Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ...

Tài liệu Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ

.PDF
139
796
161

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 HÀ DUY LINH HÀ DUY LINH CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ XUÂN QUỲNH, THỊ TÌNH THANH NHÀN, LÂM THỊ MỸ DẠ CÁI TÔIPHAN TRỮ TRONG THƠ XUÂN QUỲNH, PHAN THỊ THANH NHÀN, LÂM THỊ MỸ DẠ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM HÀ NỘI, 2014 HÀ NỘI, 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 HÀ DUY LINH CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ XUÂN QUỲNH, PHAN THỊ THANH NHÀN, LÂM THỊ MỸ DẠ Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 01 20 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Nam Hà Nội, 2014 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Văn Nam – ngƣời thầy đã hƣớng dẫn tận tình và cho tôi những gợi ý quý báu trong quá trình thực hiện luận văn. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo bộ môn thuộc chuyên ngành Lý luận văn học, phòng Sau đại học, Ban giám hiệu trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã quan tâm, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Xin gửi tới gia đình, bạn bè đồng nghiệp gần xa – những ngƣời luôn bên cạnh giúp đỡ, động viên tôi những tình cảm yêu thƣơng nhất! Tháng 6 năm 2014 Tác giả Hà Duy Linh LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã đƣợc cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong trong luận văn đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc. Tháng 6 năm 2014 Tác giả Hà Duy Linh MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài. ................................................................................................. 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 4 3. Mục đích nghiên cứu. ........................................................................................... 8 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................... 9 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. ....................................................................... 9 6. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 10 7. Cấu trúc luận văn ................................................................................................. 11 PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................. 12 CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TẠO CỦA XUÂN QUỲNH, LÂM THỊ MỸ DẠ, PHAN THỊ THANH NHÀN .............................. 12 1.1. Lý thuyết về cái tôi trữ tình trong thơ ............................................................... 12 1.1.1. Khái niệm cái tôi ....................................................................................... 12 1.1.2. Khái niệm cái tôi trữ tình ........................................................................... 14 1.2. Hành trình sáng tạo của Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn ......21 CHƢƠNG 2: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ XUÂN QUỲNH,LÂM THỊ MỸ DẠ, PHAN THỊ THANH NHÀN ............................... 26 2.1. Cái tôi trữ tình trong những cảm xúc công dân ................................................ 26 2.1.1. Với Tổ quốc và nhân dân ........................................................................... 26 2.1.2. Với chiến tranh và kẻ thù ........................................................................... 42 2.2. Cái tôi trữ tình trong những cảm xúc đời thƣờng ............................................. 48 2.2.1. Cái tôi trong tình yêu đôi lứa ..................................................................... 48 2.2.1.1. Một trái tim táo bạo, mạnh mẽ, nồng nàn đắm say. Khao khát yêu thƣơng, hạnh phúc và luôn sẵn sàng hy sinh dâng hiến cho tình yêu ...................... 48 2.2.1.2. Tâm hồn phụ nữ đầy khắc khoải lo âu và trăn trở .............................. 59 2.2.2. Cái tôi mang vẻ đẹp mẫu tính ................................................................... 68 CHƢƠNG 3: NHỮNG HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ XUÂN QUỲNH, LÂM THỊ MỸ DẠ, PHAN THỊ THANH NHÀN ........ 82 3.1. Hệ thống hình ảnh và biểu tƣợng của nghệ thuật trong thơ .............................. 82 3.1.1. Hình ảnh thơ gần gũi với thiên nhiên, khoáng đạt, giàu cảm xúc ............. 82 3.1.2. Biểu tƣợng trái tim và bàn tay ................................................................... 88 3.2. Ngôn ngữ thơ ca .............................................................................................. 101 3.3. Thể thơ ............................................................................................................ 104 3.3.1.Thể thơ tự do ............................................................................................. 104 3.3.2 Thể thơ năm chữ ....................................................................................... 106 3.3.3. Thể thơ lục bát ......................................................................................... 108 3.4. Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật .............................................. 112 3.4.1. Thời gian nghệ thuật ................................................................................ 112 3.4.2. Không gian nghệ thuật ............................................................................. 115 3.5. Giọng điệu thơ ................................................................................................. 121 PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................ 126 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 128 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Xã hội phong kiến xƣa đầy những bất công, những hủ tục lạc hậu khiến cho những ngƣời phụ nữ bị coi thƣờng, hắt hủi. Vậy mà trong hoàn cảnh đó vẫn có những nhà thơ nữ với những tác phẩm bộc lộ đƣợc vẻ đẹp tâm hồn nhƣ Hồ Xuân Hƣơng, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan. Đến thời kỳ đất nƣớc ta diễn ra cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt với đầy những khó khăn thì nền văn học nƣớc nhà cũng đón nhận nhiều nhà thơ nữ trƣởng thành trong đó phải kể đến những cái tên nhƣ Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ. Ba tác giả này đƣợc coi là ba trụ cột của thơ nữ thời kỳ chống Mỹ. Thơ của các chị dù viết về cuộc chiến tranh khốc liệt, về những khó khăn, thiếu thốn vật chất trong cuộc sống hằng ngày hay về tình yêu và khát khao hạnh phúc đời thƣờng thì chúng ta đều thấy hiện lên những phẩm chất đáng quý. Lựa chọn đề tài “Cái tôi trữ tình trong thơ thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn” cho luận văn của mình, chúng tôi xuất phát từ những lý do sau: Một là, tâm hồn là một thế giới rất phức tạp, nói đến tâm hồn là nói đến thế giới bên trong, thế giới nội tâm không dễ gì nắm bắt đƣợc. Nó không nhƣ hình thức bên ngoài mà ta dễ nhận ra và đánh giá nhƣng tâm hồn chính là kim chỉ nam cho mọi hành động của con ngƣời. Hai là, ngƣời phụ nữ Việt Nam có tâm hồn cao đẹp và rất đáng đƣợc ca ngợi. Họ chung thủy, đảm đang, tháo vát, nhân hậu và rất nhạy cảm. Khi tìm hiểu về thơ nữ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ chúng tôi thấy ba tác giả Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ có nhiều điểm chung. Các chị cùng sống trong một thời kỳ lịch sử đất nƣớc có chiến tranh, có sự tƣơng đồng về hoàn cảnh gia đình, cuộc sống khó khăn vất vả của bản thân. Trong thơ của các chị chúng tôi thấy những khát vọng, những hi sinh, cả những lo âu trăn trở. Và trong hoàn cảnh 1 nào các chị cũng luôn bộc lộ một tâm hồn rất cao đẹp. Vẻ đẹp đó phần nào đƣợc các chị thể hiện qua hình tƣợng cái tôi trữ tình trong những bài thơ. Trong nền thơ hiện đại Việt Nam, Xuân Quỳnh (1948-1988) là một gƣơng mặt tiêu biểu. Lại Nguyên Ân từng nói: “Có lẽ từ thời Hồ Xuân Hƣơng qua các chặng đƣờng phát triển, phải đến Xuân Quỳnh nền thơ ấy mới thấy lại đƣợc một nữ sĩ mà tài năng và sự đa dạng của tâm hồn đƣợc thể hiện ở một tầm cỡ đáng kể nhƣ vậy, dồi dào và phong phú nhƣ vậy”. Cũng giống nhƣ Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, là những ngƣời đã mang chính cuộc đời mình ra làm chất liệu cho từng tác phẩm, cho mỗi tập thơ, Xuân Quỳnh viết nhiều nhất chính là về cuộc đời mình và chị trở thành nhân vật văn học của chính thơ chị. Trƣởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Xuân Quỳnh nổi bật lên là một gƣơng mặt tiêu biểu mang bản sắc riêng. Trải qua những năm tháng sống và viết, yêu thƣơng và lao động nghệ thuật hết mình, chị đã để lại những vần thơ thể hiện tiếng nói rất riêng của một tâm hồn phụ nữ thông minh, sắc sảo, đầy nữ tính. Thơ chị dù viết trong khói lửa đạn bom hay trong hòa bình dựng xây đất nƣớc thì vẫn thống nhất một cách nhìn, cách cảm riêng. Lấy sự chân thành làm điểm tựa cho cảm xúc sáng tạo, các sáng tác của Xuân Quỳnh chính là đời sống của chị, là những tâm trạng thật của chị trong mỗi bƣớc vui buồn của cuộc sống. Mảng thơ viết về đề tài tình yêu, hạnh phúc của Xuân Quỳnh ngay từ khi ra đời đã thu hút đƣợc sự chú ý của giới nghiên cứu, phê bình văn học. Thơ nữ trong thời kỳ này cũng phải kể đến nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn (1943). Chị làm thơ từ rất sớm, đầu những năm 60 đã có thơ đăng báo. Ngay từ khi mới xuất hiện trên thi đàn, Phan Thị Thanh Nhàn đã để lại những dấu ấn khó phai trong lòng độc giả bởi tiếng thơ trữ tình duyên dáng mà ý nhị, kín đáo. Trên con đƣờng sáng tạo nghệ thuật của mình, Phan Thị Thanh Nhàn đã thử nghiệm ngòi bút ở nhiều thể loại, viết báo, truyện ngắn, truyện cho thiếu nhi, làm thơ và viết tiểu luận, phê bình… Ở thể loại nào chị cũng đạt đƣợc những thành công nhất định. Nhƣng với riêng thơ, Phan Thị Thanh Nhàn đã thể hiện rõ nhất tài năng 2 và vốn sống của mình. Đặc biệt ở mảng thơ tình, chị đã góp một tiếng nói quan trọng thể hiện khát vọng yêu, khát vọng hạnh phúc muôn đời của phụ nữ. Đặng Tƣơng Nhƣ đã có lần phát biểu: “Đọc thơ tình Phan Thị Thanh Nhàn thấy hiện lên một phụ nữ yêu hết mình với một tình yêu không đòi hỏi đền đáp, bao giờ cũng lặng lẽ hiến dâng, một tình yêu luôn giày vò, khắc khoải nhƣng không bao giờ phản kháng và oán trách”. Khi nhắc đến thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, ngay từ những năm đế quốc Mỹ đang ném bom rất dữ dội ở Miền Bắc, bạn đọc nghe tin ở Quảng Bình cất lên những vần thơ của một nhà thơ nữ trẻ, rất trẻ, đó là Mỹ Dạ, với những bài thơ làm rung động tình cảm của rất nhiều nhà thơ cũng nhƣ bạn đọc. Qua những câu thơ, những bài thơ ấy ngƣời ta thấy một tâm hồn rất hiền, rất xanh, trong sáng, với một tình yêu mơ mộng để chống lại sự hủy diệt của bom đạn. Từ đó Mỹ Dạ đã thành một nhà thơ nữ của cuộc kháng chiến chống Mỹ và sau này khi “Tập đề tặng một giấc mơ” xuất hiện chúng ta thấy chị là một nhà thơ vừa có sự hồn nhiên của cây cỏ, đất trời, đồng thời có nhiều suy nghĩ về cuộc đời ngƣời phụ nữ trong cuộc sống hiện nay, vói cuộc đời riêng không phải là dễ dàng. “Đọc thơ Lâm Thị Mỹ Dạ‟‟ của tác giả Vũ Quần Phƣơng có đoạn viết: “Nhiều nét đẹp vĩnh cửu của thiên nhiên và tâm hồn con ngƣời hiện diện trong thơ chiến tranh của Mỹ Dạ. Thơ mang tính hƣớng nội và mang những nét của bản sắc tâm hồn ngƣời viết, rõ nhất là tính phụ nữ, nét dịu dàng của cảm xúc, cách khai thác, cách lọc tìm chất thơ trong đời sống...” Trong “Vài dòng về Lâm Thị Mỹ Dạ”, Phan Thị Thanh Nhàn viết: Với tôi, Mỹ Dạ ở trong thơ cũng nhƣ ngoài đời đều có gì đó rất tinh tế, rất sâu sắc. Tôi nghĩ Lâm Thị Mỹ Dạ vẫn có chất hồn nhiên, tinh tế nhƣng lại sâu đằm ở bên trong, tức là có hồn thơ, rất nữ tính”. Ba là, cái tôi trữ tình đƣợc thể hiện qua những vần thơ, những trang thơ là tiếng nói của cõi lòng, của cảm xúc nhạy cảm của thi sĩ. Đó là tiếng nói sôi nổi trẻ trung đầy ắp những trải nghiệm về con ngƣời, cuộc sống. Viết về tình yêu ta thấy rất 3 nhiều những cung bậc cảm xúc đó là lòng thủy chung, yêu hết mình, cháy hết mình và luôn khao khát một tình yêu trọn vẹn. Vẻ đẹp tâm hồn còn đƣợc thể hiện trong mối quan hệ tình cảm gia đình, bạn bè. Bên cạnh đó ta còn thấy một tình yêu lớn lao dành cho thiên nhiên, quê hƣơng và đất nƣớc. Chúng ta cũng thấy trong thơ một cái tôi đầy nghị lực vƣợt qua tất cả những khó khăn trong cuộc sống. Dù cuộc sống có thế nào họ vẫn là những con ngƣời yêu đời và cống hiến hết mình vì nghệ thuật. Từ nhận thức trên chúng tôi thấy cần phải làm rõ hơn vẻ đẹp tâm hồn của ba nữ sĩ - những ngƣời phụ nữ trong thời kỳ khó khăn và gian khổ đó. Và chúng tôi cũng đặt ra câu hỏi vì sao phần lớn tuổi trẻ ngày nay bị “suy dinh dƣỡng tâm hồn”? Vì sao hai ngƣời cùng ngắm một bầu trời đêm qua những chấn song cửa, một ngƣời chỉ thấy toàn màu đen, còn ngƣời kia lại thấy những vì sao lấp lánh? Vì vậy từ việc làm rõ cái tôi trữ tình trong thơ của các chị, chúng tôi mong những ngƣời cùng thế hệ chúng tôi và những thế hệ sau hiểu đƣợc thế nào là ngƣời có tâm hồn đẹp. Từ nhận thức đúng đắn có hành động đúng và không ngừng vun đắp cho tâm hồn mình thêm đẹp hơn. Vì vậy để có cái nhìn tổng thể, toàn diện về thơ Xuân Quỳnh - Lâm Thị Mỹ Dạ - Phan Thị Thanh Nhàn, chúng tôi đã chọn đề tài: “Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh - Lâm Thị Mỹ Dạ - Phan Thị Thanh Nhàn”. Chúng tôi hy vọng sẽ góp thêm tiếng nói làm rõ hơn nét độc đáo về cái tôi trữ tình của ba nhà thơ này. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Thơ Việt Nam hiện đại nói chung và thơ ca kháng chiến chống Mỹ nói riêng đã tự khẳng định mình bằng phẩm chất mới, khẳng định một bƣớc tiến mạnh mẽ trong hành trình lịch sử của văn học dân tộc. Đặc biệt một số gƣơng mặt thơ nữ thuộc thế hệ này đã trở thành đối tƣợng nghiên cứu của giới phê bình văn học. Các chị đã làm cho thơ ca Việt Nam hiện đại phong phú hơn, nhiều màu sắc hơn. GS.TS Mã Giang Lân từng nhận xét: “Lớp trẻ đông đảo, xuất hiện hàng loạt, nhiều khả năng đáng quý, có cái nhìn tƣơi trẻ, cụ thể, phong phú. Có tƣ tƣởng vững vàng và nghệ thuật mới mẻ...”. GS. Hà Minh Đức nhận định: “Thơ của các chị là tiếng nói 4 của trái tim xúc động, da diết chân thực. Nếu xem tình cảm sâu lắng chân thực nhƣ một phẩm chất quan trọng của thơ tình thì chính thơ tình của các tác giả nữ dễ ƣu trội hơn về phƣơng diện này‟‟. Quả thật nhƣ vậy bởi giữa những bài ca kháng chiến hào sảng của cả dân tộc lúc này ta tìm thấy một “Phan Thị Thanh Nhàn dịu nhẹ, duyên dáng mà kín đáo. Một Xuân Quỳnh giàu cảm xúc, sôi nổi mà dịu êm. Một Ý Nhi giai đoạn này đã bộc lộ là một nhà thơ có nhiều suy nghĩ về cuộc sống và ta còn gặp một Lâm Thị Mỹ Dạ giàu sáng tạo trong sáng, táo bạo, có nhiều tứ thơ lạ nhƣng vẫn đầy nữ tính”. Trong số những nhà thơ nữ thời kỳ chống Mỹ thì Xuân Quỳnh - Lâm Thị Mỹ Dạ - Phan Thị Thanh Nhàn là ba gƣơng mặt tiêu biểu, thu hút đƣợc sự quan tâm của giới nghiên cứu và phê bình văn học. Về Xuân Quỳnh, có thể khẳng định cho đến nay chị đã có một vị trí chắc chắn trong làng thơ. Các công trình nghiên cứu về thơ chị gồm có: “Xuân Quỳnh Lƣu Quang Vũ, tình yêu và sự nghiệp” của tuyển tập nhiều tác giả; “Xuân Quỳnh thơ với lời bình” của Vũ Thị Kim Xuyến; “Thơ Xuân Quỳnh” của Chu Văn Sơn; “Cảm nhận về thơ Xuân Quỳnh” của Lƣu Khánh Thơ... Ngoài ra tác giả Đông Mai còn có một cuốn sách tƣởng nhớ về thi sĩ khi chị qua đời: “Xuân Quỳnh một nửa cuộc đời tôi”. Bằng những cách tiếp cận khác nhau, những quan điểm khác nhau trƣớc một vấn đề nào đó, các nhà nghiên cứu đã trình bày trong các bài viết của mình một phong cách thơ Xuân Quỳnh với những vẻ đẹp phong phú, đa dạng. Ngay từ những ngày đầu, tác giả Chu Nga đã nói về sắc biếc ở chồi thơ mới nhú này. Mƣợn tên tập thơ đầu tay của Xuân Quỳnh (Chồi biếc) ngƣời viết muốn nhấn mạnh chất tƣơi trẻ, hồn nhiên của một chồi thơ sắc biếc. GS. Hà Minh Đức nhận định: “Nghĩ đến ƣu điểm của lực lƣợng thơ thẻ, tôi muốn nói đến Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Xuân Quỳnh... Xuân Quỳnh đã đến với thơ bằng tình yêu tha thiết của tuổi trẻ, lòng gắn bó với nghề nghiệp (...) từ cái riêng đi vào cái chung thơ Xuân Quỳnh dần trở nên phong phú và có bản sắc hơn. 5 Xuân Quỳnh luôn chân thật và mềm mại trong cảm xúc, chị nhìn cuộc sống không đơn giản một chiều”. Vƣơng Trí Nhàn, Phạm Tiến Duật lấy hình thức đối thoại bàn về thơ Xuân Quỳnh trong bài viết “Ý thức về thời gian, cảm giác về hạnh phúc”. Hai tác giả thấu suốt đƣợc sự mẫn cảm trong trái tim đàn bà của chị nên có những nhận xét khá tinh tế: “Những cảm giác hiện tại mà Xuân Quỳnh giỏi lọc ra và sống hết mình với nó (...) đặt những giây lát hiện tại cạnh nhau ta sẽ thấy ở tác giả một cảm giác khác nữa - cảm giác về sự thay đổi”. Sau khi khẳng định đóng góp riêng của Xuân Quỳnh cho nền thi ca Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Vƣơng Trí Nhàn đi đến tổng kết: “Chƣa phải lúc đi đến tổng kết về thơ Xuân Quỳnh vì tác giả đang viết nhƣng có thể tin, chỉ với những bài thơ hôm nay Xuân Quỳnh mới có những điều cần thiết nhất đối với một tác giả thơ, một cách nghĩ, một cách nói riêng của mình” [63,70]. Có thể khẳng định, bao nhiêu bài nghiên cứu, nhận xét là bấy nhiêu lời trân trọng, là tình cảm yêu mến, cảm thông của các thế hệ độc giả gửi đến cuộc đời hạnh phúc thì ít mà bất hạnh thì nhiều của nhà thơ Xuân Quỳnh. Bên cạnh những công trình nghiên cứu, những bài viết về nữ thi sĩ Xuân Quỳnh ta cũng bắt gặp không ít những lời nhận xét, đánh giá trân trọng của các thế hệ độc giả giành cho Lâm Thị Mỹ Dạ và Phan Thị Thanh Nhàn. Lâm Thị Mỹ Dạ đƣờng hoàng bƣớc vào làng thơ trong ánh hào quang của giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ. Những thi phẩm lẻ của nữ sĩ trong giai đoạn đầu đã thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Từ những năm 80 của thế kỷ trƣớc, căn cứ vào hai tập thơ đầu tay của nữ sĩ, Hồng Diệu đã chỉ ra những đặc điểm thành công cơ bản của thơ Mỹ Dạ: từ sự độc đáo trong tứ thơ, nét duyên dáng trong cách viết, sự mới mẻ của hình ảnh đến âm hƣởng chính trong thơ nữ sĩ “xuất phát từ những giai điệu trầm, nhẹ, đằm thắm không ồn ào nhƣng có lúc lại không kém phần khỏe khoắn” [17,4]. 6 Năm 1988, khi tập thơ mới „„Hái tuổi em đầy tay” ra đời, cây bút phê bình Hồ Thế Hà đã đặc biệt quan tâm đến hiện tƣợng thơ Mỹ Dạ, đã chỉ ra hƣớng đi mới của nữ sĩ: “chính là sự quay về gấp gáp và quyết liệt hơn với nhu cầu khám phá những giá trị vĩnh hằng của con ngƣời và cuộc sống. Hành trình ấy chân thật, dữ dội nhƣng đầy trách nhiệm đến nỗi nhà thơ phải trải lòng mình, trải hết vui buồn, tốt xấu của chính mình để từ đó nhìn ra tha nhân, tâm tình cùng tha nhân” [28,35]. Từ đó ông thẳng thắn ghi nhận những thành công mới của thơ Mỹ Dạ: “Với hành trình này, Lâm Thị Mỹ Dạ đã thành công trong cách thể hiện những vấn đề đời tƣ với một giọng thơ lạ, cấu trúc nhiều tầng lớp, làm hiện lên những liên tƣởng, ý tƣởng sâu sắc” [28,37]. Vũ Quần Phƣơng từng khẳng định nét riêng trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ với “tính phụ nữ, nét dịu dàng của cảm xúc, cách khai thác, cách lọc tìm chất thơ trong đời sống” tạo nên “một phẩm chất trữ tình khá thuần khiết” [66,1]. Càng ở những chặng đƣờng sau, xu hƣớng cách tân của Mỹ Dạ càng đƣợc đón nhận nồng nhiệt, đặc biệt là sự đổi mới thi pháp:“lấy chính mình làm đối tƣợng và dám vực dậy những ƣớc mơ tro vùi” [29,34]. Nhƣ vậy, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những nét đặc trƣng, sự vận động cùng những đóng góp của Mỹ Dạ cho thơ Việt đồng thời không né tránh chỉ ra những hạn ché. Do đó, tìm hiểu về cái tôi trữ tình trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ để nhận ra những nét riêng giữa dòng chung của hồn thơ đặc sắc này. Phan Thị Thanh Nhàn là cây bút cùng thời với Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ý Nhi, Dƣ Thị Hoàn... Ngay từ những thập niên 60 khi tập thơ Hƣơng thầm ra đời, đông đảo bạn đọc đã tiếp nhận và đón nhận Thanh Nhàn với tƣ cách là nữ thi sĩ thơ tình và tuổi trẻ. Có rất nhiều bài đánh giá, nghiên cứu, phê bình về thơ chủa chị. Tác giả Thiếu Mai với “Một nét thơ đáng yêu” đã nêu bật đặc điểm thơ của Phan Thị Thanh Nhàn: “Dịu nhẹ, duyên dáng mà kín đáo, không chỉ khác so với các nhà thơ nam giới mà ngay cả với các nhà thơ nữ cũng không thể lẫn. Đọc là mến ngay. Và nhớ ngay”. Lời mở đầu của tập thơ Thơ với tuổi thơ, Vũ Quần Phƣơng đã viết “Thanh Nhàn viết bằng những kỷ niệm ấu thơ và bằng chính những chất liệu của cuộc sống thƣờng nhật. Bà không tìm thơ xa xôi, cũng không kiễng lên với những 7 chủ đề lớn. Thơ bà giản dị, cảm xúc, chân thực...”. Nguyễn Thị Minh Thái nhận định: “Thơ của Nhàn không phải là thƣ thơ tình thuận bằng trắc để dễ thuộc lòng, nhƣng một khi đã đi vào hồn ngƣời, nó sẽ mắc lại ở đó và trở thành cái mà ngƣời ta vẫn gọi là “những câu thơ thuộc nằm lòng”. Những câu thơ ấy giống hệt nhƣ những giọt nƣớc sau cơn mƣa qua, còn đọng lại trên lá cây chỉ cần một làn xúc cảm chợt đến, khẽ chạm vào lá là những câu thơ ấy sẽ rụng ngay xuống vùng tâm thức và mồn một hiện lên giữa lòng ta”. Đó là những nét cốt cách nhất, đặc điểm riêng nhất của thơ Phan Thị Thanh Nhàn. Ngoài những bài viết trên còn có rất nhiều luận văn của sinh viên, thạc sỹ viết về ba gƣơng mặt tiêu biểu này.. Tựu chung lại những bài viết ấy mang lại cho chúng ta cái nhìn tổng quan về thơ nữ Việt Nam thời chống Mỹ cứu nƣớc, khơi gợi nhiều vấn đề cho chúng tôi tiếp cận đề tài. Tuy nhiên từ trƣớc đến nay chƣa có một công trình nghiên cứu tổng hợp nào đi sâu vào vấn đề cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn. Vì vậy chúng tôi lựa chọ đề tài “Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn” với mong muốn góp một phần công sức của mình vào việc nghiên cứu thơ trữ tình của ba gƣơng mặt nữ sĩ trẻ nhƣng có nhiều đóng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại. 3. Mục đích nghiên cứu. Chúng tôi chọn đề tài “Cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn” nghiên cứu nhằm mục đích: Một là, thấy đƣợc những điểm tƣơng đồng trong cuộc đời của các nữ sĩ trƣởng thành từ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ rồi bƣớc ra thời bình. Từ đó chúng ta cũng thấy đƣợc sự tƣơng đồng trong cái tôi trữ tình đƣợc gửi gắm trong những bài thơ. Hai là, thấy đƣợc vẻ đẹp tâm hồn đầy nữ tính, thùy mị, đằm thắm và duyên dáng, rất nhạy cảm nhƣng cũng đầy mạnh mẽ và bạo trong tình yêu. Họ cũng là 8 những phụ nữ đầy nghị lực vƣợt lên những khó khăn của cuộc sống, thể hiện một tâm hồn cao đẹp đó là vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ Việt Nam . Luận văn mong muốn mang lại hiệu quả giáo dục cho ngƣời đọc. Góp phần tìm hiểu một cách chủ động, khách quan hệ thống cái tôi trữ tình trong thơ của ba gƣơng mặt nữ sĩ tiêu biểu thời chống Mỹ. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Từ đề tài trên, chúng tôi đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu, khám phá vẻ đẹp tâm hồn ngƣời phụ nữ qua hình tƣợng cái tôi trữ tình trong thơ nữ thời chống Mỹ (Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ) Mỗi một bài thơ đều bắt nguồn từ cảm xúc mạnh mẽ, thôi thúc cùng với sự nhạy cảm của thi sĩ. Do đó nhiệm vụ của luận văn là đi sâu vào tìm hiểu vẻ đẹp tâm hồn đƣợc thể hiện qua cái tôi trữ tình của mỗi tác giả. 4..2. Hình tƣợng cái tôi trữ tình tất yếu phải đƣợc thể hiện bằng văn bản ngôn từ. Vậy nhiệm vụ thứ hai của luận văn đặt ra để giải quyết là: nghiên cứu những phƣơng thức, phƣơng tiện biểu đạt, đặc sắc trong thơ của ba nhà thơ nữ tiêu biểu cho các nhà thơ nữ thời kỳ chống Mỹ. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. Thơ Xuân Quỳnh: Các tác phẩm chính: - Chồi biếc (trong tập Tơ tằm - Chồi biếc, in chung với Cẩm Lai): 1963 - Hoa dọc chiến hào: 1968 - Gió Lào cát trắng : 1974 - Lời ru trên mặt đất: 1978 - Sân ga chiều em đi: 1984 - Tự hát: 1984 - Hoa cỏ may: 1989 9 Thơ Phan Thị Thanh Nhàn: Các tác phẩm chính: - Hƣơng thầm: 1973 - Chân dung ngƣời chiến thắng: 1977 - Bông hoa không tặng: 1990 - Nghiêng về anh: 1992 Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ: Các tác phẩm chính : Trái tim sinh nở - (trong tập Trái tim nỗi nhớ in chung với Ý Nhi): 1974 Bài thơ không năm tháng: 1983 Hái tuổi em đầy tay: 1989 Đề tặng một giấc mơ: 1998 Cốm non: 2005 Hồn đầy hoa cúc dại: 2007 Chỉ riêng mình em thấy (Thơ tình Lâm Thị Mỹ Dạ) 2008 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học; - Phƣơng pháp lịch sử - xã hội; - Phƣơng pháp so sánh; - Phƣơng pháp loại hình; - Phƣơng pháp phân tích tổng hợp. Để luận văn có tính khoa học, chúng tôi đã kết hợp một số thao tác nghiên cứu nhƣ: Thống kê, phân tích, chứng minh, nhằm tiếp cận đối tƣợng nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc và triệt để hơn. 10 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, mục lục và kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc trình bày trong 3 chƣơng : Chương 1: Khái niệm “Cái tôi trữ tình” và quá trình sáng tạo của Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ. Chương 2: Những đặc điểm nổi bật của cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ. Chương 3 : Những hình thức thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ. 11 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TẠO CỦA XUÂN QUỲNH, LÂM THỊ MỸ DẠ, PHAN THỊ THANH NHÀN 1.1. Lý thuyết về cái tôi trữ tình trong thơ 1.1.1. Khái niệm cái tôi Về thực chất, cái tôi là một khái niệm triết học. Các nhà triết học duy tâm là những ngƣời đầu tiên chú ý đến cái tôi khi đề cao ý thức, lý tính trong mối quan hệ vật chất, ý thức, chủ quan, khách quan, cá nhân và xã hội. Khái niệm cái tôi, đƣợc hình thành bởi một quá trình lâu dài, mang trong mình tính phức tạp nhiều khi tƣởng nhƣ thần bí. Cái tôi có nội hàm rộng đến nỗi khó xác định đƣợc toàn bộ ý nghĩa của nó cũng nhƣ tìm cho nó một định nghĩa hoàn chỉnh, thống nhất. Trong Triết học, cái tôi đƣợc hiểu là cái tôi ý thức hay đơn giản là tôi, bao hàm trong đó những đặc tính để phân biệt tôi với những cá nhân khác. Các quan điểm duy tâm về cái tôi đã khẳng định cái tôi là phƣơng diện trung tâm của tinh thần con ngƣời, là cốt lõi của ý thức có khả năng chi phối hoạt động và là sự khẳng định nhân cách con ngƣời trong thế giới. Các nhà triết học: Đêcactơ, Phichtê, Cantơ, Hêghen, Becxông, Phơrơt.. đã “ giải thích cái tôi nhƣ là căn nguyên có tính chất quan niệm” và từ những quan niệm mà xây dựng thành hệ thống triết học duy tâm của mình. Đêcactơ (1595 – 1650) đƣa ra định nghĩa duy lý nổi tiếng “Tôi tƣ duy vậy là tôi tồn tại”. Ông quan niệm cái tôi thể hiện ra nhƣ một cái thuộc về thực thể biết tƣ duy, nhƣ là căn nguyên của nhận thức duy lý, do đó khẳng định tính độc lập của mình. Cantơ (1724-1804] cho rằng: Cái tôi bao gồm hai phƣơng diện: cái tôi với tƣ cách chủ thể tƣ duy, chủ thể nhận thức thế giới và cái tôi với tƣ cách là khách thể của chính nhận thức. Hêghen (1770-1831] coi cái tôi nhƣ sự tha hoá của “ý niệm tuyệt đối” đồng thời nhấn mạnh vai trò to lớn của cái tôi . Cái tôi nhƣ là trung tâm của tồn tại, cái tôi 12 có khả năng, khát vọng và sức mạnh để thể hiện mình trong hiện thực. Mọi cái đều tồn tại nhờ có cái tôi và cái tôi có thể chi phối toàn bộ sự tồn tại và hủy diệt của thế giới. Hai nhà triết học cổ điển Đức (Cantơ và Hêghen) đã có những đóng góp to lớn không chỉ cho triết học mà cho cả hoạt động nghiên cứu văn học nghệ thuật, đặc biệt trong việc khẳng định vai trò to lớn của chủ thể sáng tạo. Becxông (1859-1941) cho rằng trong con ngƣời có “cái tôi bề mặt” và “cái tôi bề sâu”. Chỉ có “cái tôi bề sâu” thuộc về sâu thẳm của ý thức mới chính là đối tƣợng của nghệ thuật. Trong phân tâm học, cái tôi là phần cốt lõi của tính cách liên quan tới thực tại và chịu ảnh hƣởng của tác động xã hội. Theo Phơ - rớt, cái tôi cùng với nó và cái siêu tôi là ba miền của tâm thức. Cái tôi đƣợc hình thành ngay từ khi con ngƣời sinh ra và qua tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Cái tôi học cách cƣ xử sao cho kiểm soát đƣợc những ham muốn vô thức không đƣợc xã hội chấp nhận. Cái tôi có vai trò trung gian hòa giải giữa những ham muốn vô thức và những tiêu chuẩn nhân cách, xã hội. Tiếp sau đó các nhà tâm lý học cũng đề cập tới khái niệm cái tôi khi xây dựng các học thuyết về nhân cách. Tuy sự lý giải về nhân cách cũng nhƣ cấu trúc nhân cách khác nhau nhƣng nhìn chung họ đều coi cái tôi là yếu tố cơ bản cấu thành phần ý thức của nhân cách con ngƣời. Trong triết lý Phật giáo, cái tôi chính là ngã, là cái tôi đƣợc thiết thuyết với một thể tính trƣờng tồn, không bị ảnh hƣởng của tụ tán, sinh tử. Quan niệm của Phật giáo cũng nhƣ các tôn giáo khác nhƣ Nho giáo, Cơ đốc giáo... đều hƣớng con ngƣời đến đấng tối cao, quên đi cái tôi của mình. Song, để đạt đƣợc điều đó, tôn giáo đòi hỏi mỗi cá nhân phải có một nghị lực phi thƣờng để vƣợt qua chính mình. Để chế ngự cái tôi, vƣợt qua cái tôi, quên đi cái tôi, suy cho cùng lại phải thực sự nhận biết tƣờng tận về cái tôi. Chính vì vậy mà chủ trƣơng diệt ngã, vô ngã, xoá cái tôi cá nhân, tôn giáo cũng đã gián tiếp thừa nhận cái tôi tồn tại trong mỗi cá nhân. Duy có điều, quá trình sống của con ngƣời là quá trình khẳng định cái tôi thì tôn giáo lại đi ngƣợc lại – xoá bỏ cái tôi. 13 Triết học Mác - Lê Nin xác định: “Cái tôi là trung tâm tinh thần của con ngƣời, của cá tính con ngƣời có quan hệ tích cực đối với thế giới và với chính bản thân mình. Chỉ có con ngƣời độc lập, kiểm soát những hành vi của mình và có khả năng thể hiện tính chủ động toàn diện mới có cái tôi của mình” (Dẫn theo Lê Lƣu Oanh, thơ trữ tình Việt Nam 1975-1990, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội). Nhƣ vậy cái tôi thực chất là khái niệm về cấu trúc nhân cách mang tính phổ quát. Hiện tƣợng cái tôi vừa mang tính xã hội - lịch sử vừa phân biệt cái độc đáo và khẳng định tính tích cực của nhân cách cá nhân. 1.1.2. Khái niệm cái tôi trữ tình Xuất phát từ quan điểm cái tôi trong triết học Mác - Lê Nin chúng ta sẽ nghiên cứu về cái tôi trữ tình với tƣ cách là một khái niệm vừa mang tính phổ quát vừa mang tính cụ thể. Cái tôi cá nhân chính là hình tƣợng của chủ thể trữ tình trong tác phẩm thơ. Thông qua cái tôi, nhà thơ giãi bày tâm tƣ, tình cảm, thế giới quan, tƣ tƣởng của mình. Nhìn từ góc độ phản ánh luận thì cái tôi chính là đối tƣợng phản ánh của nhà thơ, là kết quả của sự miêu tả, tự đánh giá, tự ý thức của chính nhà thơ. Vũ Tuấn Anh xác định: “Cái tôi trữ tình vừa là một cách thế nhìn và cảm nhận thế giới của chủ thể,lại vừa là một điểm nhìn nghệ thuật của chủ thể. Đồng thời cái tôi trữ tình cũng đóng vai trò sáng tạo, tổ chức các phƣơng tiện nghệ thuật (thể thơ, hình tƣợng, vần, nhịp...) để vật chất hóa thế giới tinh thần thành một hình thức văn bản trữ tình.” Có thể nói rằng, tiến trình thơ trong lịch sử văn học nói chung luôn luôn đồng hành với sự vận động của các kiểu cái tôi trữ tình. Theo cách diễn giải của Hêghen, mỗi thời đại đều định hình một kiểu cái tôi văn học riêng: “Mỗi thời đại đều có lối cảm xúc tế nhị hay cao siêu, hay tự do của nó. Tóm lại, mỗi thời đại đều có lối quan niệm riêng về thế giới của nó. Cái này đƣợc biểu hiện rõ ràng nhất và hoàn toàn nhất vì tiếng nói dùng để diễn đạt tất cả những gì diễn ra trong tinh thần con ngƣời”. Cái tôi trong thơ thời nào cũng có nhƣng khái niệm, nội hàm và sắc thái biểu hiện của cái tôi qua các giai đoạn văn học là khác nhau. Theo Đỗ Lai 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan