Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất nhập khẩu
I . Khái niệm và vai trò XNK.
1. Khái niệm:
Theo qui định về chế độ và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh XNK thì hoạt độnh
kinh doanh XNK phải nhằm phục vụ nền kinh tế trong nước phát triển trên cơ sở khai
thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng và thế mạnh sẵn có về lao động, đất đai và
các tài nguyên khác của nền kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao
động, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và qui trình công nghệ sản xuất, thúc đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hoá đất nước, đáp ứng các yêu cầu cơ bản và cấp bách về sản
xuất và đời sống, đồng thời góp phần hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng và điều hoà cung
cầu để ổn định thị truờng trong nước.
XNK là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành
vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả
bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân.
XNK là hoạt động dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó
phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước
tham gia XNK không dễ dàng khống chế được.
XNK là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh
đời sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp hơn trong nước như giao
dịch với người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán
qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn,đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá
vận chuyển qua biên giới cửa khẩu, cửa khẩu các quốc gia khác nhau phải tuân theo
các tập quán quốc tế cũng như địa phương.
Hoạt động XNK được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra thị
trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá XNK, thương nhân giao dịch, các bước tiến
hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi
hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành các
thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu đầy đủ,kỹ lưỡng đặt
chúng trong mối quan hệ lẫn nhau,tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu
quả cao nhất, phục vụ đầy đủ kịp thời cho sản xuất, tiêu dùng trong nước.
Đối với người tham gia hoạt động XNK trước khi bước vào nghiên cứu, thực hiện các
khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng hoá thị hiếu, tập quán
tiêu dùng khả năng mở rộng sản xuất, tiêu dùng trong nước, xu hướng biến động của
nó. Những điều đó trở thành nếp thường xuyên trong tư duy mỗi nhà kinh doanh XNK
để nắm bắt được .
Mặc dù XNK đem lại nhiều thuận lợi song vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế:
+ Cạnh tranh dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán hàng XNK. Nếu không có sự
kiểm soát của Nhà nước một cách chặt chẽ kịp thời sẽ gây các thiệt hại khi buôn bán
với nước ngoài. Các hoạt động xấu về kinh tế xã hội như buôn lậu, trốn thuế, ép cấp, ép
giá dễ phát triển.
+ Cạnh tranh sẽ dẫn đến thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế bằng các biện pháp
không lành mạnh như phá haoaị cản trở công việc của nhau…việc quản lý không chỉ
đơn thuần tính toán về hiệu quả kinh tế mà còn phải chú trọng tới văn hoá và đoạ đức
xã hội.
2. Vai trò của XNK.
2.1 Đối với nhập khẩu.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của TMQT, nhập khẩu tác động một cách trực
tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống. Nhập khẩu là để tăng cường cơ sở vật chất
kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà
sản xuất trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng nhu cầu. Nhập
khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những thứ mà sản xuất trong nước sẽ không
có lợi bằng xuất khẩu,làm được như vậy sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối
và khai thác tiềm năng,thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động , vốn , cơ sở
vật chất, tài nguyên và khoa học kĩ thuật.
Chính vì vậy mà nhập khẩu có vai trò như sau:
- Nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước
- Bổ xung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế , đảm bảo một sự phát triển
cân đối ổn định.khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào
vòng quay kinh tế.
- Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất tạo việc làm ổn định cho người lao động
góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu góp phần nâng cao chất lượng sản
xuất hàng xuất khẩu ,tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá ra thị trường
quốc tế đặc biệt là nước nhập khẩu.
Có thể thấy rằng vai trò của nhập khẩu là hết sức quan trọng đặc biệt là đối với các
nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) trong việc cải thiện đời sống kinh tế,thay
đổi một số lĩnh vực ,nhờ có nhập khẩu mà tiếp thu được những kinh nghiệm quản lí
,công nghệ hiện đại …thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng.
