Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ việt nam 1965 - 1975...

Tài liệu Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ việt nam 1965 - 1975

.PDF
214
366
72

Mô tả:

3 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH BÙI BÍCH HẠNH CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN TP. Hồ Chí Minh - 2012 3 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH BÙI BÍCH HẠNH CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62.22.34.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TÁ TP. Hồ Chí Minh - 2012 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả luận án. Kết quả nghiên cứu không sao chép từ bất kì một công trình nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự này. Tác giả Bùi Bích Hạnh 3 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................ 3 MỤC LỤC ........................................................................................ 3 MỞ ĐẦU ........................................................................................... 3 1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 3 2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 3 3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 4 4. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 4 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 12 6. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 12 7. Những đóng góp mới ................................................................................. 13 8. Cấu trúc luận án ........................................................................................ 13 CHƯƠNG 1: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 – 1975 - MỘT CÁI NHÌN KHÁI QUÁT ................. 14 1.1. Quan niệm về cái tôi trữ tình ................................................................ 14 1.1.1. Cái tôi ..........................................................................................................14 1.1.2. Cái tôi trữ tình .............................................................................................19 1.2. Đặc trưng của cái tôi trữ tình................................................................ 25 1.2.1. Nhu cầu tự bộc lộ và nhu cầu đối thoại ......................................................25 1.2.2. Biểu hiện của cái tôi mang giá trị thẩm mĩ .................................................27 1.3. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975 ......................................... 31 1.3.1. Thơ trẻ 1965 - 1975 - một âm hưởng mới của thời đại .............................31 1.3.2. Diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975 ............................................35 CHƯƠNG 2: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975 - NHÌN TỪ DẠNG THỨC BIỂU HIỆN ...... 54 2.1. Cái tôi sử thi ............................................................................................ 54 2.1.1. Cái tôi ngưỡng vọng về Tổ quốc, nhân dân ................................................55 2.1.2. Cái tôi xốn xang trong sự ẩn nhường riêng - chung ...................................66 4 2.2. Cái tôi sử thi biến thể ............................................................................. 79 2.2.1. Cái tôi tự thức trong quan niệm thơ ............................................................80 2.2.2. Cái tôi tự họa chân dung thế hệ ..................................................................85 2.3. Cái tôi phi sử thi ..................................................................................... 93 2.3.1. Cái tôi thấm thía nỗi đau chiến tranh ..........................................................94 2.3.2. Cái tôi tự nghiệm số phận đời tư ..............................................................108 Chương 3: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ 1965 1975 - NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN ..................... 128 3.1. Trường ca và thơ tự do ........................................................................ 128 3.1.1. Trường ca - Từ triết luận cao cả đến suy ngẫm riêng tư...........................129 3.1.2. Thơ tự do - Sự tích hợp những vấn đề phức tạp của thế giới tinh thần ....140 3.2. Chất khẩu ngữ và yếu tố văn xuôi ...................................................... 156 3.2.1. Chất khẩu ngữ - Sự lột tả cái gân guốc của chất liệu hiện thực ..............157 3.2.2. Yếu tố văn xuôi - Sự xích lại ngữ điệu đời thường ..................................161 3.3. Thủ pháp đối lập và trùng điệp .......................................................... 165 3.3.1. Đối lập - Cái nhìn luận giải nhiều chiều kích ...........................................166 3.3.2. Trùng điệp - Sự giải tỏa ám ảnh dồn nén..................................................172 3.4. Bản tự thuật đa giọng điệu .................................................................. 178 3.4.1. Giọng ngợi ca, hào sảng ...........................................................................179 3.4.2. Giọng nồng ấm, yêu tin ............................................................................181 3.4.3. Giọng nghiệm suy, chất vấn .....................................................................185 3.4.4. Giọng âu lo, dự cảm ..................................................................................189 KẾT LUẬN .................................................................................. 194 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................. 196 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 197 3 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hoàn cảnh đất nước Việt Nam những năm kháng chiến chống Mỹ với hiện thực chiến tranh khốc liệt đã tác động sâu sắc đến đời sống văn học. Nếu như tiếng rít gầm hãi hùng của chiến tranh làm tổn thương đời sống nội cảm con người thì tiếng thơ 1965 - 1975 là đất cựa mình sầm sịch trong khuya (Nguyễn Duy), là cuộc đời như sắp sửa đi xa (Lưu Quang Vũ), là những vành môi khát sữa, những bước nhớ lang thang (Trần Quang Long), là những bát cơm không đủ níu lòng (Trần Phá Nhạc)… Thơ trẻ 1965 - 1975 là hiện tượng văn học mang lại cho thơ Việt Nam 1945 - 1975 những khuôn diện mới, trước hết nhìn từ khía cạnh cái tôi trữ tình. Nếu quan niệm “văn chương là một tiếng gọi” [173, tr.63] thì thơ trẻ 1965 - 1975 sẽ còn vẫy gọi tầm đón đợi của người tiếp nhận. Với nguyện ước làm thơ ghi lấy cuộc đời mình (Hữu Thỉnh), một lớp nhà thơ thế hệ thơ trẻ - đối mặt với chiến tranh, nếm trải bi kịch chiến tranh. Họ đến với thơ bằng trái tim tự nguyện của lớp tuổi hai mươi, ba mươi. Sống trong nỗi đau giằng xé, mất mát, các nhà thơ khát khao tự họa chân dung thế hệ từ âm bản hiện thực tàn khốc của chiến tranh. Hơn nữa, với cái nhìn “cuộc sống đã mong manh tái nhạt trong từng cá thể con người”, một bộ phận sáng tác thậm chí bóc trần những thân phận bi kịch thời chiến. Chính vì vậy, thơ trẻ 1965 - 1975 có thể được xem là bản tự thuật đa giọng điệu, góp phần làm sinh động diện mạo thơ Việt Nam 1945 - 1975. 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 là con đường tiếp cận khơi sâu vào bản sắc của thơ trẻ. Việc xác định những dạng thức của cái tôi trữ tình nhằm khái quát hệ thống quan điểm thẩm mĩ cũng như năng lực chiếm lĩnh hiện thực của nhà thơ; trên cơ sở đó, khẳng định thuộc tính của thơ trẻ giai đoạn này. Đồng thời, luận án đi sâu khám phá những dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ 4 tình trong xu hướng vận động để thấy rằng chịu sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, bối cảnh đời sống văn học, lí tưởng thẩm mĩ..., cái tôi trữ tình mang diện mạo riêng. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án xác định đối tượng thơ trẻ ở miền Bắc, ở vùng giải phóng và ở vùng tạm chiếm miền Nam, tạo nên cái nhìn toàn cảnh về thơ trẻ Việt Nam giai đoạn này. Nếu thơ trẻ miền Bắc đã khắc dấu sắc cạnh vào nền thơ hiện đại và thơ trẻ vùng giải phóng đã tạo được nhiều phong cách riêng thì ở thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam, phải kể đến sự góp mặt của những cây bút “viết trên đường tranh đấu” cùng một lớp nhà thơ không đứng trong dòng chủ lưu của văn học cách mạng, thậm chí chỉ được xem là bộ phận “bên kia chiến tuyến”. Qua đó, luận án khẳng định sự đa dạng của cái tôi trữ tình, vốn là yếu tố căn cốt hình thành nên bản sắc thơ trẻ giai đoạn này; đồng thời góp phần khôi phục khuôn mặt đa diện của thơ Việt Nam 1945 - 1975. 4. Lịch sử vấn đề 4.1. Thơ 1965 - 1975 tạo nên một vị trí xứng đáng trong dòng chảy của thơ Việt Nam 1945 - 1975, thu hút nhiều cây bút nghiên cứu, phê bình. “Tập trung vào chủ đề đánh Mỹ, thơ chống Mỹ rất chính trị, nhưng lại là một thứ chính trị tự nhiên, nằm ngay trong đời sống, không lên gân, không giả tạo” [208, tr.137]. Và đây cũng chính là yếu tố làm nên sức hấp dẫn của thơ giai đoạn này, đặc biệt là sáng tác của thế hệ cầm bút trẻ. Không ít công trình nghiên cứu, phê bình nhận định, đánh giá sự xuất hiện của thơ trẻ thời chống Mỹ như là một bước chuyển mình đáng kể của văn học cách mạng vốn đã tạo được hương sắc riêng từ thế hệ các nhà thơ lớp trước. Biểu hiện của cái tôi trữ tình, một trong những đóng góp đáng kể của thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, trở thành vấn đề nghiên cứu được quan tâm, trong đó hầu hết nêu nhận định về đặc điểm cơ bản của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ. Trước hết phải kể đến công trình nghiên cứu của Vũ Tuấn Anh, “Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 - 1995 (Nhìn từ phương diện vận động của cái tôi trữ tình)”. Đây là công trình khái quát sự vận động, phát triển cũng như rút ra được những dạng thức biểu hiện chính của cái tôi trữ tình trong thơ cách mạng, từ cái tôi trữ tình 5 yêu nước - kháng chiến (1945 - 1954), cái tôi ngợi ca cuộc sống mới (1954 - 1964) đến sự phát triển đỉnh cao của cái tôi trữ tình công dân (1964 -1975). Vũ Tuấn Anh nhận định thơ chống Mỹ là “giai đoạn phát triển đến đỉnh điểm của cái tôi trữ tình công dân để trở thành cái tôi khái quát, cái tôi tập hợp, cái tôi nhân danh cái Ta dân tộc và Thời đại” [4, tr.124]. Xuất phát từ nhận định đó, tác giả xác định hai dạng thức biểu hiện cơ bản của cái tôi thơ chống Mỹ là “cái tôi sử thi” và “cái tôi thế hệ”. Với tâm thế cái tôi sử thi, tiếng nói của cái tôi trữ tình ở các nhà thơ trẻ chống Mỹ “có sức âm vang của hàng ngàn giọng nói, có sức thuyết phục của chân lý phổ quát” [4, tr.126]. Vũ Tuấn Anh nhìn thấy mối quan hệ khăng khít giữa cái tôi - cái ta như là một sự thể hiện nhất quán của cái tôi sử thi, đồng thời cũng nhận dạng một kiểu cái tôi trữ tình chủ yếu thuộc vào lớp nhà thơ trẻ, “thể hiện cách nhìn, cách cảm riêng của một lứa tuổi trẻ gánh trên vai họ thử thách nặng nề nhất của cuộc chiến tranh, với những gian lao, hy sinh mà họ nếm trải đến tận cùng xương thịt” [4, tr.137]. Chính sự xuất hiện của “cái tôi thế hệ” đã tạo nên tư thế trữ tình mới của thơ 1945 - 1975: là độc thoại, đối thoại với thế hệ mình - “Cái tôi thế hệ, bằng cách chiếm lĩnh hiện thực riêng, là sự tăng cường và bổ sung quý báu phẩm chất hiện thực cho nền thơ chống Mỹ” [4, tr.140]. Cùng hướng khai thác với Vũ Tuấn Anh, trong “Văn học Việt Nam trong thời đại mới”, Nguyễn Văn Long cũng cho rằng cái “tôi” sử thi và cái “tôi” thế hệ là hai dạng thức tiêu biểu của cái tôi trữ tình trong sáng tác của các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước, trong đó cái tôi thế hệ “thống nhất với cái “tôi” sử thi và có thể coi là một biến thể, một dạng độc đáo và cụ thể của cái “tôi” sử thi” [92, tr.112]. Theo Nguyễn Văn Long, “cái “tôi” sử thi trong thơ thời kì chống Mỹ tuy rất thống nhất nhưng không đơn điệu, không hoàn toàn thủ tiêu cái “tôi” của tác giả, vì thế bản sắc, cá tính của mỗi nhà thơ vẫn có chỗ để bộc lộ, phát huy” [92, tr.112]. Nguyễn Văn Long cảm nhận: “từ cái náo nức, say sưa với cảm hứng của buổi đầu, đến sự trải nghiệm với nhiều suy tư, trầm tĩnh trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, cái “tôi” của thơ trẻ muốn tìm cho mình một tiếng nói trầm tĩnh, trực tiếp, thậm chí đến trần trụi, chối bỏ những gì hoa mĩ và sáo mòn trong thơ” [92, tr.114]. Tuy nhiên, biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt 6 Nam 1965 - 1975 được các nhà nghiên cứu đặt trong quá trình vận động của cái tôi trữ tình trong tiến trình văn học cách mạng, vì thế vẫn chưa phải là một cách nhìn nhận toàn diện về diện mạo cái tôi trữ tình. Lê Lưu Oanh, trong “Thơ trữ tình Việt Nam (1975 - 1990)”, đề cập đến đặc điểm của cái tôi trữ tình trong thơ chống Mỹ, nhằm so sánh với biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ sau 1975. Chuyên luận đặt những dạng thức của cái tôi sử thi tương ứng với kiểu nhà thơ hiện thực cách mạng, từ đó cho rằng “vị trí chủ yếu của con người trữ tình là vị trí của cái tôi xã hội, cái tôi công dân mang một sinh khí mới mẻ, mạnh mẽ và kiêu hãnh. Đây là giai đoạn các nhà thơ tuyên bố rời bỏ cái tôi cá nhân, để cái riêng tư hòa lẫn trong cái chung” [152, tr.74]. Trong bài viết “Đội ngũ nhà văn trong chiến tranh chống Mỹ”, Ngô Thảo cũng có nhận định về tâm thế mới của cái tôi thơ trẻ chống Mỹ: “Lớp trẻ vào thơ chống Mỹ không còn phân vân đo đếm tỷ lệ “riêng - chung”, “tôi và chúng ta” trong tác phẩm… Họ không khoác cho tác phẩm tấm áo đồng phục hay mảnh dù ngụy trang” [199, tr.257]. Cũng nhận định về cái tôi trữ tình trong thơ chống Mỹ, Nguyễn Bá Thành cho rằng: “Vị trí số một của nhân vật trữ tình trong thơ thời chống Mỹ là một cái Ta. Cái ta lấn át cái tôi”. [197, tr.189]. Từ đó, tác giả khẳng định “Đến giai đoạn chống Mỹ, cái tôi trữ tình thật sự trở thành cái tôi phương tiện, cái tôi chứng kiến sự vận động của lịch sử. Thời kỳ chống Mỹ, cái tôi trữ tình có mờ nhạt đi” [197, tr.191]. Theo Nguyễn Bá Thành, “Xu hướng ẩn khuất của cái tôi trữ tình ngày càng thể hiện rõ trong thơ chống Mỹ ở giai đoạn sau. Nhất là trong loại thơ suy tưởng, chính luận, thơ đánh giặc” [197, tr.193]. Một mặt nhà nghiên cứu này nêu lên đặc trưng của cái tôi trữ tình thơ chống Mỹ, mặt khác chỉ ra sự nhòe mờ, ẩn khuất của cái tôi trữ tình giai đoạn này. Trong khi đó, Vũ Văn Sỹ lại cho rằng: “Một trong các hình thức tồn tại ước lệ của cái tôi nhân chứng, khiến ta nhận diện một cách dễ dàng, đó là hình thức nhân vật xưng tôi đứng ra trần thuật. Cái hình thức trần thuật như vậy không chỉ là kinh nghiệm thơ ca, mà còn là nội dung nghệ thuật, một hình thức biểu hiện của con người mang dấu ấn thẩm mĩ lịch sử” [183, tr.134]. Từ đó, Vũ Văn Sỹ khẳng định: “Trong quá trình vận động của lịch sử thơ ca, chữ “tôi” nhân xưng trần thuật ngày 7 càng biến hóa đa dạng ở lớp nhà thơ chống Mỹ, gắn với những cá tính thơ khác nhau như Thu Bồn, Phạm Ngọc Cảnh, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần Phương, Thanh Thảo (…) tạo nên bức chân dung hoàn chỉnh về chữ “Tôi” của thơ trữ tình Cách mạng” [183, tr.135]. Đây là vấn đề được luận án tiếp tục làm sáng rõ khi khám phá bản chất cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. Đứng từ góc nhìn cái tôi trữ tình gắn với ý thức khẳng định bản sắc sáng tạo của người nghệ sĩ, theo Vũ Văn Sỹ, “Những nhà thơ xuất sắc của thế hệ chống Mỹ như Nguyễn Khoa Điềm, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh… đều là những cây bút đã chạm khắc được rõ nét chân dung tinh thần của mình, đồng thời cũng là của thế hệ mình vào những mảng sự kiện và biến cố lịch sử” [183, tr.115]. Còn xem cái tôi trữ tình như một biểu hiện của quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ chống Mỹ, Trần Đình Sử lại đánh giá: “Con người của văn học mười năm cả nước đánh Mỹ vẫn là con người chính trị và dân tộc, con người của sự nghiệp chung, quên mình vì nghĩa lớn, vì tập thể” [130, tr.68] và theo Trần Đình Sử, “chiến tranh dầu ở đâu cũng là một hoàn cảnh bất thường, và gương mặt con người trong chiến tranh thường là gương mặt đau thương, nghị lực và ý chí” [130, tr.73] nhưng các nhà thơ “tránh nói những gì đau thương mất mát” [130, tr.73]. Đây cũng là một gợi ý để tác giả luận án có cơ hội tìm tòi, suy ngẫm thêm về những biểu hiện khác nữa của cái tôi trữ tình trong thơ 1965 1975, ở đó người nghệ sĩ không hề lảng tránh bi kịch chiến tranh. Một số công trình về đặc điểm của thơ thời chống Mỹ cũng ít nhiều bàn đến cái tôi trữ tình, như một trong những phương diện nổi bật làm nên diện mạo nền thơ. Hữu Thỉnh khẳng định “nhập cuộc và hành động là vẻ đẹp của thơ ca kháng chiến” và cho rằng đấy là tâm thế hình thành nên một lớp thi sĩ kiểu mới trong thơ kháng chiến, “một cuộc dấn thân để tìm thấy sự kết hợp hài hòa giữa chủ thể sáng tạo và khách thể thẩm mĩ” [209, tr.7-8]. Đây cũng chính là một cách nhìn nhận về đặc điểm của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ giai đoạn này mà không ít nhà nghiên cứu đề cập. Trong bài viết “Về một đặc điểm của thơ 1955 - 1975”, Trần Đăng Xuyền khẳng định “cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước không cho phép con người nghĩ 8 đến cái tôi cá nhân riêng tư, nhất là cái cá nhân ấy lại đối lập, cản trở cái chung của cộng đồng, của toàn dân tộc (...) Nỗi đau của cái tôi riêng tư hòa vào nỗi đau chung của toàn dân tộc” [33, tr.259]. Mai Hương, khi ghi nhận về đóng góp của các cây bút trẻ trong thơ chống Mỹ nhận thấy “những nhà thơ chiến sĩ viết về những người cùng thời và cũng là của chính họ” [74, tr.93]. Trường Lưu lại so sánh: “Cái tôi mà phần lớn lớp nhà văn trước Cách Mạng Tháng Tám đã đấu tranh vất vả khi thể hiện những con người và xóm làng trong kháng chiến chống Pháp, thì giờ đây đã nhuần nhuyễn hòa vào cái ta, cái chúng ta chung của cảm nghĩ dân tộc” [97, tr.98]. Bài viết “Chuyển biến nhận thức của đội ngũ nhà thơ trẻ trong chiến tranh giải phóng” của Lê Thị Bích Hồng cũng góp phần khái quát một số biểu hiện của cái tôi trữ tình, trong đó có những nhận định khá xác đáng trên tinh thần phát triển thành quả nghiên cứu của người đi trước: “Chữ tôi trong thơ mang một tâm thế hoàn toàn mới mẻ. Đó là cái tôi chung, cái tôi cộng đồng, cái tôi giai cấp, cái tôi thế hệ. Có lúc thơ phải bằng lòng một sự phiến diện để yên lòng người đánh giặc” [66, tr.15]. Nhìn một cách tổng thể, cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 đã được đề cập đến ở một vài góc độ trong các công trình nghiên cứu về thơ chống Mỹ, tuy nhiên, phần lớn chỉ tập trung khái quát nên một số dạng thức cơ bản và có tính chất phổ quát của cái tôi trữ tình, đó là cái tôi sử thi, cái tôi thế hệ. Ở công trình luận văn Thạc sĩ “Thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ”, tác giả luận án cũng đã nhận thấy trong thế giới nghệ thuật thơ ấy, có biểu hiện của cái tôi thế sự, đời tư - cái tôi dằn vặt, nhìn thấu vào chiều đau xót bi thương của chiến tranh hay cũng có cái tôi cô đơn đến tuyệt vọng, chông chênh trong chuỗi bi kịch vụn vỡ của tình yêu. Lưu Quang Vũ một mình lặng lẽ trở về góc riêng dành cho những điều bình thường mà cả dân tộc đang bận rộn với nhiều điều lớn lao, thiết thực hơn dường như đã bỏ quên và dừng lại ở thế giới thơ tình Lưu Quang Vũ, hẳn chúng ta sẽ ngẫm ngợi được nhiều điều trăn trở của cái tôi giữa cõi riêng tư thăm thẳm. Như vậy, dù không phải là một dạng thức phổ biến nhưng trong thơ trẻ thời chống Mỹ, không thể khuyết sự thể hiện sâu sắc của cái tôi trữ tình đời tư, vốn là một đặc trưng nổi bật của thơ trữ tình sau 1975. Việc khảo sát dạng thức này cũng là một trong những 9 mục đích nghiên cứu của luận án. Đến gần đây, với chuyên luận “Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Lê Thị Bích Hồng nhận diện bên cạnh cái tôi sử thi và cái tôi thế hệ, còn có cái tôi phi sử thi - vốn là một dạng thức hiện hữu trong thơ chống Mỹ những năm cuối chiến tranh: “Con người một mặt vừa chịu áp lực sử thi, một mặt lại trở về với cái tôi nhân bản. Thơ chống Mỹ đã góp một thành tựu trong việc thể hiện con người, khát vọng con người từ cái nhìn phi sử thi” [68, tr.118]. Đây là một dạng thức cái tôi mà hầu hết các nhà nghiên cứu phê bình trước đây gần như không bàn đến, hoặc chỉ khẳng định đó là diện mạo cái tôi trữ tình của thơ sau 1975, khi cuộc sống dần trở lại những quy luật bình thường, con người phải đối mặt với bao nhiêu biến động của xã hội. Lúc đó, cái tôi cá nhân mới thực sự bừng tỉnh, “trở về những giá trị truyền thống nhân bản” [4, tr.174]. Lê Thị Bích Hồng khẳng định: “Thật ra, cái tôi nhìn theo số phận cá nhân đã có mặt ngay trong thời điểm chiến tranh” [68, tr.108]. Tác giả chuyên luận này cũng đã tập trung vào chủ yếu hiện tượng thơ Lưu Quang Vũ; bên cạnh đó, tác giả còn nhắc đến một số cây bút “bên kia chiến tuyến” ở các đô thị miền Nam khi đề cập đến xu hướng chiến tranh nhìn từ sự mất mát, hi sinh. Bên cạnh những công trình mang tính chất nhận định về diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, còn một số bài viết đi vào khảo sát phong cách nghệ thuật của thơ trẻ, ít nhiều cũng đề cập đến một vài nét biểu hiện của cái tôi trữ tình. Tuy nhiên, các công trình chủ yếu mới dừng lại phác thảo một số dạng thức cái tôi trữ tình trong thơ trẻ một cách khái quát hoặc chỉ dừng lại khảo sát chân dung cái tôi trữ tình trong một số ít hiện tượng tiêu biểu. 4.2. Đối với mảng thơ miền Nam, một số bài viết như: “Thơ miền Nam, tiếng hát của quê hương” (Tế Hanh - Khái Vinh), “Sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ trẻ ở miền Nam” (Bùi Công Hùng), “Thơ ca chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam 1954 - 1970” (Phạm Văn Sĩ)… đã đề cập đến tư tưởng, quan điểm nghệ thuật, cảm hứng sáng tác của thơ trẻ miền Nam. Song hầu hết chỉ mới dừng ở mức độ giới thiệu, khái lược, chưa đi sâu nhận diện bản chất của cái tôi trữ tình. 10 Đối với các nhà thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam, giới nghiên cứu phê bình dành không ít sự quan tâm. Trong bài viết “Nghĩ về tuổi trẻ, nghĩ về thơ, nghĩ…”, Trần Hữu Tá khái quát một số đặc sắc trong cá tính sáng tạo của các cây bút học sinh sinh viên: “Ta dễ nhận ra giọng thơ hào sảng thấm đẫm nhiệt tình của Trần Quang Long, cách thể hiện cô đọng và hiện đại trong thơ Ngô Kha. Ta dễ mến tiếng thơ hồn nhiên chân thật của Hữu Đạo, Võ Quê và lối viết mực thước, tinh tế của Đông Trình… Quan trọng hơn, xét chung cả đội ngũ, sáng tác của họ thật sự có một sinh khí dồi dào và một diện mạo mới mẻ” [64, tr.20-21]. Người nghiên cứu rút ra nhận định cảm hứng sáng tạo của thơ trẻ trong lòng đô thị miền Nam “thể hiện thật nhức nhối nỗi buồn, niềm đau của những người sống trên nơi chôn rau cắt rốn” [64, tr.21]; qua đó, đi đến khẳng định biểu hiện cơ bản của cái tôi trữ tình ở vùng thơ này là “ý thức nhân danh cộng đồng để suy nghĩ, phát biểu và hành động” [64, tr.23]. Cũng bàn về tư duy nghệ thuật của một số cây bút học sinh sinh viên, Thạch Phương đã nhận định tiếng nói chủ đạo của lực lượng sáng tác thơ trẻ miền Nam giai đoạn này là “tiếng nói phủ định cái trật tự xã hội khốn nạn “đầy rẫy những dây kẽm gai, mộ địa và lưỡi lê” [158, tr.46]; cho rằng đây là “một sự chối bỏ toàn diện” nhằm “lật tung cái bộ mặt thật của thuộc địa trá hình” [158, tr.47]. Khi bàn về sức bật của lực lượng cầm bút trẻ thành thị miền Nam 1965 - 1975, Thạch Phương cảm nhận: “Đọc thơ họ, ta cũng bắt gặp không ít những nỗi quằn quại, ngột ngạt giữa một cuộc sống tù đọng” [208, tr.421]. Song Thạch Phương cũng khẳng định cảm hứng chủ đạo của thơ trẻ thành thị miền Nam là “những thao thức, trăn trở của con người, hay nói rộng hơn của cả một thế hệ mang tinh thần thức tỉnh trước một thực tế cần phải đổi thay” [208, tr.422]; đồng thời, bước đầu nhận diện được một số biểu hiện của cái tôi trữ tình ở một vài cây bút tiêu biểu: “Có chất anh hùng ca của Trần Quang Long, Đam San, cũng có cái trữ tình da diết của Võ Quê, Thái Ngọc San. Có cách suy tư lắng đọng kiểu Đông Trình…” [158, tr.52]. Tôn Thất Bút, trong bài viết “Xuân và niềm tin đã mất với người thơ hôm nay”, lại nhận diện chân dung tinh thần của bộ phận thơ trong vùng tạm chiếm miền Nam đánh mất niềm tin vào cuộc đời: “Sự lạc lõng đã trở thành như một ám ảnh thường trực” [10, tr.44] và “Cuộc 11 sống đã mong manh tái nhạt trong từng cá thể con người” [10, tr.45]. Đối với những cây bút vùng tạm chiếm miền Nam không thuộc dòng thơ “viết trên đường tranh đấu” như Nhã Ca, Lệ Khánh, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Dạ Từ…, nhìn chung rải rác đã có một số công trình bàn đến, tuy nhiên chủ yếu vẫn mới dừng lại giới thiệu và thẩm bình một số nét cá tính sáng tạo, cốt phác họa diện mạo thơ trẻ ở bộ phận này như một yếu tố mới của văn học vùng tạm chiếm miền Nam: “Thi ca và thi nhân” (Cao Thế Dung), “Thi ca miền Nam 1954 - 1975” (Nguyễn Vy Khanh), “Những dấu hiệu hiện đại hóa thơ hải ngoại” (Trần Văn Nam), “Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” (Lê Thị Bích Hồng); “Vị trí và ảnh hưởng thơ Nguyên Sa trong văn học Việt” (Du Tử Lê), “Đêm và biện chứng vĩnh cửu trong thơ Nguyên Sa” (Trần Nhựt Tân), “Nguyễn Tất Nhiên, nhà thơ biểu tượng?” (Nguyễn Bảo Hưng), “Luân Hoán, nhà thơ thế hệ chiến tranh” (Phạm Văn Nhàn), “Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn” (Đặng Tiến)... Tuy hầu hết các bài viết, công trình chưa đi sâu khám phá cái tôi trữ tình, song qua đó tác giả luận án cũng nhận diện một số đặc trưng cơ bản trong tư tưởng nghệ thuật của thơ trẻ đô thị miền Nam, có cơ sở khoa học trong việc nhìn nhận những nhân tố tác động đến đặc điểm thơ của thế hệ trẻ đồng thời cũng có cái nhìn khái quát về một số phong cách thơ tiêu biểu như Ngô Kha, Trần Quang Long, Thái Ngọc San, Ngụy Ngữ, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên, Trần Dạ Từ, Nguyễn Bắc Sơn… Từ đó, tác giả luận án tiếp tục mở rộng diện nghiên cứu và đi sâu tìm hiểu sắc diện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam. Nhìn chung, các cây bút nghiên cứu phê bình đã khám phá được một số dạng thức cơ bản cũng như khái quát một số biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. Qua đó, thấy được diện mạo mới của cái tôi trữ tình trong một giai đoạn lịch sử văn học đầy biến động thông qua cái nhìn đối chiếu với cái tôi trữ tình của những thế hệ nhà thơ lớp trước. Một số công trình khá dày dặn song cũng nhiều bài viết chỉ mới dừng ở dạng định hướng nhận diện về những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ giai đoạn này. 12 Với lịch sử vấn đề nghiên cứu trên, luận án có cơ sở đi sâu tìm hiểu cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 dưới một góc nhìn toàn diện hơn; tiếp tục đưa ra những nhận định mà các công trình trước giải quyết chưa triệt để hoặc mới dừng ở mức độ gợi mở. Xuất phát từ việc mở rộng nội hàm khái niệm thơ trẻ, tác giả luận án đi vào cụ thể hóa những dạng thức nổi trội của cái tôi trữ tình ở cả ba vùng sáng tác: miền Bắc, vùng giải phóng và vùng tạm chiếm miền Nam. Qua đó nhận diện một cách thỏa đáng hơn diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 và khẳng định thành tựu nhất định của thơ trẻ giai đoạn này trong dòng chảy thơ Việt Nam 1945 - 1975. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu: Thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, tập trung vào những tác phẩm của các tác giả tiêu biểu ở ba vùng thơ: Thơ trẻ miền Bắc, thơ trẻ vùng giải phóng và thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam. 5.2. Phạm vi nghiên cứu: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 với những dạng thức biểu hiện và một số phương thức thể hiện nổi bật. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp hệ thống: Nhằm đặt những tác phẩm khảo sát vào trong tính chỉnh thể của vấn đề nghiên cứu; đặt vấn đề cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 vào sự vận động và phát triển của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975. 6.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp: Nhằm phân tích những nét biểu hiện của cái tôi trữ tình trong sáng tác của các nhà thơ trẻ tiêu biểu; qua đó, tổng hợp, khái quát thành những dạng thức cái tôi trữ tình của thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. 6.3. Phương pháp so sánh - đối chiếu: là phương pháp được vận dụng để so sánh những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 với các giai đoạn văn học khác, đồng thời phát hiện và lí giải những nét riêng cũng như sự gặp gỡ cái tôi trữ tình giữa các vùng thơ. 6.4. Phương pháp thống kê: Trong quá trình khảo sát những tác phẩm tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ, tác giả luận án sử dụng phương pháp này nhằm thống kê tần số 13 xuất hiện của thể thơ tự do - một phương tiện nghệ thuật quan trọng biểu đạt cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975. 7. Những đóng góp mới Khảo sát diện mạo cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam ở cả miền Bắc, vùng giải phóng và vùng tạm chiếm miền Nam, luận án góp phần mở rộng nội hàm thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, hướng tới khái quát một cách toàn diện hơn chân dung cái tôi trữ tình và nhận diện một cách thỏa đáng hơn tư tưởng nghệ thuật, cũng như đặc điểm nổi bật của thơ Việt Nam 1965 - 1975. Đồng thời, mong muốn khôi phục khuôn mặt vốn đa diện của thơ 1945 - 1975, trước hết là giai đoạn 1965 - 1975. Từ đó, luận án mở ra hướng nghiên cứu mới, khi quan điểm đánh giá không còn “trượt theo quán tính” hầu hết cho rằng văn học Việt Nam 1945 - 1975 chỉ là sự hợp thành của văn học miền Bắc và vùng giải phóng. Luận án nhận định trong thơ trẻ 1965 - 1975, cái tôi sử thi là diện mạo cơ bản của cái tôi trữ tình song cái tôi sử thi biến thể, cái tôi phi sử thi mới là những dạng thức biểu hiện nổi trội, in đậm bản sắc thơ trẻ giai đoạn này. 8. Cấu trúc luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án được cấu trúc thành 3 chương Chương 1. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 - một cái nhìn khái quát Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 - nhìn từ dạng thức biểu hiện Chương 3. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 - nhìn từ phương thức thể hiện 14 CHƯƠNG 1: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 – 1975 - MỘT CÁI NHÌN KHÁI QUÁT Trong tiến trình phát triển của thơ Việt Nam 1945 - 1975, cái tôi trữ tình không ngừng vận động, góp phần làm nên diện mạo của từng giai đoạn thơ. “Tiếng thơ phải được nói lên từ một tấm lòng, từ những rung động sâu xa của một trái tim đang xúc động. Những thương mến, căm giận và những nỗi niềm khác nhau bộc lộ trong hình tượng thơ đều phải chân thành, tự nhiên, như một lời tâm sự, một tình cảm không nén lại được” [45, tr.117]. Đây có thể xem là sứ mệnh thơ trẻ 1965 1975, trước hết nhìn từ ý nghĩa tồn tại của cái tôi trữ tình. Với những dạng thức biểu hiện phong phú, cái tôi trữ tình tạo cho thơ trẻ một chân dung tinh thần, một phong cách thời đại. 1.1. Quan niệm về cái tôi trữ tình 1.1.1. Cái tôi Với tư cách là ý thức cá nhân của mỗi con người, cái tôi xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử triết học. Cái tôi thuộc về bản chất, là chiều sâu tinh thần con người. Dẫu tiềm ẩn hay hiển lộ, cái tôi đều được thừa nhận như là nhu cầu thể hiện cá nhân chính đáng. “Cái tôi tự khẳng định chính nó và tìm được tiếng vang của nó trong cái ta, đồng thời cái ta cũng tự khẳng định khi bao bọc cái tôi và tìm được tiếng vang bên trong của nó trong cái tôi” [201, tr.82]. Cái tôi là sự thức tỉnh đầu tiên của con người, để xác lập vị trí của cá thể này so với cá thể khác. Trong lịch sử triết học phương Đông, cái tôi mang diện mạo riêng. Với Lão giáo, con người cá nhân không thể là trung tâm vũ trụ; chừng nào con người quên “tôi” thì mới có thể sống trong cái vô cùng của không gian và cái vô tận của thời gian. Theo Nho giáo, con người được đặt trong mối quan hệ với thiên mệnh: “Con người kính sợ trời, tin thiên mệnh, tin huyền tưởng, ngưỡng vọng siêu nhân” [150, tr.74]. Bên cạnh đó, Nho giáo lại quan tâm đến cá nhân trong mối quan hệ luân lí, cương thường giữa người với người; đưa con người vào cái đại ngã của gia tộc, 15 quốc gia nhưng cũng hướng con người vào tự do nội tâm. Cái tôi trong tư tưởng Nho giáo không tồn tại với ý nghĩa tự thân mà chỉ tồn tại với ý nghĩa con người là “cái đức của trời đất, là sự kết giao của âm dương…”. Còn với Phật giáo, con người được thiết lập trong quan hệ với chính mình và được lí giải trên học thuyết “vô ngã”. Đạo Phật quan niệm phải tiêu diệt cái tôi vật chất để giải phóng cái tôi tinh thần, phải đưa con người đến nhu cầu hướng nội. Như vậy không có nghĩa là Phật giáo phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của cái tôi. “Con đường đắc đạo của đạo Phật là một con đường cá nhân, chứ không thể cộng đồng” [150, tr.75]. Tuy tam giáo đều quan niệm về cái tôi cá nhân dựa trên khuynh hướng “vô ngã” song hoàn toàn không phải là sự triệt tiêu cái “ngã”. Lão giáo dùng “ngã” để khước từ, tiêu diệt danh lợi chính là khẳng định vai trò của yếu tố cá nhân trên con đường thực hiện lí tưởng đó. Nho giáo một mặt đặt con người vào mối quan hệ khăng khít với thiên mệnh, khuôn con người vào cương thường, luân lí; mặt khác lại đưa con người quay vào thế giới nội tại. Điều này có nghĩa là “cá nhân hòa tan vào một bản chất chung của con người - tự nhiên, con người - chức năng, con người - cương thường, và không còn ý nghĩa như một cái tôi tồn tại độc lập” [4, tr.22]. Như vậy, dù xuất phát từ quan niệm về cái tôi cá nhân của mỗi triết thuyết có những đặc trưng khác nhau thì tất cả đều không thể phủ định ý nghĩa của con người trong việc thực hiện tư tưởng. Ở mỗi triết thuyết, con người cá nhân dù không tồn tại độc lập nhưng vẫn được bộc lộ ở một hình thức nhất định. Và “tất cả đều dựa vào phẩm chất cá nhân để giải phóng cho cái “ngã” nội tại khao khát tự do được bước sang một thế giới khác, không gò bó, tạm bợ” [150, tr.75]. Đến với một số tư tưởng triết học phương Tây, có thể cũng tìm thấy những quan niệm về con người. Với Descartes, con người đặt mình trong tư thế đối diện với vũ trụ, là một “bản thể suy tư”; bản chất con người là bản chất cá thể. Theo quan niệm của Descartes, con người không chỉ tồn tại trong mối liên hệ giữa thể xác và linh hồn mà người là Người vì người biết đau khổ, đam mê trong sự so sánh với tộc loại; con người dù nhỏ bé cũng không bị cô lập trong vũ trụ mà luôn tự nhận thức mình là một phần của trật tự toàn vẹn và có vị thế nhất định trong trật tự toàn 16 vẹn đó. Như Héraclite quan niệm “giữa vũ trụ và con người luôn luôn có một liên hệ” [114, tr.182]. Dừng lại ở Kant, một đại diện tiêu biểu của triết học duy tâm, cũng thấy rất rõ ý nghĩa của cái tôi trong đời sống con người. Cái tôi tồn tại vừa là chủ thể vừa là khách thể của quá trình nhận thức, đồng thời Kant còn tuyệt đối hóa khả năng nhận thức của cái tôi: “Tính thống nhất của tự nhiên không phải ở trong tính vật chất của nó, mà ở trong tính thống nhất của chủ thể nhận thức, của cái tôi” [147, tr.113]. Như vậy, cái tôi cá nhân được thừa nhận như là một đối tượng khám phá phức tạp của con người. Hay đối với Hegel, cái tôi tồn tại như một cá thể độc lập. Cái tôi có khả năng tự biểu hiện mình, thể hiện khát vọng của con người. Xét đến sự ảnh hưởng trực tiếp hoặc có mối liên hệ với quan niệm cái tôi trữ tình, dừng lại ở triết học hiện tượng luận của Husserl, thấy rằng cái tôi được chú trọng với tư cách “chủ tri”, là suy tư về chính chủ thể; khách thể chỉ là cái cớ để chủ thể suy tư. Chính tư tưởng này đã đẩy triết thuyết của Husserl đến một quan niệm về con người tự do. Ở đó con người tự thân đã là một chủ thể sáng tạo không có một mối dây ràng buộc nào với thực tại khách quan. Gặp gỡ Husserl, J.P.Sartre cũng đưa ra một quan niệm hiện sinh về ý thức của cái tôi, trong đó cái tôi không chỉ thiết lập sự khác biệt của nó với ngoại vật, với tha nhân mà còn với chính mình. Theo quan niệm của triết học hiện sinh, “Con người cũng là một toàn thể không phân chia; do đó mỗi cử chỉ, hành động của nó, dù bé nhỏ, tầm thường cũng bày tỏ một ý nghĩa, một thái độ của con người hiểu như một toàn thể trước cuộc đời” [232, tr.252]. Con người được đặt trong sự tự do hóa tuyệt đối, là hữu thể trong mối quan hệ với chính nó, không có tha tính, là sự “tự ý thức”. Như một sự kế thừa hiện tượng học của Husserl, J.P. Sartre cho rằng chính cá nhân ra luật cho toàn thế giới, cá nhân phải xác định ý nghĩa của thực thể trong mình và bên ngoài mình. Từ đó, Sartre quan niệm: “không có vũ trụ nào khác ngoài vũ trụ con người” [172, tr.31] và khẳng định “con người không phải là đóng kín trong bản thân mình mà luôn luôn có mặt trong một vũ trụ con người” [172, tr.32]. Đối lập với những triết thuyết tuyệt đối hóa cái tôi cá nhân, đến triết học Marx, giá trị con người cá nhân được xác lập với tư cách vừa là chủ thể vừa là khách thể của các mối quan hệ xã hội. Cá nhân luôn tự thiết 17 lập quan hệ với môi trường xã hội, là “bộ mặt xã hội”. Đến đây, cái tôi tồn tại như là trung tâm của cá tính con người không tách rời khỏi hiện thực: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [102, tr.11]. Theo lí giải của triết học, cái tôi là một yếu tố của chủ thể, là quan niệm của chủ thể về chính mình. Hay nói cách khác, cái tôi chính là khả năng tự nhận thức của chủ thể. Sự khu biệt cơ bản nhất của hai phạm trù này là nếu chức năng của chủ thể là nhận thức và cải tạo thế giới thì chức năng của cái tôi là xác lập vị thế của mình trong thế giới. Chủ thể, theo quan niệm của triết học, không hẳn là một cá nhân đơn lẻ, mà đó có thể là một tập thể, một cộng đồng. Như vậy, tương ứng với chủ thể của mỗi thời đại là sự biểu hiện một loại hình cái tôi phù hợp. “Sẽ giản đơn, siêu hình nếu xem cái tôi cá nhân là một cái gì nhỏ hẹp, hạn chế, khép kín” [181, tr.136]. Mang những đặc tính riêng, cái tôi không đơn thuần là cái tôi cá nhân riêng lẻ, nhỏ hẹp, bất biến mà đó là một phạm trù mang tính “động”, “không chỉ là chức năng tự ý thức của chủ thể, mà còn là chức năng tự ý thức về bản chất xã hội của chủ thể” [181, tr.136]. Cái tôi tự thân có sức dung chứa vô cùng bởi cái tôi có chức năng thâu nhận thế giới khách quan qua lăng kính nội cảm. Sự thâu nhận này đã tạo nên một thế giới chủ quan của cái tôi, ở đó sức nội cảm của cái tôi tỉ lệ thuận với sự phong phú đa dạng của cuộc đời. Đây chính là thế giới của những giá trị qua cách nhìn của cái tôi, là thế giới khó tách bạch đâu là chủ quan đâu là khách quan: Khúc thu/ Khúc thu/ Bần bật lá vàng/ Đôi giày nhỏ xinh xinh nàng công chúa (Dương Kiều Minh); Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau/ Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa/ Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa/ Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh (Đoàn Văn Cừ). Chính đặc tính này tạo nên sự đa dạng trong những dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ tình: cái tôi hướng nội, cái tôi hướng ngoại… Cái tôi luôn tự thiết lập một cách ứng xử “thống nhất bền vững” đối với cuộc sống. Điều đó không có nghĩa cái tôi là một phạm trù bất biến. Sự bền vững ở đây có thể hiểu là sự nhất quán trong bản chất tinh thần con người, nghĩa là ý thức khẳng định bản chất tinh thần qua nhiều biến cố của đời sống: Biển vẫn cậy mình dài rộng thế/ Vắng cánh buồm một chút/ đã cô đơn (Hữu Thỉnh); Ký hiệu đời
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan