của văn học, thì mỗi người, bằng năng lực, niềm yêu thích, khả năng học hỏi, góc nhìn, thẩm mĩ và kinh nghiệm cá nhân sẽ bàn về văn học từ nhiều hướng khác nhau. Cùng với sự chất chứa những tình cảm tha thiết, yêu mến hồn thơ của cái đẹp khiêm nhường giữa đời thường đã trở thành xuất phát điểm để tâm hồn người viết nhẹ nhàng tìm đến một hồn thơ. Rồi từ đó, kết hợp với việc vận dụng một số khái niệm lí luận văn học – khái niệm công cụ như: cảm hứng chủ đạo, cảm hứng nghệ thuật, hình ảnh, ngôn từ, đặc trưng thể loại...để hòa cùng nhịp bước trên đường thơ Trương Nam Hương. Với những lẽ trên, chúng tôi mạnh dạn thực hiện chuyên luận nghiên cứu về “Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương". 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Nổi tiếng từ tập thơ đầu tay Khúc hát người xa xứ đến nay, Trương Nam Hương đã khẳng định vị trí của mình trên thi đàn và trong lòng bạn đọc yêu thơ. Với hơn mười tập thơ xuất bản, thơ anh đã nhận được nhiều sự quan tâm, đánh giá của các nhà nghiên cứu; nhiều ý kiến, nhận xét, góp ý của bạn bè thơ văn trên các báo Văn Nghệ, Tạp chí hội nhà văn, Phụ nữ, Tuổi trẻ,... Và nhiều nhất có lẽ là trên các trang website của Hội nhà văn (nhavantphcm.com.vn; vanvn.net; tapchinhavan.vn), Lục bát (lucbat.com), văn nghệ sông Cửu Long (vannghesongcuulong.org.vn), Evăn (evan.vnexpress.net), … Đó cũng là điểm thuận lợi cho chúng tôi trong việc nghiên cứu đề tài về thơ Trương Nam Hương. Qua các bài viết, chủ yếu các tác giả nhận xét, đánh giá chung về mỗi tập thơ, cũng có bài viết đi vào tìm hiểu một phương diện, khía cạnh thơ, phân tích những bài thơ yêu thích và phỏng vấn nhà thơ mà chưa có công trình nghiên cứu tổng hợp, đầy đủ quá trình thơ, phát triển tư duy thơ cũng như có cái nhìn tổng thể về bút pháp nghệ thuật của nhà thơ Trương Nam Hương. Với đề tài nghiên cứu “Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương", dựa trên cơ sở những tư liệu tiếp cận, chúng tôi xác lập những tư liệu viết về Trương Nam Hương thành ba vấn đề tương ứng với nội dung luận văn là: Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật. Nhóm bài viết thiên về cảm hứng nghệ thuật, có những bài: Khi tập thơ đầu tay Khúc hát người xa xứ của Trương Nam Hương ra đời, Vũ Quần Phương viết bài “Khúc hát người xa xứ với Trương Nam Hương”, nêu lên những đánh giá, nhận xét chung về tập thơ. Trong bài viết này, Vũ Quần Phương đánh giá cao về năng lực xúc cảm, giọng thơ giản dị, dễ gần, tình thơ rất quen thuộc của Trương Nam Hương. Đây chính là những tố chất quan trọng nuôi dưỡng nguồn cảm hứng thơ cho Trương Nam Hương. Bên cạnh việc nêu lên những thành công về nghệ thuật như: bút pháp thơ có khả năng kết dính những ý thơ bằng cảm xúc; ngôn từ lành mà đẹp, câu thơ lục bát nhuần nhuyễn rất gợi cảm, Vũ Quần Phương còn chỉ ra những ngập ngừng trong việc vận dụng các thủ pháp thơ, nhiều bài thơ cần tước bớt đi những đường viền thời trang giữ cho thơ chân cảm,... Nhưng suy cho cùng đó là điều không tránh khỏi của một thi sĩ mới bước chân vào làng thơ. TrongChân dung thơ, tác giả Tần Hoài Dạ Vũ có bài viết về Trương Nam Hương:“Trương Nam Hương nỗi ám ảnh của thời gian”.Theo tác giả: Chỉ có một điều khác biệt, sẽ trở thành cái riêng của Trương Nam Hương, đó là ý niệm thời gian ở đây được cụ thể hóa thành tâm trạng, thành nỗi nhớ quê nhà hay hoài niệm về những gì thân yêu đã mất. và tác giả tỏ ra tâm đắc với những bài thơ viết về tình quê, về