1
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn “Cảm hứng dân tộc – lịch sử trong kịch Nguyễn
Đình Thi”, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc tới PGS.TS
Phạm Thành Hưng. Thầy đã giúp đỡ tôi từ những phác thảo, ý tưởng đầu tiên tới
khi luận văn được hoàn thành.
Tôi cũng cảm ơn gia đình đã động viên, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành
luận văn này.
Cảm ơn những người bạn thân đã san sẻ để luận văn được trọn vẹn.
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam
đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn
và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
NGƯỜI VIẾT
ĐỖ THU HÀ
3
MỤC LỤC
Lời cảm ơn……………………………...………………………………………….....................................................................................1
Lời cam đoan……………………...………………………………………………..................................................................................2
Mục lục……………………………………………………………………........................................................................................……….3
PHẦN MỞ ĐẦU…..…………………..…………………………………............................................................................. .......6
1. Lý do chọn đề tài…………….………………………………………………………………………….……………..……...…6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề…………….…………………………………………………………………...…...……..…..7
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu…………..……………………………………………………………..…………..11
4. Mục đích, nhiệm vụ luận văn……………………..……………….……………………………….………..….…….12
5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………………….……………………..………….13
6. Cấu trúc luận văn…………………………….……………………………………………………………………..………….14
PHẦN NỘI DUNG………..……………………………………..………………………………………………………..... 14
Chương I: Sáng tác của Nguyễn Đình Thi và cảm hứng dân tộc – lịch sử
trong văn học………………………...……………………………………………………………………...…...…………………...14
1.1. Sáng tác của Nguyễn Đình Thi……………………………………………………………………………….14
1.1.1. Cuộc đời Nguyễn Đình Thi…………………………………………………..…..….……………...….14
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Thi…………………………………….………….....16
1.2. Cảm hứng dân tộc lịch sử trong kịch Nguyễn Đình Thi………………….……..……..17
1.2.1.Cảm hứng – một lớp nội dung đặc thù của tác phẩm văn
học……………………………………………………………..............................................................................................………………...17
4
1.2.2. Cảm hứng dân tộc – lịch sử trong văn học Việt Nam…….……………….…….....20
1.2.3. Cảm hứng dân tộc – lịch sử trong sáng tác của Nguyễn Đình
Thi……..............................................................................................................................................................................................................22
Chương II: Cảm hứng dân tộc – lịch sử như một nguồn tư tưởng thẩm mỹ
chủ đạo…………………………………………………………………………………...……………………………………………......26
2.1. Cảm hứng dân tộc – lịch sử trong những tác phẩm khai thác đề tài lịch sử
( qua các vở : Rừng trúc, Nguyễn Trãi ở Đông Quan )……………………….……………..……26
2.1.1. Vận mệnh dân tộc trong những thời khắc lịch sử ……………………………......…27
2.1.2. Dân tộc và vai trò của người cầm quyền..………………...………………………………..30
2.1.3. Dân tộc và vai trò của người trí thức………….………………………………..……..………35
2.1.4. Nhân dân – chủ nhân ông của lịch sử…..……………...………………………….….………39
2.2. Cảm hứng dân tộc – lịch sử trong những tác phẩm có nguồn mạch văn
hóa dân gian ( qua các vở: Con nai đen, Người đàn bà hóa đá, Cái bóng trên
tường, Trương Chi, Hòn cuội )……………………………………….…………………………………………….…45
2.2.1. Nguyễn Đình Thi – vệ sĩ của những giá trị văn hóa dân tộc cổ
truyền…….………………………………………………………………………………………………………………….…..…………...45
2.2.2. Cách sống và cách nghĩ của con người Việt Nam – cội nguồn của sức
mạnh dân tộc ……..………………………………………………………………………………………………..………………….48
2.3. Cảm hứng dân tộc – lịch sử trong những tác phẩm hướng về cuộc sống
đương đại ( qua các vở: Hoa và Ngần, Giấc mơ, Tiếng sóng )…...…………………..…….62
2.3.1. Con người đời thường trong những thăng trầm lịch sử…...……………………..62
2.3.2. Sự vận động của số phận con người trong mối quan hệ với lịch sử dân
tộc ………………..……………………………………………………………………………………………………………………………64
Chương III: Cảm hứng dân tộc – lịch sử qua các phương thức và thủ pháp
biểu hiện…………………………………..……………………………………………………………………………………………...74
5
3.1. Xung đột ……………………….………………………………………………………………...………………….…………..74
3.1.1. Xung đột kịch - sự phản ánh những mâu thuẫn của cuộc
sống…………………………………………………………………………………………………………………………..…..……...…….74
3.1.2. Xung đột trong kịch Nguyễn Đình Thi……………..……………………………...……….76
3.1.2.1. Xung đột tính cách…..………………………………………………………………....……………….80
3.1.2.2. Xung đột nội tâm nhân vật………………………………………..………………………………88
3.2. Nhân vật…………………………..…………………………………………………………………………………...…………94
3.2.1. Nhân vật kịch và sự phân loại nhân vật trong kịch Nguyễn Đình
Thi……………………………………………………………………………………………………………………………………………...94
3.2.2.Những nhân vật xuất phát từ hiện thực đời sống………………………….……...…...96
3.2.3. Những nhân vật biểu tượng………...…………………..……………………………………..………99
3.2.3.1. Biểu tượng loài vật, đồ vật, sự vật………….………..……………………………102
3.2.3.2. Biểu tượng con người………………...….………………………………………...………..107
3.3. Ngôn ngữ ………………………..……….…………………………………………………………………….……………..110
3.3.1.Ngôn ngữ kịch – một hệ thống ngôn ngữ đặc thù thể loại ……………..….110
3.3.2. Đặc điểm ngôn ngữ kịch Nguyễn Đình Thi…………....…………….……………….113
3.2.2.1. Ngôn ngữ giàu chất triết lý…..………………….…………………………………….113
3.2.2.2. Ngôn ngữ giao hòa của thơ và kịch…………………..................................…...115
PHẦN KÊT LUẬN…..………………………………………………..……………………………………….……………..120
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................………122
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế là đã mấy năm Nguyễn Đình Thi - “người Hà Nội” ấy giã biệt chúng
ta. Thời gian chưa phải là dài, nhưng tiếng lòng ông, cái tiếng chim từ quy khắc
khoải vẫn luôn vẫy gọi những tri âm, vẫy gọi những người mến chuộng tài hoa, tài
năng và nhân cách. Có người yêu mến ông bởi những trang tiểu luận hùng hồn mà
sâu sắc, có người say mê những vần thơ “vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần”,
có người thích thú những cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn hào hùng về cuộc chiến đã
đi qua, hay xúc động không nguôi với các nhạc phẩm trong trẻo mà đầy tráng khí
ca... Và có không ít người nặng lòng với các kịch bản sâu sắc, mà theo tác giả là
đồng nhất với “nỗi tâm huyết nhất của đời tôi, là những nỗi đau nhức nhối của đời
tôi và cũng là một trong những niềm hạnh phúc nhất của đời tôi”. Người viết
chọn kịch Nguyễn Đình Thi là đối tượng nghiên cứu cho luận văn của mình trước
hết cũng xuất phát từ một niềm yêu mến như thế. 10 vở kịch còn lại với đời, so với
sự đồ sộ của thơ ca, của tiểu thuyết, truyện ngắn thì ngôi nhà kịch của Nguyễn
Đình Thi có vẻ khiêm tốn, nhỏ bé hơn. Thế nhưng, không ít ý kiến lại cho rằng
kịch chính là mảng thành công nhất trong sự nghiệp sáng tác gần 60 năm của
người nghệ sỹ tài hoa này.
Dường như là một quy luật, “trong hành trình sáng tạo của mỗi
người, thơ thường đến sớm, vào giai đoạn đầu đời khi tâm hồn còn nhiều nét hồn
nhiên, mơ mộng thì kịch đến muộn hơn, thường là ở giai đoạn sau, khi người ta đủ
sự từng trải và khôn ngoan để nhận thức được những mâu thuẫn phức tạp của
7
cuộc sống xung quanh” [36, tr.128]. Nguyễn Đình Thi đến với kịch khi tuổi đã xế
chiều, khi bắt đầu nghe được “những tiếng gọi từ trên cao”, khi đã kênh qua
nhiều ghềnh thác, chiêm nghiệm của cuộc đời. Vì thế, kịch của ông chín chắn,
mang nặng suy ngẫm, đúc kết, trở trăn đượm màu sắc triết học về vận mệnh dân
tộc, số phận con người, những quy luật trong cuộc sống. Tất cả điều đó được thể
hiện trong một nghệ thuật viết hấp dẫn, độc đáo với những mâu thuẫn vừa mang
tính thời đại, vừa mang tính lịch sử, với những nhân vật gai góc, cá tính, để lại ấn
tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Nổi bật, bao trùm lên tất cả sáng tác kịch
Nguyễn Đình Thi chính là cảm hứng dân tộc – lịch sử. Có thể nói cảm hứng dân
tộc – lịch sử là một dòng chảy lớn xuyên suốt kịch Nguyễn Đình Thi, đồng thời là
một trường lực lớn hấp dẫn, chi phối tất cả các yếu tố khác trong kịch. Đó là lí do
người viết khu biệt phạm vi đề tài trong cảm hứng dân tộc – lịch sử. Nắm bắt thấu
đáo đặc điểm cảm hứng dân tộc – lịch sử trong kịch Nguyễn Đình Thi cũng như
chiều hướng vận động phát triển của nó chính là nắm được một nét bản chất nhất
trong kịch Nguyễn Đình Thi nói riêng, trong toàn bộ sáng tác của ông nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho tới nay đã có nhiều bài viết nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Đình Thi, nhưng nhìn chung các công trình riêng biệt về kịch thì chưa
nhiều. Đối với cảm hứng dân tộc – lịch sử, nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đã
nhận ra đây là một đặc điểm trong sáng tác Nguyễn Đình Thi. Cụ thể khảo sát qua
Nguyễn Đình Thi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Đình Thi – Cách mạng và tài
hoa, Nguyễn Đình Thi cuộc đời và sự nghiệp và một số bài rải rác trên internet
như sau:
8
- Hà Minh Đức trong Sự nghiệp văn chương Nguyễn Đình Thi nhận xét: “
Đất nước, Cách mạng, chiến tranh và người lính, những chủ đề, hình ảnh lớn ấy
luôn ám ảnh, đặt cho tác giả những suy nghĩ, trách nhiệm sáng tạo” [17, tr.20]
- Khi nói về thơ Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Xuân Nam nhận xét: “Nét rõ
nhất trong tình cảm của Nguyễn Đình Thi là niềm tự hào về đất nước mình” [17,
tr.23 ].
- Phan Cự Đệ trong Nguyễn Đình Thi cho rằng: “Cảm hứng về đất nước
tươi đẹp, về dân tộc anh hùng bất khuất, về con người Việt Nam thủy chung tình
nghĩa... đã tạo nên một chất thơ dào dạt, thắm thiết thấm nhuyễn vào toàn bộ các
đề tài trong sáng tác của Nguyễn Đình Thi” [17, tr.51].
- Hoàng Cát trong Nguyễn Đình Thi nhà thơ hiện đại quan niệm: “Mọi sáng
tác của Nguyễn Đình Thi bất kỳ lĩnh vực nào... bao giờ ông cũng gắn chặt với mọi
vui buồn của nhân dân và đất nước” [17, tr.250].
- Mai Hương tiếp tục khẳng định trong Nguyễn Đình Thi từ quan niệm đến
thơ: “Nguyễn Đình Thi đặc biệt nồng nàn trong dòng cảm xúc về quê hương đất
nước”. [17, tr.270]
- Tôn Phương Lan trong Thơ Nguyễn Đình Thi cũng nhận thấy: “Có thể nói
ý thức dân tộc và lòng yêu nước đã hình thành rất sớm ở Nguyễn Đình Thi và
được biểu hiện sâu đậm ở nhiều lĩnh vực” [17, tr.282].
Ở bài viết Nguyễn Đình Thi – nghệ sỹ và cách mạng, Tôn Phương Lan tiếp
tục chia sẻ quan điểm: “Cảm hứng chủ đạo ở Nguyễn Đình Thi là cảm hứng về
đất nước và dân tộc anh hùng, ý thức về dân tộc, về tổ quốc bao giờ cũng được
đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với Cách mạng, với Đảng” [33, inter].
- Trong Nguyễn Đình Thi như tôi biết, Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Tất
cả những gì tạo nên vẻ đẹp văn chương của ông đều bắt nguồn từ tình cảm thiết
tha đối với quê hương, đất nước mình” [35, tr.293].
9
- Nghiên cứu vở kịch Con nai đen, Phạm Vĩnh Cư có ý kiến: “Kịch Con nai
đen… mang rõ nét tất cả những gì là đặc trưng nổi bật của ngòi bút Nguyễn Đình
Thi: chất trữ tình bao trùm và thẩm thấu tất cả, cảm hứng sử thi anh hùng gắn
liền với đề tài yêu nước và chiến đấu bảo vệ đất nước, sự tôn vinh lãng mạn tình
yêu nam nữ, sự khẳng định quan hệ thân thiết, đồng chất giữa con người với thiên
nhiên, cảm hứng về dân tộc như một giá trị tối cao và bất tử mà chỉ ở đấy con
người mới tìm thấy ý nghĩ cho cuộc sống của mình” [10, inter].
- Trần Hữu Tá khi nói về Phong cách Nguyễn Đình Thi cũng cho rằng: “Dù
viết trên thể loại nào, điều dễ làm ông xúc động sâu sắc hơn cả là cảm nghĩ về đất
nước, về dân tộc đang trải qua thử thách lớn lao và đau đớn của lịch sử” [32,
tr.70].
- Nguyễn Văn Thành trong Cốt cách văn hóa trong sự nghiệp sáng tạo của
nhà văn Nguyễn Đình Thi nhận xét: “Thế giới nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi
trải rộng ra ở nhiều phạm vi khác nhau của hiện thực từ quá khứ lịch sử dân tộc
đến phong trào vận động Cách mạng và hai cuộc kháng chiến cứu nước, từ những
vấn đề lớn lao liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc hoặc hướng đi, lẽ sống
của cả một lớp người trước ngã ba thời cuộc đến những trở trăn, day dứt trong
tâm trạng từng cá nhân” [50, tr.235]
Về chuyên luận cụ thể nghiên cứu Nguyễn Đình Thi, hiện chúng tôi có hai
công trình: luận văn thạc sỹ Phong cách kịch Nguyễn Đình Thi của Bùi Thị Thanh
Nhàn ( Đại học KHXH&NV ) và luận án tiến sỹ Nguyễn Đình Thi với thơ và kịch
của Lê Thị Chính ( Đại học Sư phạm Hà Nội ):
- Trong luận văn Phong cách kịch Nguyễn Đình Thi, Bùi Thị Thanh Nhàn
cũng xác định đặc điểm thứ nhất trong phong cách kịch Nguyễn Đình Thi chính là
“cảm quan lịch sử, thời đại, dân tộc, con người với chiều sâu triết luận giàu tính
nhân văn”.
10
- Luận án Nguyễn Đình Thi với thơ và kịch của Lê Thị Chính cũng xác định
tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi là “thiết tha với đất nước, với dân tộc”
với 3 biểu hiện cụ thể: cảm hứng về lịch sử đất nước, thiết tha với văn hóa Việt
Nam và trăn trở về số phận con người.
Từ sự thống kê trên chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
Thứ nhất, sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Thi cho tới nay đã được
nghiên cứu tương đối sâu sắc, rộng rãi, trong đó có kịch.
Thứ hai, riêng với kịch, Luận văn Phong cách kịch Nguyễn Đình Thi và
Luận án Nguyễn Đình Thi với thơ và kịch nhìn chung đã có cái nhìn tổng quan,
khái quát được nhiều bình diện quan trọng về nội dung và nghệ thuật trong kịch
Nguyễn Đình Thi.
Thứ ba, về vấn đề cảm hứng dân tộc – lịch sử: Nhiều bài viết đã nhận diện
cảm hứng dân tộc – lịch sử là nét nổi bật trong sáng tác Nguyễn Đình Thi, không
chỉ trong kịch mà còn ở cả thơ, cả truyện ngắn, tiểu thuyết. Có thể khẳng định đây
là đặc điểm hết sức quan trọng trong sáng tác của Nguyễn Đình Thi nói chung,
trong kịch Nguyễn Đình Thi nói riêng.
Thứ tư, tuy nhiên vấn đề cảm hứng dân tộc – lịch sử trong kịch Nguyễn
Đình Thi vẫn chưa được giải quyết thấu đáo, toàn diện các các bình diện biểu hiện
cụ thể. Các công trình nhìn chung chỉ mang tính nhận xét, điểm xuyết. Luận văn
Phong cách kịch Nguyễn Đình Thi của Bùi Thị Thanh Nhàn tuy có đặt ra vấn đề
về cảm quan lịch sử, thời đại, dân tộc nhưng khi giải quyết vẫn chưa đi hết các tác
phẩm mà chỉ chủ yếu chỉ đặt trong tương quan với các sáng tác khai thác đề tài
lịch sử. Còn luận án Nguyễn Đình Thi với thơ và kịch tuy xác định tư tưởng của
Nguyễn Đình Thi là niềm thiết tha với đất nước, với dân tộc nhưng khi đi vào
nghiên cứu kịch, tác giả chỉ dừng lại ở những vấn đề mang thuộc về nghệ thuật
kịch như xung đột, nhân vật, ngôn ngữ.
11
Như thế, ta thấy rằng cảm hứng dân tộc – lịch sử là một vấn đề hết sức quan
trọng trong kịch Nguyễn Đình Thi nhưng chưa được quan tâm đúng mức và hiện
nay chưa có công trình nào tập trung, đi sâu tìm tòi, khám phá. Đây sẽ là tiền đề
cơ bản để người viết tiến hành luận văn của mình, một mặt tiếp thu những ý kiến
đã có, một mặt phát triển theo định hướng đề tài, nhằm đem đến cái nhìn đầy đủ,
toàn diện hơn về vấn đề đặt ra.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Nguyễn Đình Thi có sự nghiệp sáng tác khá đồ sộ với 6 tập thơ, 9 tập truyện
ngắn, tiểu thuyết, 4 tập tiểu luận, 10 tác phẩm kịch ( theo thống kê của Nguyễn
Xuân Lạc trong Nguyễn Đình Thi – Cách mạng và tài hoa ), chưa kể đến các bài
nghiên cứu triết học, bút ký… Trong luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu
vào 10 tác phẩm kịch Nguyễn Đình Thi gồm:
- Con nai đen ( 1961 )
- Hoa và Ngần ( 1975 )
- Rừng trúc ( 1978 )
- Nguyễn Trãi ở Đông Quan ( 1979 )
- Người đàn bà hóa đá ( 1980 )
- Giấc mơ ( 1983 )
- Cái bóng trên tường ( 1983 )
- Trương Chi ( 1983 )
- Tiếng sóng ( 1985 )
- Hòn cuội ( 1987 )
Các tác phẩm này được in trong Tuyển tập Nguyễn Đình Thi ( Tập 1 ) (
NXB Văn học, H, 1997 ) hay Nguyễn Đình Thi – Tác phẩm chọn lọc ( NXB Sân
12
khấu, H, 2005 ) và tập kịch Hòn Cuội ( Nguyễn Đình Thi, NXB Tác phẩm mới,
Hội nhà văn Việt Nam, H, 1987 ). Vấn đề cụ thể được quan tâm nghiên cứu là
cảm hứng dân tộc – lịch sử được nhà văn thể hiện, gửi gắm qua các tác phẩm kịch.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Trên văn đàn kịch Việt Nam, Nguyễn Đình Thi chưa phải là kịch tác gia nổi
trội với những sáng tác dồi dào kiểu Lưu Quang Vũ, Đào Hồng Cẩm, Xuân
Trình… Nhưng mỗi vở kịch của ông đều mang một tiếng nói riêng in dấu hơi thở
thời đại với sự tìm tòi, cách tân cả về nội dung lẫn thi pháp. Đúng như nhiều nhà
nghiên cứu nhận xét, dường như Nguyễn Đình Thi không viết kịch mà ông chỉ
mượn hình thức kịch để chuyển tải những trăn trở của mình. Và vấn đề cốt tử, thể
hiện chiều sâu trong suy nghĩ của người trí thức lớn chính là nỗi đau đáu về vận
mệnh dân tộc trong từng thời kỳ lịch sử. Ở luận văn này, chúng tôi đặt ra nhiệm vụ
sẽ nghiên cứu rõ các nội dung cụ thể của cảm hứng dân tộc – lịch sử trong kịch
Nguyễn Đình Thi, giải quyết những vấn đề còn “bỏ ngỏ”, từ đó góp phần hiểu
thêm đóng góp của Nguyễn Đình Thi trong kịch nói riêng, trong toàn bộ sự nghiệp
văn học nói chung, tiến tới xác định vị trí của Nguyễn Đình Thi trong tiến trình
văn học Việt Nam hiện đại cũng như vai trò của ông trong sự phát triển kịch Việt
Nam hiện đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiến hành đề tài nghiên cứu, chúng tôi vận dụng phối hợp các phương pháp
như: Nghiên cứu tác giả, nghiên cứu tác phẩm theo đặc trưng thể loại và các
phương pháp tổng hợp liên ngành như văn học sử, văn học so sánh, thi pháp học…
13
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Sáng tác của Nguyễn Đình Thi và cảm hứng dân tộc – lịch sử
trong văn học Việt Nam.
Chương II: Cảm hứng dân tộc – lịch sử như một nguồn tư tưởng thẩm mỹ
chủ đạo.
Chương III: Cảm hứng dân tộc – lịch sử qua các phương thức và thủ pháp
biểu hiện.
14
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN ĐÌNH THI VÀ
CẢM HỨNG DÂN TỘC – LỊCH SỬ TRONG VĂN HỌC
1.1. Sáng tác của Nguyễn Đình Thi
1.1.1. Cuộc đời Nguyễn Đình Thi
Nguyễn Đình Thi sinh ngày 20 / 12 / 1924 tại Luang Prabang ( Cộng hòa
Dân Chủ Nhân dân Lào ). Quê gốc Nguyễn Đình Thi ở làng Vũ Thạch ( nay là
phố Bà Triệu – Hà Nội ). Nhưng những năm đầu đời, ông sống với bố mẹ ở Lào.
Cụ thân sinh của ông là một viên chức ngành bưu điện song lại có tình yêu văn
học nghệ thuật. Theo lời kể Thái Sông Hồng: “Trong phòng làm việc và nơi ở của
ông cụ có treo la liệt các loại đàn dân tộc: đàn tam, đàn tứ, đàn nguyệt và các loại
đàn dây như ghi ta, ác-cooc-đê-ông, kèn ắc-mô-ni-ca…” [ 14,inter ]. Vì thế gia
đình cụ trở thành nơi sinh hoạt âm nhạc văn hóa Việt của bà con Việt kiều ở
Luang Prabang. Những ngày thơ ấu đáng nhớ trên đất người với tiếng đàn, câu thơ
đượm hồn dân tộc đã sớm bồi đắp, hình thành trong Nguyễn Đình Thi một tình
yêu tự nhiên với quê hương, xứ sở mà yêu trước hết chính là văn hóa dân tộc.
Năm 7 tuổi, Nguyễn Đình Thi theo mẹ về nước sống ở Hải Phòng. Ông học
ở đây sau đó chuyển lên trường Bưởi – Hà Nội và thi đỗ đại học đứng đầu toàn
Đông Dương. Trong thời gian này, ông sớm tham gia hoạt động cách mạng. Năm
1941 ( 17 tuổi ) ông đã tham gia phong trào Việt Minh, đấu tranh trong phong trào
15
học sinh, sinh viên. 18 tuổi ông đã viết nhiều tiểu luận triết học về Nitsơ, Căng, Đề
các…, tham gia phong trào Văn hóa cứu quốc ( 1943 ), phụ trách báo Độc lập,
tham gia biên soạn tập chí Tiền Phong. Ông tham gia thuyết trình về văn hóa dân
tộc, về ca dao, dân ca, kéo đàn ác-cooc, hát các bài tự sáng tác tuyên truyền Cách
mạng trong học sinh, sinh viên và bị mật thám bắt ngay tại lớp học, bị tra tấn dã
man trong nhà tù Hỏa Lò. Nhưng điều đó chỉ làm ông thêm gắn bó máu thịt với
Cách mạng. Trong nhà tù, ông đã gặp nhà cách mạng Trần Đăng Ninh và được
khai sáng, giác ngộ thêm tư tưởng của người trí thức trong việc gắn bó vận mệnh
của mình với vận mệnh của dân tộc, với sự nghiệp Cách mạng vĩ đại. Năm 1945,
Nguyễn Đình Thi được cử đi dự Quốc dân Đại hội Tân Trào, được bầu vào Ủy
ban Giải phóng dân tộc rồi tham gia cướp chính quyền.
Sau Cách mạng, Nguyễn Đình Thi tiếp tục hăng hái hoạt động Cách mạng,
tham dự vào hầu hết các sự kiện trọng đại của lịch sử dân tộc. Trong hồi ức của
mình, ông vẫn nhớ những kỉ niệm thiêng liêng khi được đồng chí Trường Chinh
giao nhiệm vụ của Bác Hồ đến Ủy ban Kháng chiến Hà Nội để in và truyền bá
trên mọi phương tiện lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến trong một đêm “cả kinh
thành nghi ngút khói sau lưng”. Sau đó, ông tham gia chiến dịch Vĩnh Yên, Phú
Thọ, về đồng bằng Liên khu Ba, đặc biệt đã tham gia chiến dịch Bắc Lào, chiến
dịch Điện Biên Phủ… Cũng trong thời gian này, ông giữ nhiều trọng trách quan
trọng là Tổng Thư ký Hội văn hóa cứu quốc, Ủy viên tiểu ban dự thảo hiến pháp,
Ủy viên Ban Thường Vụ Quốc hội ( khóa I ), giữ chức Tổng Thư ký Hội văn nghệ
( 1956 – 1958 ), Tổng Thư ký Hội nhà văn Việt Nam khóa I, II, III. Từ năm 1995
đến năm 2003 ( khi mất ), ông là Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các hội
văn học nghệ thuật Việt Nam.
16
Với những đóng góp của mình, Nguyễn Đình Thi là người trẻ nhất được
nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I. Năm 1996, ông được
nhận Huân chương Độc lập hạng nhất, Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam.
Điểm qua một vài nét chính trong cuộc đời Nguyễn Đình Thi như vậy, có
thể thấy Nguyễn Đình Thi là hình ảnh tiêu biểu của một thanh niên trí thức nhập
cuộc, dấn thân vào thời thế. Cuộc đời ông là chuỗi ngày hoạt động gian nan mà
đầy vinh quang, phụng sự cho lí tưởng cao đẹp của Cách mạng, của dân tộc, cho
những “lẽ phải” lớn ông tìm được trong đời. Có lẽ chính vì sự gắn bó máu thịt của
Nguyễn Đình Thi với vận mệnh dân tộc trong từng thời kỳ lịch sử như vậy nên
vấn đề dân tộc – lịch sử tự nhiên cũng trở thành nguồn cảm hứng thiết tha, vô tận
của ông trong sự nghiệp sáng tác.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Thi
Nguyễn Đình Thi là cây bút tài năng trên nhiều lĩnh vực.
Trong không khí sục sôi những ngày đầu Cách mạng, ông viết nhạc phẩm
Diệt phát xít và Người Hà Nội tràn đầy tráng khí ca, vang vọng tình yêu đất nước
và khát vọng đấu tranh quyết tâm vì độc lập dân tộc. Tuy cả cuộc đời chỉ để lại hai
ca khúc nhưng Nguyễn Đình Thi cũng đã ghi dấu tên tuổi của mình trong làng âm
nhạc Việt Nam. Bài hát Diệt phát xít đã từng được đề cử chọn làm quốc ca Việt
Nam, còn Người Hà Nội cho tới nay vẫn vinh dự là bài hát chính thức của Đài
tiếng nói Việt Nam như một biểu tượng “lắng hồn núi sông ngàn năm”.
Nếu như với Lưu Quang Vũ “Thơ tôi là mây trắng của đời tôi” – thơ chắp
cánh cho nhà thơ vượt thoát khỏi mặt đất nhiều nhọc nhằn, cay đắng, nhiều khổ
đau, bất hạnh để tâm hồn được bay tới những bầu trời cao rộng hơn, hiền lành và
tốt đẹp hơn mà ở đó chan chứa tình thương, không còn hận thù, chiến tranh, giết
17
chóc. Nguyễn Đình Thi thì giản dị hợn. Thơ với ông “Đó là một cái thiết tha nhất
của tôi và cũng là cái tìm tòi rất khổ của tôi” [48, tr.225]. Thơ tựa một nhật ký
tâm trạng tác giả trong từng giai đoạn cuộc đời gắn với những bước đường hành
quân chiến đấu hay từng sự kiện lịch sử. Sáu tập thơ Người chiến sỹ (1956), Bài
thơ Hắc Hải (1959 – 1961), Dòng sông trong xanh (1974), Tia nắng (1983),
Trong cát bụi (1992), Sóng reo (2001) là những tâm tư tha thiết của tác giả mà về
cơ bản “thơ Nguyễn Đình Thi là những suy tư về đất nước và người lính” [52,
tr.15].
Khi dấn thân vào cuộc đấu tranh Cách mạng, Nguyễn Đình Thi nhận thấy
cần có một thể loại có khả năng phản ánh được hiện thực bề bộn, rộng lớn một
cách rõ nét cụ thể hơn. Truyện ngắn, tiểu thuyết trở thành “lợi khí” đắc dụng. Với
các tập Xung kích ( tiểu thuyết, 1951 ), Thu đông năm nay ( truyện, 1954 ), Bên bờ
sông Lô ( truyện ngắn, 1957 ), Cái tết của mèo con ( truyện thiếu nhi, 1961 ), Vỡ
bờ ( tập 1, tiểu thuyết, 1962 ), Vào lửa ( tiểu thuyết, 1966 ), Mặt trận trên cao (
tiểu thuyết, 1967 ), Vỡ bờ ( tiểu thuyết, tập 2, 1970 ), Tuyết ( tập truyện ngắn,
2003 ) sáng tác Nguyễn Đình Thi đã mở đầu cho thể loại văn xuôi cách mạng,
phản ánh được nhiều mặt cuộc cách mạng của dân tộc.
Kịch đến với Nguyễn Đình Thi muộn nhất nhưng lại mang nặng trở trăn
nhất. 10 vở kịch ra đời trong khoảng thời gian từ những năm 1961 đến 1987, khi
tác giả đã bước vào độ chín sáng tạo là kết tinh những suy nghĩ của tác giả về con
người, về cuộc sống, về dân tộc. Chúng tôi đặt nhiệm vụ sẽ làm rõ những vấn đề
này trong chương II của luận văn.
1.2. Cảm hứng dân tộc – lịch sử trong kịch Nguyễn Đình Thi
1.2.1. Cảm hứng – một lớp nội dung đặc thù của tác phẩm văn học
18
Tác phẩm văn học là kết quả của quá trình nhận thức, khám phá và tái tạo
thế giới của người nghệ sỹ. Thông qua tác phẩm, bao giờ nhà văn cũng thể hiện
một cách nhìn nhận, đánh giá, quan niệm về thế giới. Nói cách khác, nhà văn gửi
gắm tư tưởng của mình qua sáng tác. Tử tưởng là một trong những thước đo đánh
giá tầm vóc của nhà văn. Nhà văn lớn phải có những tư tưởng lớn, bởi: “Giá trị
của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó” ( Nguyễn
Khải ). Nhưng tư tưởng ở đây dứt khoát không phải là “cái tư tưởng nằm thẳng đơ
trên trang giấy”, không phải là thứ luân lý, giáo điều được nhà văn lồng ghép một
cách khô khan, cứng nhắc hoặc mượn lời nhân vật làm “phát ngôn viên” cho
mình. Tư tưởng phải “được rung lên ở các cung bậc của tình cảm”. Nhà văn
không nhìn nhận, suy nghĩ hiện thực cuộc sống lạnh lùng, dửng dưng mà gắn liền
với cảm xúc mãnh liệt. Tư tưởng được hình thành, phát triển trong những tình cảm
mạnh mẽ, lôi cuốn, đó chính là cảm hứng. “Cảm hứng chủ đạo là trạng thái tình
cảm mãnh liệt, say đắm, xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật gắn liền với một tư tưởng
xác định, một sự đánh giá nhất định gây tác động đến cảm xúc của những người
tiếp nhận tác phẩm” [21,32].
Như vậy có thể thấy hai đặc điểm. Thứ nhất, cảm hứng chính là niềm say
mê, nhiệt thành của người sáng tác. Người ta hay nói tới vai trò của tình cảm, cảm
xúc trong thơ. Nhưng xét rộng ra, phải thấy rằng sáng tạo nghệ thuật vận dụng
theo quy luật của tình cảm. Nguyễn Khải – nhà văn nổi tiếng thông minh, sắc sảo
với nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết mang tính triết lý – đậm màu sắc duy lý khẳng
định: “Tình cảm là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng
một tác phẩm nghệ thuật”. Dù là làm thơ hay viết văn, viết kịch thì người nghệ sỹ
cũng xuất phát từ một niềm yêu mến, thiết tha với một vấn đề nào đó. Ở đây, để
làm rõ nội dung thứ nhất của khái niệm cảm hứng, có thể so sánh, phân biệt với
19
cảm hứng sáng tác. Cảm hứng sáng tác là động lực, là nguyên do khởi hứng cho
tác giả đặt bút và thường đến bất chợt, đặc biệt trong sáng tác thơ ca. Người ta hay
nói tới cú huých sáng tạo chính là chỉ cảm hứng sáng tác. Như Hoàng Cầm nghe
tin quê hương bị giặc chiếm đóng mà cảm hứng viết Bên kia sông Đuống thiết tha,
đau đáu. Như Nguyễn Đình Thi từ một chiếc lá săng đỏ trên rừng Trường Sơn mà
có Lá đỏ đầy tin yêu, trìu mến. Cảm hứng sáng tác cũng là niềm say mê, là tình
cảm lôi cuốn nghệ sỹ nhưng nó chỉ là khởi điểm, là duyên cớ bề mặt, bên ngoài,
trong khi cảm hứng chủ đạo, cảm hứng tư tưởng lại mang tính quá trình, tồn tại
xuyên suốt tác phẩm và trở thành một lớp nội dung đặc thù của tác phẩm văn học,
thẩm thấu, chi phối đến các bình diện hình thức trong tác phẩm.
Đặc điểm thứ hai, liên quan đến nội hàm của khái niệm cảm hứng, đó là
cảm hứng gắn với tư tưởng. Cảm hứng đã đành là tình cảm, nhưng không phải
mọi tình cảm đều trở thành cảm hứng. Có những tình cảm nhỏ bé, tầm thường gắn
với dục vọng xấu xa. Cảm hứng phủ định lại điều đó. Bởi chỉ những tình cảm,
niềm say mê chứa đựng tư tưởng tích cực, tiến bộ mới trở thành cảm hứng. Theo
Heghen: “Cảm hứng chủ đạo là tư tưởng thời đại xuất hiện trong một cá nhân” (
Dẫn theo Lí Luận Văn học ) [ 34, tr.271]. Tức cảm hứng là tình cảm thời đại xuất
hiện trong tác phẩm, phải có giá trị phổ quát. Vì thế người ta hay nói tới cảm hứng
yêu nước, cảm hứng công dân, cảm hứng nhân loại, cảm hứng anh hùng… Dĩ
nhiên những vấn đề này không xuôi chiều, đồng nhất mà mang nội dung lịch sử cụ
thể, nghĩa là trong những giai đoạn lịch sử khác nhau sẽ có những biểu hiện khác
nhau. Cũng không nên đồng nhất tư tưởng với cảm hứng vì tư tưởng có nội hàm
rộng hơn. Cảm hứng chỉ là một bình diện của tư tưởng, giống như một nhánh chảy
của dòng sông lớn. Tư tưởng trong nghệ thuật là tư tưởng cảm hứng nên sự nhận
thức trong nghệ thuật không phải là nhận thức lí tính mà là lòng say mê, lôi cuốn
của tư tưởng đó.
- Xem thêm -