Tuy nhiên, nhập khẩu phải vừa đảm bảo phù hợp với lợi ích của xã hội vừa tạo ra lợi
nhuận các doanh nghiệp ,chung và riêng phải hoà với nhau. Để đạt được điều đó thì
nhập khẩu phải đạt được yêu cầu sau:
* Tiết kiệm và hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn nhập khẩu :trong đIều kiện chuyển
sang nền kinh tế thị trường việc kinh doanh mua bán giữa các nước đều tính theo thời
giá quốc tế và thanh toán với nhau bằng ngoại tệ tự do . Do vậy,tấtcả các hợp đồng
nhập khẩu phải dựa trên vấn đề lợi ích và hiệu quả là vấn đề rất cơ bản của quốc gia ,
cũng như mỗi doanh nghiệp đòi hỏi các cơ quan quản lí cũng như mỗi doanh nghiệp
phải :
+ Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ,khoa
học kĩ thuật của đất nước và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân .
+ Giành ngoại tệ cho nhập khẩu vật tư để phụ sản xuất trong nước xét thấy có lợi hơn
nhập khẩu .
+ Nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được hàng hoá thích hợp ,với giá cả có lợi phục
vụ cho sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.
* Nhập khẩu thiết bị kĩ thuật tiên tiến hiện đại :
Việc nhập khẩu thiết bị máy móc và nhận chuyển giao công nghệ ,kể cả thiết bị theo
con đường đầu tư hay viện trợ đều phải nắm vững phương trâm đón đầu đi thẳng vào
tiếp thu công nghệ hiện đại .Nhập phải chọn lọc ,tránh nhập những công nghệ lạc hậu
các nước đang tìm cách thải ra .Nhất thiết không vì mục tiêu “ tiết kiệm” mà nhập các
thiết bị cũ ,chưa dùng được bao lâu ,chưa đủ để sinh lợi đã phải thay thế .Kinh nghiệm
của hầu hết các nước đang phát triển là đừng biến nước mình thành “bãi rác”của các
nước tiên tiến.
* Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước ,tăng nhanh xuất khẩu
Nền sản xuất hiện đại của nhiều nước trên thế giới đầy ắp những kho tồn trữ hàng hoá
dư thừavà những nguyên nhiên vật liệu .Trong hoàn cảnh đó,việc nhập khẩu dễ hơn là
tự sản xuất trong nước.Trong điều kiện ngành công nghiệp còn non kém của Việt Nam,
giá hàng nhập khẩu thường rẻ hơn, phẩm chất tốt hơn .Nhưng nếu chỉ nhập khẩu
không chú ý tới sản xuất sẽ “bóp chết”sản xuất trong nước .Vì vậy ,cần tính toán và
tranh thủ các lợi thế của nước ta trong từng thời kì để bảo hộ và mở mang sản xuất
trong nước vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa vừa tạo ra được nguồn hàng xuất
khẩu mở rộng thị trường ngoài nước.
2.2 Đối với xuất khẩu.
Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh để đem lại lợi nhuận
lớn, là phương tiện thúc đẩy kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo đIều
kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy
các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng
xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ.
Như vậy xuất khẩu có vai trò hết sức to lớn thể hiện qua việc:
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.
Công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết
bị, kỹ thuật, vật tư và công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như:
. Liên doanh đầu tư với nước ngoài
. Vay nợ, viện trợ, tài trợ.
. Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ
. Xuất khẩu sức lao động
Trong các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ…cũng phải trả bằng
cách này hay cách khác. Để nhập khẩu, nguồn vốn quan trọng nhất là từ xuất khẩu.
Xuất khẩu quyết định qui mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản
xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực
sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến thế giới từ bên ngoài
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hoá sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế
giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho
phù hợp với nhu cầu thị trường.
+ Xuất khẩu cồn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác
quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành.
- Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo ra nguồn vốn để
nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống của nhân dân.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất
nước.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế gắn chặt với phân công
lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động
kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển.
Chẳng hạn, xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư,
vận tải quốc tế…
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển
kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
3. Tình hình XNK của Việt Nam thời gian qua.
3.1 Những thành tựu đạt được:
Từ khi đổi mới cơ chế thị trường, nền kinh tế của nước ta đã có sự chuyển đổi sâu sắc
và toàn diện đặc biệt là trong lĩnh vực XNK. Trước đây ngoại thương Việt Nam do
Nhà nước độc quyền quản lý và điều hành và chủ yếu được thực hiện việc trao đổi
hàng hoá theo nghị định thư giữa các Chính phủ do đó mà hoạt động thương mại trở
nên kém phát triển.
3.1.1 Về hoạt động XNK.
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy rằng, kinh ngạch XNK của ta tăng liên tục. Từ 6876
triệu USD năm 19993 lên 30.119,2 triệu USD năm 2000, tức là sau 7 năm kim nghạch
XNK của ta đã tăng lên 2.243,2 triệu USD và 2 năm sau đó vẫn liên tục tăng. Sự
chuyển đổi nền kinh tế đã thúc đẩy ngoại thương Việt Nam phát triển mạnh mẽ cả về
nhập khẩu và xuất khẩu đồng thời tốc độ tăng trưởng về ngoại thương nhanh qua các
năm và tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng của sản xuất. Tốc độ tăng trưởng bình quân
qua các năm 1993 – 1996 là 38,64%, giai đoạn 1996 – 1999 là 8,3% và năm 2000 là
29%. Có thể thấy rằng, trong các năm 1996 – 1999 tốc độ tăng trưởng giảm sút là do
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nhưng bước sang năm 2000 tốc độ tăng
trưởng trở lại bình thường đạt mức
29% nhưng vẫn ở mức thấp. Mặc dù kim nghạch XNK của ta tăng không đều qua các
năm song cũng thể hiện phần nào sự phát triển nền kinh tế của nước ta. Nếu xét riêng
về xuất khẩu và nhập khẩu thì tốc độ tăng của nhập khẩu cao hơn tốc độ tăng của xuất
khẩu.
Về cơ cấu XNK của ta cũng có nhiều thay đổi, điều này được thể hiện qua bảng sau:
Về xuất khẩu: Hàng nông – lâm – thuỷ sản năm 1999 chiếm 31,9% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu, bước sang năm 2000 thì giảm xuống chỉ đạt ở mức 29% nhưng 2 năm
tiếp theo lại có chiều hướng gia tăng. Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản có chiều
hướng giả dần qua các năm, năm 2000 đạt 37,2% tong tổng kim ngạch xuất khẩu
nhưng đến năm 2001, 2002 đã giảm xuống còn 30,6%, 29,5%. Cũng theo xu hướng
này dự đoán đến năm 2003 giảm xuống chỉ còn 27,7%. Điều này có thể do lượng
khoáng sản ngày càng ít đi và ngành công nghiệp nặng phục vụ trong nước là chính.
Chỉ có ngành công nghiệp nhẹ là tăng đều qua 4 năm qua và dự báo năm 2003 đạt
42,3%, tức là tăng 13,3% so với năm 2000 và 11,2% so với năm 2002.. Nhìn chung,
tình hình xuất khẩu của Việt Nam là tương đối ổn định, hàng nông, lâm, thuỷ sản vẫn
chiếm tỷ trọng cao, duy chỉ có hàng công nghiệp nặng và khoáng sản là có xu hướng
giảm đi.
Về nhập khẩu: Việt Nam vẫn là nước có tỷ trọng nhập khẩu cao so với tổng kim ngạch
XNK. Hàng nguyên, nhiên, vật liệu luôn chiếm tỷ trọng cao nhất đồng thời tăng liên
tục qua các năm: năm 1999 đạt 61,7%, năm 2000, năm 2000 đạt 63,2%, và năm 2001,
năm 2002 đạt 65,7% chứng tỏ nước ta vẫn là nước nhập nguyên vật liệu nhiều nhất để
phục vụ cho ngành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước. Hàng tiêu dùng chiếm tỷ
trọng thấp nhất và giảm dần. Năm 1999 đạt 85% đến năm 2002 còn 4,6% tức là giảm
gần gấp đôi. Điều này do nước ta ngày càng sản xuất được các hàng tiêu dùng trong
nước thay thế cho nhập khẩu. Hàng máy móc, thiết bị, phụ tùng thì khá ổn định chỉ
giao động ở mức 29 – 30% . Sự thay đổi về cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam cho thấy
nước ta đ• đi đúng hướng trong việc đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ và kỹ thuật và khả
năng đáp ứng hàng tiêu dùng đã tăng lên do tự sản xuất được
3.1.2 Về thị trường XNK.
Phát triển thị trường XNK theo quan điểm Marketing hiện đại có nghĩa là không những
mở rộng thêm những thị phần mới mà còn phải tăng thị phần của sản phẩm đó trong
các thị phần đã có sẵn. Gần một thập kỷ qua thị trường XNK của Việt Nam đã có sự
thay đổi sâu sắc. Nừu như trước đây chủ yếu buon bán với Liên Xô và Đông Âu,
chiếm khoảng 80% kinh ngạch XNK thì hiện nay hàng hoávà dịch vụ của Việt Nam đã
có mặt trên 140 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việc chuyển hướng kịp thời
đã tạo điều kiện để mở rộng qui mô XNK lựa chọn bạn hàng phù hợp và gíup cho nền
kinh tế tăng trưởng một cách liên tục mặc dù có những biến động lớn ở Liên Xô và
Đông Âu.
+ Cá nước Châu á: Là thị trường buôn bán chủ yếu của Việt Nam, chiếm 63,65% tổng
kim ngạch xuất khâu và 74- 75% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước thập kỷ qua,
trong đó các nước lân cận chiếm 45%, đặc biệt là Nhật Bản, ASEAN, và Trung Quốc
là những bạn hàng lớn của Việt Nam. Thei Bộ ngoại giao thì các nước APEC tiêu thụ
từ Việt Nam toàn bộdầu thô xuất khẩu, gần 70% gạo, 90% hạt điều, 90- 94% cao su,
80% hạt tiêu, 85% lạc nhân, 65% thuỷ sản, 60- 70% cà phê, 60% dệt may, 55- 60% dầy
dép, 95- 96% thiếc thỏi, gần 70% than đá. Về nhập khẩu, đại bộ phận hàng hoá nhập
khẩu của Việt Nam từ thị trường này với kim ngạch từ 75- 77%. Nhìn chung, thị
trường Châu á tương đối ổn định và đầy triển vọng cho hàng hoá của ta vào thị trường
này.
+ Thị trường Nhật Bản: Là thị trường chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu, dự kiến
kim ngạch xuất khẩu của ta vào Nhật Bản từ 21- 25% mỗi năm trong thời gian tới. Các
mặt hàng Việt Nam xuất sang Nhật Bản bao gồm nông sản, thuỷ hải sản, may mặc…
Bên cạnh đó còn có một số hàng công nghiệp như máy móc thiết bị. Tuy nhiên, thị
trường Nhật Bản có những nét đặc thù, hệ thống quản lý chất lượng hàng nhập khẩu rất
chặt chẽ, cách thức phân phối hàng theo kênh riêng…vì thế khi xuất khẩu sang thị
trường này cần tìm hiểu rõ để tránh rủi ro.
+ Thị trường EU: Phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu, được xây dựng trên cơ sở những
mối quan hệ truyền thống và những thiết chế luật pháp được hai bên cam kết và tuân
thủ. EU là thị trường tiêu thụ hàng hoá công nghiệp nặng và hàng tiêu dùng lớn nhất
của Việt Nam khoảng 8% tổng hàng xuất khẩu sang EU
+ Liên Bang Nga : là thị trường truyền thống và nhiều tiềm năng. Những năm gần đây,
tuy kim ngạch XNK còn rất nhỏ bé so với tiềm năng, năm 1996 kim ngạch xuất khảu
sang Nga đạt 85 triệu USD, năm 1997 đạt 120 triệu USD năm 1998 là 132,6 triệu USD
song là thị truờng hấp dẫn đối với các doanh nghiệp của Việt Nam
Ngoài ra, nước ta còn quan hệ với nhiều nước khác như thị trường Châu Mỹ…cũng có
nhiều triển vọng.
3.2 Một số mặt còn tồn tại.
Mặc dù đạ được những thành tựu đáng kể song ngoại thương Việt Nam vẫn còn nhiều
hạn chế được thể hiện qua một số mặt sau.
+ Về xuất khẩu: tốc độ tăng trưởng còn thấp và không đều qua các năm, dễ bị ảnh
hưởng bởi cuộc khủng hoảng khu vực và thế giới.Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu còn lạc
hậu, chất lượng thấp, mặt hàng manh mún, sức cạnh tranh còn yếu.Xuất khẩu chủ yếu
là nguyên liệu thô chưa qua chế biến, sản phẩm của các ngành công nghiệp nhẹ, công
nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản vẫn là các mặt hàng chủ yếu
+ Về nhập khẩu: Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu liên tục tăng , chứng tỏ nước ta vẫn là
nước nhập siêu cao. Hơn nữa nhập khẩu lãng phí, kém hiệu quả,việc buôn lậu trở lên
nghiêm trọng gây tổn thất lớn.
+ Về bạn hàng: Thị trường bấp bênh, chủ yếu qua trung gian,vẫn thu hẹp ở thị trường
các nước trong khu vực, chưa phát triển nhiều ra các nước trên thế giới, thiếu hụt các
hợp đồng lớn và dài hạn.Mặc dù thị trường có được mở rộng nhưng lượng xuất khẩu
vẫn còn hạn chế vì thế rất gây bất lợi cho hàng hoá của nước ta.
+ Cơ chế quản lý XNK chưa chặt chẽ để kiểm soát và ngăn chặn buôn lậu, chưa
khuyến khích xuất khẩu, thủ tục còn nhiều rườm rà, bất cập, thông tin về thị trường còn
thiếu, không kịp thờivà chính xác.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động XNK.
Thị trường quốc tế chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau thường là đa dạng
và phong phú hơn nhiều so với thị trường nội địa. Chính vì vậy hoạt động kinh doanh
XNK cũng phải chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố mà các nhân tố này có thể mang
tính vĩ mô hoặc mang tính vi mô. Cụ thể hoạt động kinh doanh XNK chịu ảnh hưởng
của những nhân tố sau:
4.1 Nhân tố mang tính toàn cầu.
Đó là nhân tố thuộc về hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù xu hướng chung trên thế
giói là tự do mậu dịch và các nỗ lực chung để giảm bớt hàng rào ngăn cản đối với
kinh doanh quốc tế, các nhà kinh doanh XNK luôn phải đối diện với các hạn chế
thương mại khác nhau. Phổ biến nhất là thuế quan, một loại thyế do chính phủ nước
ngoài đánh vào những sản phẩm nhập khẩu. Thuế quan có thể được qui định để làm
tăng thu nhập cho quốc gia hay để bảo hộ cho các doanh nghiệp trong nước. Nhà xuất
khẩu cũng có thể đối diện với một hạn ngạch ( quota ) là việc đề ra những giới hạn về
số lượng những hàng hoá mà nước nhập khẩu phải chấp nhận đối với những loại sản
phẩm nào đó. Mục tiêu của hạn ngạch là để bảo lưu ngoại hối và bảo vệ công nghệ
cũng như công ăn việc làm trong nước . Một sự cấm vận là hình thức cao nhất của hạn
ngạch , trong đó việc nhập khẩu các loại sản phẩm trong danh sách cấm vận bị cấm
hoàn toàn.
Kinh doanh XNK cũng có thể bị hạn chế do việc kiểm soát ngoại hối là việc điều tiết
lượng ngoại tệ hiện có và tỷ giá hối đoái so với đồng tiền khác. Các nhà kinh doanh
XNK cũng có thể phải đối diện với một loạt các hàng rào phi thuế quan như giấy phép
nhập khẩu, những sự quản lý, điều tiết định hình như phân biệt đối xử với các nhà đấu
thầu nước ngoài, các tiêu chuẩn sản phẩm mang tính phân biệt đối xử với hàng nước
ngoài.
4.2 Chế độ chính sách luật pháp của Nhà nuớc và quốc tế.
Đây là yếu tố mà doanh ngiệp kinh doanh XNK cần nắm rõ và tuân thủ. Bởi vậy nó thể
hiện ý chí thống nhất chung của quốc tế. Hoạt động XNK được tiến hành giữa các chủ
thể ở các quốc gia khác nhau, nên nó chịu sự tác động của chính sách chế độ, luật pháp
của quốc gia đó, đồng thời tuân theo những qui định , luật pháp của quốc gia đó và nó
phải tuân theo những qui định , luật pháp quốc tế chung.
Nhân tố thuộc môi trường văn hoá.
Mỗi nước đều có những tập tục , qui tắc , kiêng kỵ riêng. Chúng được hình thành heo
truyền thống văn hoá của mỗi nước và có ảnh huỏng to lớn đến tập tính tiêu dùng của
khách hàng nứơc đó. Tuy sự giao lưu văn hoá giữa các nước đã làm xuất hiện khá nhiề
tập tính tiêu dùng chung cho moị dân tộc, song những yếu tố văn hoá truyền thống vẫn
còn rất bền vững có ảnh hưởng rất mạnh đến thói quen và tâm lý tiêu dùng. Đặc biệt
chúng thể hiện rất rõ trong sự khác biệt giữa truyền thống phương Đông và phương
Tây, giữa các tôn giáo và giữa các chủng tộc.
Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng quyết định đến hoạt động xuất khẩu. Nó
quyết định sự hấp dẫn của thị trường thông qua việc phản ánh tiềm lực thị trường và hệ
thống cơ sở hạ tầng của một quốc gia. Trong những năm gần đây, môI trường kinh tế
quốc tế có nhiều thay đổi do xu hướng nhất thể hoá nền kinh tế có nhiều mức độ khác
nhau như khu vực mậu dịch tự do , khu vực thống nhất thuế quan, khu vực thị trường
chung…Những xu hướng này có tác động đến hoạt động xuất khẩu của các quốc gia
theo hai hướng : tạo ra sự ưu tiên cho nhau và kích thích tăng trưỏng của các thành
viên.
4.3 Hệ thống giao thông vận tải , thông tin liên lạc
Việc thực hiện hoạt động XNK không thể tách rời công việc vận chuyển và thông tin
liên lạc. Nhờ có thông tin mà các bên có thể cách nhau tới nửa vòng tráI đất vẫn thông
tin được với nhau để thoả thuận tiến hành hoạt động kịp thời. Việc
vận chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác là công việc nặng nề tốn nhiều chi
phí của hoạt động XNK. Do đó, nếu hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc
của một nước thuận tiện sẽ giúp cho việc thực hiện hoạt động XNK được tiến hành dễ
dàng, nhanh chóng và ngược lại.
4.4 Hệ thống tài chính ngân hàng:
Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh, can thiệp tới tất
cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế dù lớn hay nhỏ, dù ở bất kỳ thành phần kinh tế
nào. Hoạt động xuất nhập khẩu sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự phát triển
của hệ thống ngân hàng. Dựa trên các quan hệ, uy tín , nghiệp vụ thanh toán liên ngân
hàng rất thuận lợi mà các doanh nghiệp tham gia hoạt đông XNK sẽ được đảm bảo về
mặt lợi ích.
4.5 Khả năng sản xuất, chế biến của nền kinh tế trong nước.
Kinh doanh thương mại nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng là mua bán
hàng hoá chứ không phải để tiêu dùng cho chính mình . Các doanh nghiệp XNK hoạt
động trên thị trường đầu vào nhằm chuẩn bị đầy đủ các yếu tố đầu vào trong đó quan
trọng nhất là hàng hoá. Nguồn hàng của doanh nghiệp XNK là toàn bộ và cơ cấu hàng
hoá thích hợp với nhu cầu của khách hàng đã và đang có khả năng huy động trong kỳ
kế hoạch
4.6 Doanh nghiệp và sức cạnh tranh trên thị trường
Doanh nghiệp không thể XNK được hàng hoá nếu doanh nghiệp không có khả năng
thu mua, chế biến và tiếp cận được với khách hàng nước . Doanh nghiệp phải biết tận
dụng thế mạnh để có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
II. Các hình thức XNK.
Các nghiệp vụ xuất nhập khẩu hàng hoá là hoạt động thương mại liên quan đến mua
và bán hàng hoá với thị trường nước ngoài bao gồm cả tái xuất khẩu (Reexport) và tái
nhập khẩu (Reimport )
1. Tái xuất khẩu :
Là xuất khẩu hàng đã nhập về trong nước, không qua chế biến thêm, cũng có trường
hợp hàng không về trong nước, sau khi nhập hàng, giao hàng đó ngay cho người thứ
ba. Như vậy ở đây có cả hành động mua và hành động bán nên mức rủi ro có thể lớn
và lợi nhuận có thể cao.
2. Tái nhập khẩu.
Là nhập khẩu từ nước ngoài mà hàng trước đó đã xuất khẩu nhập lại hàng đó không
qua chế biến.
Về nguyên lý nghiệp vụ tái xuất khẩu và tái nhập khẩu không tính vào hàng xuất khẩu
hay hàng nhập khẩu mạc dù phải quá thủ tục hải quan.
Nhiều hàng tái xuất thực hiện ở các khu tự do thương mại, khu này nằm ngoài vòng
kiểm tra của hải quan. Hàng nhập vào khu này không nộp thuế hải quan kể cả hàng
nhập để tái xuất đi nước khác. Nhưng nếu hàng này từ khu tự do thương mại lại
chuyển vào các vùng khác của nước đó (nước chủ nhà khu tự do thương mại ) thì phải
nộp thuế nhập khẩu theo tỷ lệ chung của hải quan.
Ví dụ:
Mỹ : New York, New orleau, Los Angeles , Cietle, Sanfranciseo.
Anh : Cảng London.
Thuỵ Điển : Cảng Gofeborg , Stockholm Maemo.
Đan Mạch : Gopenhagen.
CHLB Đức : Hambourg.
3. Xuất khẩu và nhập khẩu trực tiếp
Các nhà sản xuất công nghiệp giao hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nước ngoài và
mua hàng trực tiếp nhập hàng của người sản xuất
Về nguyên tắc mặc dù xuất khẩu trực tiếp có làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh
song nó có những ưu điểm sau:
Giảm bớt lợi nhuận trung gian sẽ làm tăng chênh lệch giữa giá bán và chi phí, tức là
làm tăng lợi nhuận cho nhà sản xuất
Người sản xuất có liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng, với thị trường, biết
được nhu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng do đó có thể thay đổi sảm phẩm và
các điều kiện bán hàng rong điều kiện cần thiết
4. Xuất khẩu và nhập khẩu gián tiếp.
Là hình thức khi doanh nghiệp thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt ngay tại
nước xuất khẩu nhập khẩu để tiến hành XNK.
Hình thức xuất khẩu gián tiếp khá phổ biến ở những doanh nghiệp mới tham gia vào
thị trường quốc tế .
Hình thức này có ưu điểm cơ bản là:
- ít phải đầu tư.
- Doanh nghiệp khong phải triển khai một lực lượng bán hàng ở nước ngoài cũng như
các hoạt động giao tiếp và khuyếch trương ở nước ngoài.
- Hạn chế được các rủi ro có thể xảy ra ở thị trường nước ngoài.
Tuy nhiên, hình thức này cũng có hạn chế là giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do phải
chia sẻ với các tổ chức tiêu thụ và do không có liên hệ trực tiếp với thị trường nước
ngoài nên việc nắm bắt các thông tin về thị trường nước ngoài bị hạn chế, không thích
ứng nhanh được với các biến động của thị trường.
5. Tạm nhập, tái xuất.
Như đưa hàng đi triển lãm, đưa đi sửa chữa rồi lại mang về
6. Tạm xuất, tái nhập.
Như đưa hàng vào dự triển lãm, hội chợ, quảng cáo sau đó đưa về
7. Chuyển khẩu.
Là hàng mua của nước này bán cho nước khác, không làm thủ tục XNK. Như vậy,
trong hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán mà chỉ thực hiện các dịch vụ
như vận tải quá cảnh, lưu kho, lưu bãi, bảo quản…Bởi vậy mức độ rủi ro trong hoạt
động nói chung là thấp và lợi nhuận cũng không cao.
8.Dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu.
Như gửi đại lý hay thuê người sửa chữa
9. Xuất khẩu tại chỗ.
Trong trường hợp này hàng hoá và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia
nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp
hàng hoá và dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế… Hoạt động
xuất khẩu tại chỗ có thê đạt hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí
bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh.
III. Nội dung mở rộng thị trường.
1. Khái niệm thị trường và vai trò của thị trường trong hoạt động XNK.
1.1 Khái niệm thị trường.
Thị trường là con đẻ kinh tế hàng hoá và sự phát triển của phân công lao động xã hội.
Như VI. Lênin đã vạch rõ: “ nơi nào có phân công xã hội và sản xuất hàng hoá nơi đó
có thị trường .’’
Trong điều kiện sản xuất nhỏ, thị trường hàng hoá nhỏ hẹp, trình độ phát triển thấp.
Đến thời kỳ chủ nghĩa tư bản, kinh tế hàng hoá phát triển nhanh chóng, qui mô thị
trường hàng hoá mở rộng chưa từng có, phạm vi giao dịch càng rộng, vừa có hàng hoá
hữu hình, vừa có hàng hoá vô hình , thậm chí sức lao động cũng trở thành hàng hoá.
Hơn thế nữa kinh tế hàng hoá đã vượt qua giới tuyến dân tộc, vượt qua biên giới quốc
gia làm xuất hiện thị trường có tính thế giới.
Theo quan điểm kinh tế học thì “ Thị trường là tổng thể của cung và cầu đối với một
loại hàng hoá nhất định trong một không gian và thời gian cụ thể.’’
Đứng trên giác độ quản lý một doanh nghiệp, khái niệm thị trường phải được gắn với
các tác nhân kinh tế tham gia vào thị trường như người mua, người bán ,người phân
phối…với những hành vi cụ thể của họ
Mặt khác trong điều kiện kinh doanh hiện đại thì trong khái niệm thị trường yếu tố
cung cấp đang mất dần tầm quan trọng, trong khi đó nhu cầc và sự nhận biết nhu cầu là
những yếu tố ngày càng quyết định đối với hoạt động của doanh nghiệp. Do đó có thể
đưa ra khái niệm thị trường quốc tế như sau : Thị trường quốc tế của doanh nghiệp là
tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó.
1.2 Vai trò của thị trường đối với hoạt động XNK.
Thị trường là môi trường hoạt động của mọi doanh nghiệp. Để thuận lợi cho các hoạt
động kinh doanh thì tự bản thân doanh nghiệp phải biết củng cố và phát triển cho môi
trường hoạt động của mình, bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Hoà
theo xu thế quốc tế hoá, ngày nay nhiều doanh nghiệp mở rộng việc đưa sản phẩm ra
tiêu thụ ở thị trường nước ngoài bằng cách xuất khẩu, dây là cách dễ thực hiện và
thường được sử dụng cả đối với những doanh nghiệp mới tham ra vào thị trường quốc
tế cũng như những doanh nghiệp đã có những kinh nghiệm. Trong bối cảnh cạnh tranh
ngày càng gay gắt, thị trường ngày càng trở nên mang tính toàn cầu. Chính vì vậy, thị
trường có vai trò rất lớn đối với hoạt động XNK
+ Thị trường là nơi tiêu thụ hàng hoá XNK : mọi hàng hoá sẽ được đem ra trao đổi
mua bán trên thị truờng, đáp ứng nhu cầu cân bằng giữa cung và cầu.
+ Thị trường là sự tồn tại của doanh nghiệp: Mỗi doanh nghiệp hay Công ty nào tham
gia vào hoạt động kinh doanh XNK đều coi trọng thị trường vì nó là khâu then chốt
quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
+ Thị trường là nơi cung cấp thông tin cho người sản xuất, người tiêu dùng và cả người
kinh doanh thương mại. Thị trường chỉ rõ nhữmg biến động về nhu cầu xã hội, số
lượng giá cả, cơ cấu và xu hướng thay đổi của nhu cầu các loại hàng hoá dịch vụ. Đó là
những thông tin cực kỳ quan trọng đối với người sản xuất hàng hoá, giúp họ điều chỉnh
sản xuất cho quan hệ cung cầu, thay đổi qui cách mẫu mã cho phù hợp nhu cầu, thị
hiếu, sản xuất hàng hoá theo mốt mà người tiêu dùng đòi hỏi…
Sự hình thành, phát triển của thị trường gắn liền với sự hình thành, phát triển của sản
xuất, lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.Thị trường có vai trò to lớn thúc đẩy sự
phát triển, mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá.
2. Chiến lược mở rộng thị trường.
- Xem thêm -