tuổi thơÁm ảnh thời gian của Trương Nam Hương trước hết là ám ảnh về năm tháng đã mất, về tuổi trẻ đã qua đi. Nguyễn Trọng Tạo trong bài viết: “Trương Nam Hương – hồn thơ đẹp như nỗi buồn” in chung trong Văn chương cảm và luậnsau khi nêu những cảm nhận chung về thơ Trương Nam Hương đã nhận xét: Hình ảnh làng quê luôn là nỗi ám ảnh đau đáu, nhói buốt vẻ đẹp thuần hậu trong thơ Trương Nam Hương, cái vẻ đẹp làm anh luôn lo sợ phôi pha và biến mất.Tác giả cũng nói khi đọcthơ Trương Nam Hương trong lòng bao giờ cũng có miên man cái nỗi xao xuyến vạn kiếp của làng quê Việt với những vẻ đẹp phát khóc của cuộc sống cần lao. Cũng viết về vấn đề này, tác giả Trần Nhật Thu với bài viết “Nỗi buồn ta thăm thẳm dắt ta về”, đề cập đến nguồn cội quê hương của Trương Nam Hương là Huế và Bắc Ninh, hai vùng văn hóa cổ kính đã làm giàu có, bồi đắp thêm cho hồn thơ thăm thẳm nỗi buồn xa xứ của Trương Nam Hương. Tác giả đặc biệt yêu thích và thể hiện sự đồng cảm với những bài thơ viết về sông Hồng, sông Hương có sức ám ảnh, dạt dào niềm thương cảm của nhà thơ . Trong bài viết “Ô cửa mới của Trương Nam Hương”, Huỳnh Như Phương nhận định thơ Trương Nam Hương cũng định hình phong cách từ rất sớm, đó là phong cách hòa hợp chất Huế quê cha và chất Kinh Bắc quê mẹ. Với mảng thơ viết về tình yêu, tác giả đã rất tinh tế khi phát hiện ra dấu ấn cảm xúc, mùi vị nhục thể nơi con người trong thơ Trương Nam Hương được khỏa lấp bởi màu sắc và hương vị của thiên nhiên. Đó cũng là lí do để tác giả đưa ra nhận xét Trương Nam Hương vẫn là một tình nhân dè dặt, so với một số nhà thơ bạo liệt bây giờ. Khi tập thơ Ra ngoài ngàn năm của anh xuất bản đã nhận được nhiều những ý kiến đóng góp, đánh giá, trong đó có Lê Thiếu Nhơn. Tác giả với bài viết “Trương Nam Hương chốc lát ra ngoài ngàn năm”, in trong Thi ca nết đất. Chủ yếu trong bài viết này, Lê Thiếu Nhơn nhận xét về những bài thơ mang cảm hứng thế sự, đời thường của Trương Nam Hương. Theo tác giả, qua các bài thơ đó, anh tự soi rọi lại bản thân bằng chậm rãi riêng tư mặc bao đua chen thiên hạ. Với tập thơ này, tác giả đánh giá cao sự cố gắng thể hiện tâm trạng của anh qua thể thơ ba câu. Riêng kiểu bài viết về hình ảnh nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương, chúng tôi tìm thấy bài viết sau: Trong bài báo của Khánh Chi: “Trả nợ bằng thơ”- đăng trên Báo Phụ nữ và sự nghiệp năm 2003, tác giả đã có cuộc trò chuyện với nhà thơ Trương Nam Hương và ghi nhận những tâm sự của nhà thơ khi tự nói về mình và thơ của mình: Tôi là người nặng nợ với quá khứ, khi anh kể về mẹ, về tuổi thơ... Khánh Chi đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với việc Trương Nam Hươngluôn coi chuyện làm thơ của mình là một cuộc trả nợ không ngừng với quá khứ. Cũng trong bài phỏng vấn này, Trương Nam Hương đã tâm sự với tác giả: Thơ tôi làm cho quá khứ, thành ra lúc nào cũng buồn.Có lúc muốn viết gì cho vui vui, cũng không được. Chính những nỗi buồn đau trong tâm hồn đã giúp anh sáng tác nên những vần thơ có chỗ đứng trong lòng người đọc. Tác giả Hàn Anh Trúc có hai bài viết về Trương Nam Hương là “Hoài niệm không mùa câu thơ hay từ kỉ niệm học trò” và “Hương xưa lá, khói bếp cay” in trong Chuyện văn: lai lịch nhà thơ lai lịch bài thơ. Điều thú vị nhất đối với tác giả là khi được hòa mình thế giới tuổi thơ, thế giới học trò trong thơ Trương Nam Hương, tác giả nhận xét: Tuổi thơ Trương Nam Hương bọc mây ngũ sắc, đầy ắp kỉ niệm. Trong bài viết của mình, Hàn Anh Trúc rất chú ý đến hình ảnh cánh diều tuổi thơ anh, đặc biệt là hình ảnh người mẹ bên bếp lửa với khói bếp nồng cay… Dành nhiều tình cảm vào những hình ảnh thơ Trương Nam Hương, với tác giả đó là những trang thơ ý nghĩa, ý vị một cảm xúc đẹp. Trong bài phỏng vấn nhà thơ Trương Nam Hương của Hoài Hương: “Nhà thơ Trương Nam Hương với nỗi nhớ Hải Phòng”, khi được hỏi tại sao là Hải Phòng, anh như chìm đắm vào miền kỉ niệm xưa cũ nơi lưu lại tuổi thơ với bà ngoại hiền từ có bàn nước nhỏ bán chè xanh, kẹo lạc, kẹo vừng, thuốc lá ... Có lẽ bắt nguồn từ nơi này, mà những bài thơ như Thời nắng xanh, Tuổi thơ ... của anh ra đời… Tác giả Hoài Hương có lẽ là một người rất yêu mến thơ Trương Nam Hương, nên trong một bài viết khác rất công phu “Trương Nam Hương, nhà thơ của những hoài niệm đẹp”, chị rất tâm đắc mảng thơ tình yêu của anh. Theo chị, bắt đầu từ tình yêu đôi lứa, Trương Nam Hương còn có nhiều bài thơ về một tình yêu lớn hơn, chung hơn, nặng trĩu những tâm tư của một trái tim đa cảm, nhân hậu, biết chia sẻ luôn đau đáu nỗi niềm về thân phận con người, về cuộc sống. Đó là những bài thơ nói về mẹ, cha, bà…đầy ấn tượng nhất và nhiều tâm trạng nhất. Tác giả Trần Thị Thắng qua tập bút kí, chân dung văn học Con chữ soi bóng đời, đã nhận xét Trương Nam Hương là một hồn thơ gần với cuộc đời, bởi thơ anh gắn với những người mang lại tình yêu trong cuộc đời anh: tình yêu của cha, của mẹ, của chị… Ở phương diện ngôn từ nghệ thuật thơ Trương Nam Hương, chúng tôi tìm thấy một số bài viết sau: Qua bài viết “Nhập vào một cõi thơ” của tác giả Phạm Quang Trung trong tậpThổ cẩm dệt bằng thơ, tác giả chú ý đến những cái nhỏ bé, những điều không phải ai nhìn cũng thấy trong thơ Trương Nam Hương. Với tác giả, điều đáng quý ở thơ anh là thơ có sức gợi – sức gợi có được chủ yếu không ở từ hình ảnh riêng lẽ mà nhờ sự kết nối các hình ảnh tạo nên không khí, môi trường sống của thơ. Chính sự tinh tế và nhạy cảm trong phát hiện, cùng vẻ nhẹ nhàng, dịu dàng trong cảm nghĩ là những điều làm nên chất thơ Trương Nam Hương. Tác giả tán thành đường hướng chính trong cách tân của thi pháp thơ anh: Viết thơ theo nhịp tim của mình. Bài viết của Phạm Đình Ân: “Gã thợ săn” và “chiếc bẫy chữ”. Trong bài viết này tác giả nhận xét tương đối kĩ về thơ Trương Nam Hương như việc anh gắn bó thủy chung với thể thơ truyền thống đã trở thành thế mạnh và riêng ở tập thơ Minithơ, theo tác giả thì xúc cảm của thơ anh khác các tập thơ trước. Đặc biệt Phạm Đình Ân tỏ ra rất quan tâm đến cảm hứng và lao động chữ của Trương Nam Hương. Tác giả nhận xét:Trương Nam Hương đã viết liên tục trong một cơn hứng chữ nồng nàn. Trong bài viết, tác giả cũng nói đến tập thơ Đường thi ngẫu dịch, mà theo tác giả, Trương Nam Hương rất kĩ tính ở tất cả các bài dịch. Tác giả Huệ Triệu có lẽ là người hiểu thơ Trương Nam Hương và có cái nhìn sắc sảo, nhạy bén, qua bài viết “Thử giải mã một số kết hợp từ lạ trong thơ Trương Nam Hương”. Có thể nói đây là bài viết có nhiều chất lí luận. Từ góc nhìn lí luận qua thủ pháp lạ hóa, tác giả đã nhận thấy thế giới ngôn từ thơ Trương Nam Hương vẫn luôn là một ẩn số, hấp dẫn người đọc. Huệ Triệu cho rằng thơ Trương Nam Hương có nhiều phối ghép từ gây ấn tượng mạnh, gây ám ảnh bởi độ nhòe mờ và sự lạ hóa nhất là qua hệ thống từ láy. Bài viết của Nguyễn Thanh Toàn, “Cùng Trương Nam Hương xuôi ngược ra ngoài ngàn năm” cho rằng phong cách viết của nhà thơ Trương Nam Hương tài hoa mà rất lạ bởi, sự phóng khoáng trong cách sử dụng câu chữ, thả nhịp, cách gieo vần tự nhiên theo mạch cảm không câu nệ bằng trắc của anh. Như vậy, qua các bài viết của các tác giả về thơ Trương Nam Hương ở trên, chúng tôi thấy rằng các tác giả đã có những đóng góp nhất định trong việc phát hiện ra những đặc điểm của thơ anh nhưng nhìn chung lại chưa có nhiều những công trình nghiên cứu tổng thể, đầy đặn về thơ Trương Nam Hương. Thực hiện đề tài “Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương",dựa trên cơ sở những ý kiến đã có được, chúng tôi đi vào tìm hiểu ba phương diện chính trong Trương Nam Hương là cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật với mong muốn góp lên một tiếng nói về những thành công cũng như những đóng góp của nhà thơ trong tiến trình văn học hiện đại hóa. 3. Đóng góp của luận văn Đặt vấn đề nghiên cứu ở ba phương diện: cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong chuyên luận “Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương”, luận văn trên cơ sở vận dụng khái niệm công cụ, khai thác, lý giải, phân tích những phần cốt lõi về cảm hứng, hình ảnh, ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương, chúng tôi mong muốn đóng góp một hướng tiếp cận tương đối tổng hợp về sự nghiệp sáng tác của nhà thơ từ tập thơ đầu tay cho đến nay. Chúng tôi rất mong luận văn được xem là một tài liệu hữu ích đối với việc tìm hiểuthơ Trương Nam Hương. 4. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu thơ của Trương Nam Hương, chúng tôi chỉ khảo sát ba phương diện: cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật. Đối tượng khảo sát qua các tập thơ: Khúc hát người xa xứ (1990), Cỏ - tuổi hai mươi (1992), Nghoảnh lại tháng năm (1995), Viết tặng những mùa xưa (1999), Thơ với tuổi thơ (2005), Đường thi ngẫu dịch (2007), Ra ngoài ngàn năm (2008), Mini thơ (2008), với tổng cộng khoảng 280 bài thơ (ngoài những bài thơ in trùng nhau giữa các tập thơ và những bài không phục vụ cho nội dung nghiên cứu) thì sự khảo sát thống kê của chúng tôi sẽ được thực hiện trong phạm vi khoảng 280 bài thơ này. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài “Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương”, luận văn sẽ phối hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây: Vận dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, tìm hiểu đối tượng nghiên cứu như một hệ thống để khảo sát, phân tích. Bằng phương pháp thống kê – phân loại sẽ làm cho việc giải quyết các vấn đề của đề tài mang tính khoa học, sáng tỏ và thuyết phục. Với phương pháp phân tích – tổng hợp, luận văn sẽ tập trung phân tích các tác phẩm thơ của Trương Nam Hương để từ đó lí giải mối quan hệ của nhà thơ với cuộc sống, với các mối quan hệ tình cảm; cũng từ đó khám phá hồn thơ Trương Nam Hương qua những hoài niệm, kí ức, tâm sự,…Qua phương pháp này, luận văn muốn hệ thống hóa các ý kiến đánh giá về thơ anh, cuối cùng tổng hợp rút ra những đặc điểm mang tính khu biệt của thơ Trương Nam Hương. Sử dụng phương pháp so sánh – đối chiếu, luận văn sẽ đặt nhà thơ Trương Nam Hương bên cạnh một số tác giả cùng thời, các tác giả có cùng đề tài phản ánh như: Thái Thăng Long, Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn,… Bên cạnh đó, luận văn còn phối hợp, vận dụng một số lí thuyết của lí luận văn học để tiếp cận, làm nền tảng trong việc tìm hiểu ba phương diện cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương. Ngoài ra, luận văn sử dụng thêm phương pháp phỏng vấn và trao đổi trực tiếp với nhà thơ, người thân và bạn bè của nhà thơ để hiểu thêm về đường thơ và chân dung của nhà thơ. 6. Kết cấu luận văn Ngoài dẫn nhập, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có ba chương: Chương 1: Cảm hứng nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương. Chương 2: Hình ảnh trong thơ Trương Nam Hương. Chương 3: Ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương. CHƯƠNG 1: CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRƯƠNG NAM HƯƠNG. 1.1. Cảm hứng nghệ thuật – vùng thẩm mĩ riêng của nhà thơ 1.1.1 Cảm hứng nghệ thuật Văn chương luôn là một hoạt động khó khăn và đầy trách nhiệm. Người sáng tác văn chương muốn sáng tạo nên những tác phẩm có ích, có giá trị ngoài tài năng, phải tự bồi dưỡng không ngừng về tư tưởng, tình cảm, chuyên môn nghề nghiệp…thì mới có thể tự mình đi xa trên con đường văn nghiệp, không sa vào con đường của hư văn. Vì sáng tác là một việc do chính cá nhân nhà văn làm, đó là một thứ sản xuất rất đặc biệt mang tính cá thể. Cho nên không cách nào khác chính nhà văn, mà nhất là thi sĩ, phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của mình bắt nguồn từ đó hướng ra thế giới bên ngoài. Đời sống tinh thần của người nghệ sĩ hầu như không lúc nào yên ổn, luôn cọ quậy, ám ảnh bởi những chi tiết, hình ảnh đã thâu nhận từ cuộc sống, nhất là khi họ đang thai nghén ý đồ sáng tạo, đang tập trung tinh thần để gọi tên một cảm giác, một tình cảm chợt lóe lên như tia chớp. Khi nhà văn thấy lóe lên một tia chớp sáng tạo, họ lập tức chộp lấy ngay và thấy mình bỗng nhiên bị cuốn hút vào một cảm giác, một hình ảnh hay một ý nghĩ nào đó và lập tức muốn bắt tay vào sáng tác. Xung quanh phạm trù về cảm hứng, có rất nhiều ý kiến, bàn luận. Hêgel và Biêlinxki đều dùng từ “cảm hứng” (tiếng Hy Lạp cổ gọi là “pathos” – một tình cảm sâu sắc, nồng nàn) để chỉ trạng thái phấn hứng cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ muốn miêu tả. Vấn đề về hứng còn được học giả Francois Jullien nêu lên trong cuốn Đường vòng và lối vào qua bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến, thì hứng với đặc trưng được nêu lên là: “Ở khoảng giữa hữu ý và vô ý” [31,193]. Tác giả giải thích rằng làm thơ mà “hữu ý” từ đầu chí cuối thì không còn là thơ nữa. Và lối viết “buông thả hoàn toàn tự động”, có nghĩa là “vô ý” từ đầu chí cuối thì chỉ là thể nghiệm thơ. Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn, thấy ngoại cảnh mà có hứng, muốn nói lên nỗi lòng mình, cảnh tình riêng của mình. Qua đó, chúng ta nhận thấy rằng làm thơ là một việc khó và không phải ai cũng có thể làm được. Nhiều khi người ta cho rằng khả năng làm thơ là một thiên phú, trời cho và thường gây cảm xúc thán phục nếu ai đó có khả năng xuất khẩu thành thơ. Đương nhiên khi làm thơ, người làm thơ phải có hiểu biết và một minh trí nhất định, song kể cả khi dùng minh trí thì minh trí của người làm thơ cũng bị cảm xúc, tình cảm chủ quan chi phối. Từ đó có thể hiểu, thi ca là tất cả những gì thuộc tình cảm và lý trí chịu sự chi phối của cảm xúc, của tình cảm. Khi nào con người còn những rung động, nghĩa là tâm hồn con người còn chất thi ca và điều đó sẽ khiến cho con người sống có ý nghĩa hơn trên cõi đời này. Ngô Thì Nhậm từng kêu gọi các thi nhân nuôi dưỡng nguồn cảm hứng sáng tác của mình bắt đầu bằng: “Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần”; Còn cảm hứng đối với Lê Quý Đôn được hiểu như trạng thái cảm xúc tràn đầy: “Trong lòng có cảm xúc thật sự, rung cảm nên lời”; Nguyễn Quýnh cũng vậy, ông đề cao “cái hứng” trong thơ: “Người như sông biển, chữ như nước, hứng thì như gió, gió thổi từ sông biển cho nên nước lay động làm thành gợn, thành sóng, thành ba đào. Hứng chạm vào người ta cho nên chữ nổi dậy, không thể nín được mà sinh ra ở trong lòng, ngâm vịnh ở ngoài miệng, viết ra ở bút nghiên, giấy mực. Gió không bám vào chỗ nào nhất định, hứng cũng biến động, không ở yên, mỗi cái tuy ở Đông, Tây, Nam, Bắc mà buột ra rất nhanh. Người làm thơ không thể không có gió vậy. Không chỉ thế, Nguyễn Quýnh khẳng định: “Người làm thơ không thể không có hứng, cũng như tạo hóa không thể không có gió vậy…Tâm người ta như chuông như trống, hứng như chày và dùi. Hai thứ đó gõ, đánh vào chuông trống khiến chúng phát ra tiếng; hứng đến khiến người ta bật ra thơ”[83,103]. Tóm lại, không thể có thơ nếu không xúc động, hoặc nếu hồn không rung động cho lời buông theo. Với K. Pautôpxki trong tác phẩm “Bông hồng vàng và Bình minh mưa” thì: “…. Cảm hứng đi vào tâm hồn chúng ta như một buổi sáng mùa hạ rực rỡ vừa mới rũ khỏi thân mình sương mù của một đêm êm ả, nhưng vẫn còn lại những hạt sương sớm với những bụi cây ẩm ướt. Nó nhẹ nhàng thổi cái tươi mát tốt lành của nó vào mặt chúng ta. Cảm hứng giống như mối tình đầu, khi tim ta rộn ràng cảm thấy trước những cuộc gặp gỡ ly kỳ, đôi mắt đẹp tuyệt trần, những nụ cười và những câu hỏi ngập ngừng dang dở…Lúc đó thế giới bên trong của chúng ta trở nên tinh tế và chuẩn xác như một cây đàn kỳ diệu, đáp lại mọi âm thanh của cuộc đời kể cả những tiếng động thầm kín nhất, khó nhận thấy nhất”[70, 46]. Có thể thấy, cảm hứng sáng tác vừa là cuộc hành trình nhọc nhằn vừa là sự nghỉ ngơi thư thái trong tâm hồn nghệ sĩ. Nó buộc người nghệ sĩ vào trạng thái lao động nghiêm túc, cẩn trọng bằng niềm say mê, bằng tất cả niềm hứng khởi; Nó tiếp nhận hiện thực một cách sinh động, khi trong người tràn đầy ý nghĩ và tri thức về sáng tạo của mình. Như thế, hoạt động sáng tác thơ chẳng như suy lý, không phải là một khả năng chỉ hoạt động theo sự sai khiến của ý chí. Trong hoạt động sáng tạo, tinh thần như một cục than nguội gặp một sức mạnh huyền bí tương tự như làn gió phất phơ thổi lên cho sáng lờ mờ chốc lát; sức mạnh đó xuất phát từ nội tâm, song chỉ như một màu hoa mới nở đã tàn phai và thay hình đổi dạng…Giá thử sức kia bền bỉ mà vẫn thuần túy mạnh mẽ như lúc khởi thủy, tất không thể đoán trước rằng kết quả sẽ rộng lớn đến chừng nào; nhưng khi bắt đầu sắp đặt thành bài, thi hứng đã suy giảm mất rồi, và thơ nào rạng rỡ nhất đem truyền bá cho đời, có lẽ cũng chỉ còn phản chiếu lơ mơ những ý niệm ban đầu của nhà thơ. Như vậy, cảm hứng có vai trò quan trọng đối với nhà thơ. Nó đem lại trạng thái phấn chấn về tinh thần giúp cho nhà thơ có động lực sáng tạo đồng thời giúp nhà thơ thấy rõ và nhanh vấn đề, phát hiện ra những điều mới, thú vị, từ đó thực hiện công việc sáng tác một cách thích thú và có kết quả cao. Cảm hứng đối với nhà thơ là một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng vì nó là điểm khởi đầu, là chất men sáng tạo cho sáng tác của họ. Trong hệ thống tư tưởng mỹ học của Hegel thì cảm hứng được xem như là “trung tâm điểm”, là “vương quốc thật sự”[30,208]của nghệ thuật. Khi hứng khởi, sẽ gây nên chấn động mạnh mẽ trong tâm hồn, từ đó phát ra cảm xúc, ngôn từ, tiết tấu và bài thơ cứ thế mà sinh ra…Thi tiên nổi tiếng đời Đường- Lí Bạchtừng ngâm nga: “Hứng hàm lạc bút dao ngũ nhạc” (Khi cảm hứng say sưa, hạ ngọn bút làm rung chuyển năm núi lớn) (Giang thượng ngâm) Hứng còn có tác động khởi hứng, khích động mạnh mẽ tâm hồn, tạo ra không gian khởi hứng. Lưu Hiệp trong “Văn tâm điêu long” còn đưa ra khái niệm “nhập hứng”. Có hứng, có khởi hứng, nhà thơ phải nhập hứng thì mới thành thơ. Và ông đưa ra điều kiện để nhập hứng ở thiên 46 là: Cho nên, bốn mùa chuyển đổi tràn trề Mà nhập hứng cốt ở sự bình tâm, an nhiên.[33,501] Sự tràn trề thanh sắc của bốn mùa chuyển động (hứng) gây cảm xúc xao xuyến (khởi hứng), nhưng để nhập hứng thì phải có sự bình tâm, cái nền điềm tĩnh, an nhiên của tâm hồn. Nói tóm lại, dù có rất nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau về cảm hứng nhưng tựu chung các nhà nghiên cứu đều nhìn nhận: Cảm hứng là trạng thái nhiệt hứng của tâm hồn người nghệ sĩ. Nó giữ vai trò trọng yếu trong quá trình sáng tác cũng như đối với từng tác phẩm của nhà thơ. 1.1.2 Cảm hứng nghệ thuật – vùng thẩm mĩ riêng của nhà thơ Nhà thơ nào cũng có quyền sở hữu một thế giới thi ca, một vùng đất thơ giàu giá trị thẩm mĩ. Ở thế giới ấy, nhà thơ tự do trình diễn tâm hồn mình và cái nhìn của mình về cuộc sống và con người bằng những sắc màu, hình ảnh, âm thanh, tư tưởng…với nguồn cảm hứng bất tận. Khi đi sâu vào bản chất của cảm hứng trong tác phẩm văn học, nhà nghiên cứu Phùng Quý Nhâm cho rằng cũng nên “xem cảm hứng được thể hiện như thế nào trong tác phẩm văn học…Cảm hứng trong tác phẩm văn học không chỉ là nội dung tình cảm, mà đúng hơn là nội dung tư tưởng – tình cảm được thể hiện và biểu hiện một cách nghệ thuật, một cách thẩm mĩ trong tác phẩm”[59,20]. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đích thực nhà thơ phải hướng con người tới cái đẹp bằng sự lên tiếng, bằng sự thăng hoa cảm xúc của chính mình. Do vậy mà, cảm hứng trong tác phẩm phải được nhà thơ biểu hiện qua mạch tư tưởng – cảm xúc chủ đạo, qua sự lí giải các vấn đề đặt ra, qua giọng điệu… Hơn hết, nhà thơ phải là người có tư tưởng. Nhưng nghệ thuật không phải chỉ là tư tưởng đơn thuần mà phải là tư tưởng được rung lên ở các cung bậc tình cảm, được chuyển tải bằng những cảm xúc, là tất cả nhiệt tình kết tinh lại của người nghệ sĩ. Như vậy, khi nói cảm hứng nghệ thuật gắn liền với nguồn mạch tư tưởng – cảm hứng chủ đạo của người nghệ sĩ cũng có nghĩa là khẳng định quyền tự do lựa chọn vùng thẩm mĩ riêng trên con đường sáng tạo nghệ thuật của mình. Việc nhà thơ xác định tư tưởng khi đến với văn học là quan trọng và thiết thực. Bởi tư tưởng sẽ là nền tảng để nhận thức, lí giải đối với toàn bộ nội dung cụ thể sống động của tác phẩm văn học, cũng như những vấn đề nhân sinh đặt ra. Tư tưởng có thể được xem là linh hồn, là kết tinh của những cảm nhận, suy nghĩ về cuộc đời. Tư tưởng thấm nhuần trong tác phẩm như máu chảy trong huyết mạch thấm đến từng tế bào cơ thể. Biêlinxki từng khẳng định: “Tư tưởng thơ, đó không phải là phép tam đoạn thức, không phải là giáo điều, không phải là quy tắc, mà là một ham mê sống động, đó là cảm hứng…”[ 27, 383] Khi tự do trong vùng thẩm mĩ của mình thì trạng thái tình cảm của nhà thơ là trạng thái đầy cảm hứng, không phải là trạng thái bình thường. Làm việc mà không có cảm hứng sẽ khó khăn, gượng gạo và thường không thu được những bất ngờ, lí thú.Thái độ, tình cảm yêu ghét rõ ràng ở đây là xuất phát từ trái tim của người nghệ sĩ, chứ không phải là sự “thương vay, khóc mướn”.Nhà thơ phải biết nuôi dưỡng cảm hứng mới mong đem đến cho người đọc thông điệp mới lạ, độc đáo. Vì “tư duy thơ là tư duy sáng tạo trong trạng thái đầy cảm hứng”[87, 66]. Cảm xúc trơ lì, mòn sáo, tình cảm thoáng qua, hời hợt thì những tư tưởng dù đúng đến mấy cũng chỉ vô hồn, vô cảm trên trang giấy, thơ phải nhất thiết có thần, có hứng thì mới linh động được. Nhà thơ chỉ có thể sáng tạo nên tác phẩm khi cảm thấy tiếng nói thôi thúc mãnh liệt con tim, từ đó mà thành cú hích sáng tạo, giây phút bùng nổ cảm hứng. A.Tônxtôi gọi trạng thái lao động, cảm hứng theo cách của ông là “xuất thần”. Nếu “xuất thần” – ông nói–“thì tôi viết được nhanh. Nếu không, tôi phải vứt đấy cái đã”[70,107]. Chắc chắn là các nhà thơ đều biết đến cái trạng thái tuyệt điệu đó trong lúc sáng tạo, khi một ý mới hoặc một cảnh mới bất thần hiện ra như những tia chớp. Nếu không ghi lại ngay lúc ấy, chúng có thể biến mất không để lại một dấu vết gì. Bagritxki ghi lại những câu thơ chợt đến vào vỏ bao thuốc lá nhưng lại thường đánh mất chúng. Lisa Deharme gọi đó là cái lồng bỏ trống: Tôi đã bỏ lỡ áng thơ từng mơ ước cho cả đời cái đêm người ta quên để bút chì gọt sẵn bên giường tôi… Nói về vấn đề tư tưởng của người sáng tác trong tác phẩm, Biêlinxki quan niệm: “Trong những tác phẩm thi ca đích thực, tư tưởng không phải là một khái niệm trừu tượng, được diễn tả một cách giáo điều, mà nó tạo thành linh hồn tỏa vào trong tác phẩm giống như ánh sáng chiếu vào pha lê. Tư tưởng trong sáng tạo thi ca – đó chính là cảm hứng…Cảm hứng là sự thiết tha và nhiệt tình nồng cháy gợi lên bởi một tư tưởng nào đó”, “Cảm hứng biến sự nhận thức của trí tuệ về một tư tưởng nào đó trở thành lòng say mê đối với tư tưởng đó, trở thành năng lượng và khát vọng nồng nhiệt”[30,208]. Như thế có sự tương quan giữa tư tưởng nhà văn và cảm hứng trong sáng tác: tư tưởng sẽ khơi nguồn, là tiền đề cho cảm hứng. Ở những tác phẩm mang tư tưởng giả tạo thì cảm hứng sẽ mang tích chất gượng gạo. Lí luận văn học xem thuật ngữ cảm hứng, cảm hứng chủ đạo là một yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng xúc cảm ở nghệ sĩ đối với thế giới. Việc nhà thơ nuôi dưỡng nguồn cảm hứng chủ đạo trong vùng thẩm mĩ riêng, thể hiện được mối quan hệ biện chứng tích cực là: Chính cảm hứng chủ đạo đem lại cho tác phẩm một không khí xúc cảm tinh thần nhất định,theo các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển văn học: “Cảm hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm”[27,44]. Không những thế cảm hứng nghệ thuật chủ đạo thấm nhuần trong mọi yếu tố của tác phẩm văn học và từ đó giữ một vai trò quan trọng trong việc tạo nên hình tượng tác giả trong tác phẩm. Ngược lại, hình tượng tác giả chi phối từ cách nhìn, giọng điệu đến cách thức lựa chọn, phân tích và phản ánh hiện thực cuộc sống vào tác phẩm. Hình tượng tác giả tồn tại như vô hình, nhưng lúc nào ta cũng nhìn theo cái nhìn, giọng điệu của tác giả. Ta luôn luôn thấy con mắt tác giả đặt vào các chi tiết. Cái nhìn, giọng điệu này không trừu tượng như tư tưởng, cũng không tản mạn như những cảm giác mà nó luôn luôn có mặt và có tính ổn định trong tác phẩm. Không thể phủ nhận vai trò bao quát, chi phối, có tính định hướng, có tính quyết định đến mọi phương diện của tác phẩm văn học ở cảm hứng chủ đạo. Trong Lí
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan