Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ...

Tài liệu Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ

.DOC
34
123
99

Mô tả:

Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG BỘ MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ MÔN THANH TOÁ N QUỐC TÊ CÁ C LOẠI RỦI RO TRONG THANH TOÁ N QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thanh Phương Sinh viên thực hiện: Lớp: 06 – Lê Hùng C ường 11 – V ũ Quỳnh Giao 12 – Đoàn Thị Thu Hương 17 – Đặng Trung Kiên 18 – Nguy ễn Tùng Lâm 20 – Ph ạm Thị Ngọc Lương 25 – Ph ương Quỳnh Nga 30 – Lê Thanh Phượng 32 – Lê Huy Quy ết 37 – Vũ Thị Thu Trang Anh 2 QTKD K44A Hà Nội, tháng 10 năm 2008 Mục lục 1 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ Lời mở đầu.................................................................................................1 Phần I. Khái quát về TTQT và phương thức thanh toán TDCT.................2 1. TTQT và các phương thức TTQT chủ yếu..................................2 1.1. Khái niệm TTQT............................................................2 1.2. Vai trò của TTQT...........................................................2 1.3. Các phương thức TTQT chủ yếu....................................3 2. Phương thức thanh toán TDCT....................................................4 2.1. Khái niệm .......................................................................4 2.2. Quy trình nghiệp vụ........................................................5 2.3. Ý nghĩa............................................................................6 Phần II. Các loại rủi ro trong phương thức thanh toán TDCT...................8 1. Khái niệm.....................................................................................8 2. Phân loại.......................................................................................8 2.1. Rủi ro kỹ thuật ................................................................................8 2.1.1. Rủi ro đối với người bán..................................................8 2.1.2. Rủi ro đối với người mua...............................................10 2.1.3. Rủi ro đối với ngân hàng................................................11 2.2. Rủi ro chính trị..............................................................................12 2.3. Rủi ro ngoại hối.............................................................................13 2.4. Rủi ro đạo đức...............................................................................14 2.5. Rủi ro khác....................................................................................16 3. Nguyên nhân..............................................................................17 3.1. Đối với rủi ro kỹ thuật ..................................................................17 3.2. Đối với rủi ro chính trị..................................................................17 3.3. Đối với rủi ro ngoại hối.................................................................18 3.4. Đối với rủi ro đạo đức...................................................................18 Phần III. Một số giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro..............19 1. Kiến nghị đối với Nhà nước.......................................................19 2. Kiến nghị đối với các đơn vị kinh doanh XNK.........................21 3. Kiến nghị đối với các Ngân hàng thương mại...........................23 3.1. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định khách hàng ..................23 3.2. Xây dựng đội ngũ chuyên viên và đạo đức nghề nghiệp..............24 3.3. Thành lập bộ phận quản lý và phòng ngừa rủi ro..........................25 3.4. Đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng...................................25 3.5. Tiếp tục đổi mới công nghệ ngân hàng.........................................27 4. Kiến nghị cụ thể về nghiệp vụ....................................................28 Kết luận....................................................................................................31 Tài liệu tham khảo....................................................................................32 LỜI NÓI ĐẦU 2 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ Xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế đã mở ra cho nhân loại cánh cửa giao lưu đầy triển vọng. Lịch sử đã chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể phát triển trong sự tách biệt với thế giới bên ngoài, các nước đang xích lại gần nhau thông qua chiếc cầu nối thương mại quốc tế. Vượt qua không gian và thời gian, những luồng chu chuyển hàng hóa, dịch vụ và tiền tệ đã tạo ra sự gắn kết bền vững giữa cung và cầu ở những nước có trình độ kinh tế khác nhau và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng kéo theo sự phức tạp ngày càng lớn trong mắt xích cuối cùng của quá trình trao đổi, thanh toán quốc tế. Được xem là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế, hoạt động thanh toán quốc tế đã không ngừng được đổi mới và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu an toàn, thuận tiện và nhanh chóng của các giao dịch thương mại. Cùng với xu hướng hội nhập ngày càng tăng, các mối giao lưu thương mại cũng ngày càng được mở rộng. Điều đó đặt ra cho các ngân hàng thương mại phải phát triển các dịch vụ kinh tế đối ngoại một cách tương ứng, trong đó không thể không kể đến hoạt động thanh toán quốc tế với nhiều phương thức thanh toán đa dạng và phong phú. Trong các phương thức thanh toán này, tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến nhất do những ưu việt của nó. Song tín dụng chứng từ không phải là nghiệp vụ đơn giản, trong thực tế công tác này đã gặp phải không ít những rủi ro gây thiệt hại cả về tài chính lẫn uy tín cho các ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp Việt Nam. Thực trạng trên cho thấy việc phát hiện, phòng ngừa những rủi ro trong thanh toán quốc tế đặc biệt là thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ là một việc làm cần thiết mà các Ngân hàng Thương mại cũng như các doanh nghiệp Việt Nam phải quan tâm chú trọng. Với mong muốn góp phần vào công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng chứng từ, chúng tôi đã mạnh dạn tìm hiểu đề tài :" Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ", qua đó đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các bên, giảm thiểu rủi ro trong phương thức thanh toán này. Phần I: Khái quát về thanh toán quốc tế và 3 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ phương thức thanh toán tín dụng chứng từ 1. Thanh toán quốc tế và các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu 1.1. Khái niệm thanh toán quốc tế (TTQT) Dưới giác độ kinh tế, TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc tế trong quan hệ thanh toán giữa các nước. Trong quan hệ đó, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ mà các bên phải đề ra để giải quyết và thực hiện được quy định lại thành những điều kiện gọi là các điều kiện thanh toán quốc tế sau: - Điều kiện về tiền tệ - Điều kiện về địa điểm - Điều kiện về thời gian - Điều kiện về phương thức thanh toán - Điều kiện về đảm bảo hối đoái Những điều kiện này được thể hiện trong các điều khoản thanh toán của hiệp định trả tiền ký kết giữa các nước, các hiệp định thương mại, các hợp đồng mua bán ngoại thương ký kết giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu. 1.2. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế Hoạt động thanh toán quốc tế (TTQT) ngày càng có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang tiến hành sự nghiệp xây dựng đất nước. Thông qua hoạt động TTQT, chúng ta có thể tận dụng được vốn, công nghệ nước ngoài để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, rút ngắn khoảng cách tụt hậu và đưa nền kinh tế đất nước hoà nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Hoạt động TTQT là khâu quan trọng trong quá trình mua bán, trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Hoạt động TTQT của các ngân hàng ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng, nó là công cụ, là cấu nối trong quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ kinh tế và thương mại giữa các nước trên thế giới. 4 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ Hoạt động TTQT giúp cho doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. Do vị trí địa lý của các bạn hàng thường cách xa nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng của người mua, của bên nợ. Đồng thời trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay, tình trạng lừa đảo ngày càng tăng nên rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu ngày càng nhiều. Tổ chức tốt hoạt động TTQT sẽ giúp các nhà xuất khẩu hạn chế được rủi ro trong quá trình kinh doanh quốc tế, nhờ đó sẽ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển. Đối với ngân hàng thương mại, việc mở rộng hoạt động TTQT có vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Đây không chỉ là một dịch vụ thuần tuý mà còn được coi là một nghiệp vụ không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động khác phát triển. Hoạt động TTQT giúp cho ngân hàng thu hút thêm khách hàng có nhu cầu giao dịch kinh doanh quốc tế, trên cơ sở đó ngân hàng phát triển được các nghiệp vụ như huy động vốn ngoại tệ, đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu và các dịch vụ khác, nhờ đó quy mô hoạt động của ngân hàng ngày càng lớn. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh đối ngoại giúp cho ngân hàng nâng cao uy tín và ngày một tạo niềm tin vững chắc cho ngân hàng. Tóm lại, trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt và trong xu thế toàn cầu hoá như hiện nay, hoạt động thanh toán quốc tế có vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần tăng thu nhập, uy tín và khả năng cạnh tranh cho ngân hàng. 1.3. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu: Phương thức TTQT là việc tổ chức quá trình trả tiền hàng trong giao dịch mua bán ngoại thương giưã người xuất khẩu và người nhập khẩu Thực chất phương thức thanh toán là cách thức người bán thu tiền còn người mua trả tiền. Trong buôn bán Quốc tế có thể lựa chọn nhiều phương thức thanh toán khác nhau. Tuy vậy, việc lựa chọn các phương thức đều phải xuất phát từ nhu cầu của người bán, thu tiền nhanh, đầy đủ và từ yêu cầu của người mua là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng thời hạn đã ghi trong hợp đồng. Trong ngoại thương có 5 phương thức thanh toán sau thường được áp dụng bao gồm: - Phương thức thanh toán bằng tiền mặt (Cash Payment) 5 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ + CIA: cash in advance + CBD: Cash before delivery + COD: Cash on delivery + CAD: Cash against document - Phương thức chuyển tiền ( Remittance ) - Phương thức ghi sổ ( Open account ) - Phương thức nhờ thu ( Collection of payment ) + Nhờ thu phiếu trơn ( clean collection ) + Nhờ thu kèm chứng từ ( documentary collection ) - Phương thức tín dụng chứng từ ( Documentary credit ) Hiện nay, phương thức tín dụng chứng từ là phương thức được áp dụng phổ biến nhất trong TTQT. 2. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ: 2.1. Khái niệm Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận, trong đó một Ngân hàng ( ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng ( Người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác ( người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định của thư tín dụng. Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có: - Người yêu cầu mở thư tín dụng là Người nhập khẩu hoặc là người nhập khẩu ủy thác cho một người khác - Ngân hàng phát hành thư tín dụng là Ngân hàng của người nhập khẩu, nó cấp tín dụng cho người nhập khẩu - Người hưởng lợi thư tín dụng là người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà Người hưởng lợi chỉ định - Ngân hàng thông báo thư tín dụng là ngân hàng đại lý của ngân hàng phát hành ở nước người hưởng lợi 6 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ 2.2. Quy trình nghiệp vụ phương thức thanh toán tín dụng chứng từ: (2) Ngân hàng mở L/C (7) (5) (6) (1) Ngân hàng thông báo L/C (6) (5) (3) (4) Người xuất khẩu Người nhập khẩu (Người hưởng lợi (Người xin mở L/C) (1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đếnL/C) ngân hàng của mình yêu cầu mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng (2) Ngân hàng mở L/C căn cứ vào đơn xin mở L/C sẽ lập một L/C và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu thông báo việc mở L/C (3) Ngân hàng thông báo L/C cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung L/C (4) Nếu người xuất khẩu chấp nhận L/C sẽ giao hàng cho người nhập khẩu nếu không thì yêu cầu sửa đổi bổ sung cho phù hợp (5) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C và xuất trình tới ngân hàng thông báo để qua đó xin ngân hàng mở L/C thanh toán (6) Ngân hàng mở L/C kiểm tra toàn bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với L/C thì sẽ trả tiền cho người xuất khẩu, nếu không thấy phù hợp sẽ từ chối thanh toán và gửi lại chứng từ cho người xuất khẩu. (7) Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển toàn bộ chứng từ cho người nhập khẩu nếu người nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền. 2.3. Ý nghĩa của phương thức tín dụng chứng từ Trong giao dịch thương mại quốc tế hiện đại, các bên đối tác mua bán thường lựa chọn Tín dụng chứng từ làm phương thức thanh toán. Sở dĩ tín dụng chứng từ được ưa chuộng và sử dụng phổ biến như vậy là do nó có những đặc điểm nổi bật so với các phương thức thanh toán khác. Nếu như phương thức chuyển tiền, nhờ thu gây bất lợi cho một bên người mua hoặc một bên người bán, cũng có khi là cả hai bên thì phương thức thanh toán Tín dụng chứng từ tỏ ra ưu việt hơn, nó không những mang lại một số 7 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ quyền lợi nhất định cho Ngân hàng mà nó còn đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên tham gia xuất nhập khẩu: Người bán đảm bảo được thanh toán nếu xuất trình được bộ chứng từ hoàn chỉnh, hợp lệ, còn người mua cũng đảm bảo nhận được hàng đúng thời hạn, đúng như quy định trong hợp đồng. Cụ thể, sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có những ý nghĩa nhất định như sau: * Đối với nhà xuất khẩu Là người hưởng lợi của thư tín dụng, nhà xuất khẩu có được đảm bảo rằng khi xuất trình bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của thư tín dụng (L/C) cho ngân hàng, nhà xuất khẩu sẽ nhận được tiền thanh toán. Tình trạng tài chính của người mua được thay thế bằng việc ngân hàng mở thư tín dụng cam kết trả tiền, chấp nhận hoặc chiết khấu trên cơ sở chứng từ được trao phù hợp với các điều khoản của L/C. * Đối với nhà nhập khẩu Trước hết, nhà nhập khẩu sẽ nhận được hàng hoá như thể hiện trong các chứng từ được ngân hàng mở L/C ghi rõ trong thư tín dụng. Anh ta cũng được bảo đảm rằng tài khoản của mình sẽ chỉ bị ghi nợ số tiền của thư tín dụng khi tất cả các chỉ thị của thư tín dụng được thực hiện đúng. Trong trường hợp ngân hàng áp dụng mức miễn ký quỹ 100% hoặc một tỷ lệ miễn ký quỹ nhất định nào đó, nhà nhập khẩu sẽ không bị đọng vốn vì không phải ứng trước tiền. Hơn nữa, nhờ có sự bảo đảm về thanh toán, nhà nhập khẩu có thể tiến hành thương lượng các điều kiện tốt hơn về hàng hóa như giá cả, chất lượng và trên hết là có thêm cơ hội để nhập được hàng hoá mà mình cần. * Đối với ngân hàng thương mại (NHTM) Có thể nói, thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ là một loại hình dịch vụ không thể thiếu của ngân hàng phục vụ cho người nhập khẩu nên khi hoạt động thanh toán đạt hiệu quả cao sẽ đem lại nguồn thu lớn cho ngân hàng với một mức rủi ro tương đối thấp. Khi tiến hành nghiệp vụ thanh toán L/C, ngân hàng có được một nguồn thu ổn định từ việc thu phí như phí mở, sửa đổi, điều chỉnh L/C, phí thông báo, thanh toán, xác nhận L/C (các khoản phí trong nghiệp vụ thanh toán L/C nói chung khá cao, cao 8 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ hơn so với những phương thức thanh toán khác vì nghiệp vụ này tương đối phức tạp, đòi hỏi trình độ nghiệp vụ cao). Ngoài ra khi quy định các khoản ký quỹ cho doanh nghiệp mở L/C ngân hàng còn huy động thêm được một lượng vốn đáng kể phục vụ cho hoạt động của các nghiệp vụ khác như cho vay xuất nhập khẩu, xác nhận, bảo lãnh... Hơn nữa, với việc thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán L/C sẽ góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng trên nhiều phương diện khác nhau không chỉ ở trong nước mà ngay cả trên trường quốc tế. Phần II: Các loại rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ 1. Khái niệm Theo nghĩa chung, rủi ro là khả năng một sự kiện không mong muốn, không thuận lợi có thể xảy ra dẫn đến sự mất mát hoặc hư hỏng. 9 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ Trong thanh toán L/C, rủi ro xảy ra khi quyền lợi của một hoặc các bên tham gia bị vi phạm, rủi ro không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là việc chứng từ không được thanh toán mà còn phải được hiểu theo nghĩa rộng của nó là bất kỳ một sự khúc mắc, chậm trễ nào trong các khâu của quá trình thanh toán. Rủi ro trong thanh toán bằng L/C có thể xảy ra đối với tất cả các bên: đối với người bán, đối với người mua và đối với các ngân hàng. 2. Phân loại: Trong thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức TDCT, có rất nhiều rủi ro có thể xảy ra cho các bên tham gia vào quy trình này, tổng kết lại gồm 4 loại rủi ro chính: Rủi ro kỹ thuật, rủi ro chính trị, rủi ro hối đoái và rủi ro đạo đức. 2.1. Rủi ro kỹ thuật Rủi ro kỹ thuật là những rủi ro do những sai sót mang tính kỹ thuật trong quy trình thanh toán XNK, như sự sai khác giữa bộ chứng từ thanh toán với hợp đồng hoặc L/C hay việc thực hiện sai một khâu trong quy trình nghiệp vụ thanh toán. 2.1.1. Rủi ro đối với người bán Trong thanh toán xuất nhập khẩu người bán có trách nhiệm chuẩn bị hàng, giao hàng và lập bộ chứng từ nhận hàng cho người mua. Khi ngân hàng là trung gian thanh toán giữa người bán và người mua thì ngân hàng chỉ làm việc với bộ chứng từ mà người bán lập ra.  Rủi ro trong việc lập chứng từ gửi hàng: Tại các ngân hàng, hầu hết các bộ chứng từ gửi tới thanh toán hàng xuất khẩu đều mắc phải những sai sót đơn giản (như sai chính tả, tên, địa chỉ, số lượng,..) đến những sai sót lớn hơn như không thống nhất với nhau, hối phiếu ghi sai người ký phát, bộ chứng từ không hoàn chỉnh về mặt số lượng: ví dụ : tại ngân hàng VCB, khi giao dịch L/C số 018012396 ILC 0023, công ty may Hưng Yên là người hưởng lợi đáng lẽ phải ký phát cho Keore Exchange Bank, Seoul thì lại ký phát cho người yêu cầu mở là National Sundrives Import and Export Coporation. Hoặc thậm chí, người xuất khẩu còn lập hoá đơn thương mại với số tiền vượt quá số tiền của thư tín dụng. Nếu đã vượt ra ngoài dung sai cho phép thì ngân hàng mở sẽ từ chối trả tiền. Trong trường hợp này 10 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ phải lập hai bộ chứng từ thanh toán: một bộ hối phiếu đòi tiền ngân hàng mở thư tín dụng, một bộ hối phiếu đòi tiền người mua với số tiền vượt quá số tiền của thư tín dụng cùng với một uỷ thác nhờ thu ngân hàng thu hộ tiền. Trên tờ hối phiếu nhờ thu này, người bán phải ghi câu: “Số tiền vượt quá chuyển sang nhờ thu”. Như ta đã biết, nếu như bộ chứng từ không phù hợp thì việc thanh toán không thể thực hiện được. Bộ chứng từ là cơ sở để người mua giảm giá, từ chối nhận hàng, kéo dài thời gian thanh toán hay không thanh toán tiền hàng và đặc biệt khi bộ chứng từ không phù hợp với L/C thì Ngân hàng sẽ từ chối thanh toán. Do vậy, thời gian thanh toán luôn bị kéo dài do chứng từ phải sửa đi sửa lại. Thậm chí những lỗi không sửa được phải đợi sự đồng ý của bên mua. Thường thì các đơn vị xuất khẩu của ta rất eo hẹp về vốn và vì vậy họ thường chọn thanh toán L/C trả ngay. Nhưng nhiều khi do bộ chứng từ có sai sót và phải chờ nhà nhập khẩu chấp nhận, đơn vị mới nhận được tiền. Và như vậy, nhà xuất khẩu sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu tăng vòng quay của vốn. Hơn nữa họ còn bị phạt vì sai sót chứng từ. Rủi ro này là một trở ngại lớn đối với người bán.  Các sai lầm khi tiến hành giao hàng: việc thực hiện không đúng, sai sót khi giao hàng, hàng hoá giao không đúng quy định về chất lượng, chủng loại, thời hạn… giao hàng, xuất trình chứng từ muộn, chọn sai cảng bốc dỡ, sai hãng vận tải… Trong khi ký hợp đồng, người bán hàng nếu không có trình độ nghiệp vụ ngoại thương thì dễ chấp nhận các điều kiện hợp đồng thương mại bất lợi để rồi sau đó không thực hiện được làm cho đối tác có cơ sở để kéo dài thời gian thanh toán, giảm giá hoặc từ chối thanh toán, khiến cho quá trình thanh toán gặp nhiều khó khăn. Đây là rủi ro thường gặp nhất là ở các đơn vị mới tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Rủi ro do chưa nắm bắt được các thủ tục tố tụng, khi quá trình thanh toán có khúc mắc xảy ra thì người bán không khiếu nại kịp thời, đúng chỗ mà chỉ biết khiếu nại ngân hàng dẫn đến người bán bị kéo dài thời hạn thanh toán. Ví dụ như khiếu nại về việc chậm thanh toán của người mua khi đã nhận chứng từ và nhận đủ hàng. 2.1.2. Rủi ro đối với người mua  Thứ nhất là rủi ro trong việc làm đơn yêu cầu mở L/C không cụ thể và đầy đủ dẫn đến việc người bán có thể lợi dụng các sơ hở trong L/C để cung cấp hàng hóa không đúng như mong muốn của người mua. 11 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ  Thứ 2 là rủi ro trong việc chấp nhận chứng từ do người bán lập ra để thanh toán: khi chứng từ xuất trình hoàn toàn không đúng với tình trạng của hàng hoá thì sau khi thanh toán người mua sẽ nhận được số hàng không đúng yêu cầu có thể là cả về chất lượng cũng như số lượng và làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh đặc biệt là làm mất uy tín trong kinh doanh của người mua. Mặt khác chứng từ còn là cơ sở pháp lý đầu tiên của hàng hoá, nếu người mua hàng không xem xét kỹ lưỡng từ lỗi câu chữ đến số lượng các loại chứng từ cũng như người cấp giấy chứng nhận…thì sẽ khó khăn trong việc khiếu kiện khi có rủi ro về hàng hoá.  Thứ ba là rủi ro do chưa nắm bắt được các thủ tục tố tụng, khi quá trình giao hàng có khúc mắc xảy ra thì người mua không khiếu nại kịp thời, đúng chỗ dẫn đến người mua bị lỡ cơ hội kinh doanh hay bị đọng vốn. Ví dụ như người bán giao hàng không đúng quy định, khiếu nại về việc giao hàng không đúng quy định của khách hàng nước ngoài, khiếu nại việc mất mát tổn thất lớn với hãng vận tải và bảo hiểm… Ba loại rủi ro nêu trên đều là rủi ro liên quan đến kinh nghiệm và trình độ nghiệp vụ của các cán bộ trong đơn vị mua hàng: theo một số báo cáo thống kê, có hơn 40% cán bộ thuộc các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia hoạt động xuất nhập khẩu nhưng chưa qua đào tạo về nghiệp vụ ngoại thương. Do sự yếu kém trong nghiệp vụ ngoại thương của các đơn vị XNK, vì vậy họ đã sai sót trong việc lựa chọn đối tác; không tìm hiểu kỹ, không nắm vững khả năng của bên bán dẫn đến khi không nhận được hàng hoặc nhận được hàng không đúng theo hợp đồng..vv.. thì kế hoạch kinh doanh bị phá vỡ. 2.1.3. Rủi ro đối với Ngân hàng Rủi ro kỹ thuật xuất hiện ở các khâu trong quy trình thanh toán, xảy ra khi ngân hàng tuân thủ không đúng theo quy định của luật pháp và các quy tắc được áp dụng. Ngân hàng thường gặp phải một số rủi ro về kỹ thuật sau:  Do công tác quản lý và kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng: Nghiệp vụ TTQT là một nghiệp vụ không hề đơn giản, hơn nữa, sự xuất hiện của nhiều thủ đoạn lừa đảo mới rất tinh vi trong TTQT đã làm cho nghiệp vụ này càng trở nên phức tạp, nhiều rủi ro. Chính vì vậy, các cán bộ nghiệp vụ của ta ở một số chi nhánh do chưa có kinh nghiệm, chưa được đào tạo sâu, chưa nắm bắt kịp thời kỹ thuật nghiệp vụ nên đã dẫn 12 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ đến không ít trường hợp sơ suất trong quá trình thực hiện thanh toán, gây ra thiệt hại lớn cho khách hàng và ngân hàng.  Do sai sót trong quan hệ với khách hàng trong nước: Việc thu nhập, phân tích thông tin, đánh giá tình hình hoạt động trong kinh doanh của các doanh nghiệp còn chưa được đầy đủ và chặt chẽ. Có khách hàng có hiện tượng vi phạm cam kết về tài chính với ngân hàng nhưng vẫn được bảo lãnh, hay có những khách hàng làm ăn phạm pháp song ngân hàng cũng không tìm hiểu kỹ và kết quả là khi doanh nghiệp rơi vào vòng tố tụng thì ngân hàng phải chịu hết rủi ro. Trong trường hợp này, nếu ngân hàng đứng ra trả tiền thay cho các doanh nghiệp đó thì rủi ro rất cao bởi vì khả năng thu hồi tiền là rất mong manh. Nhưng theo quy định của L/C thì ngân hàng mở phải có trách nhiệm trả tiền cho người bán khi người mua mất khả năng thanh toán. Điển hình là trường hợp của VCB khi cấp L/C trả chậm cho các hợp đồng của vụ án Minh Phụng, Tamexco... Các quy định về an toàn trong ký quỹ L/C, đánh giá tài sản thế chấp, cầm cố, cam kết của ngân hàng chưa được áp dụng chặt chẽ. Thậm chí đối với các L/C thế chấp bằng chính lô hàng nhập cũng chưa có sự giám sát chặt chẽ của cán bộ ngân hàng đối với hàng nhập về này nên khách hàng đã bán hàng và sử dụng tiền vào mục đích khác mà ngân hàng không phát hiện ra. Hậu quả lớn nhất chính là ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Mất mát về uy tín là mất mát lớn nhất và sâu sắc nhất ảnh hưởng tới vị thế của ngân hàng trong lòng thị trường. Nói tóm lại, tất cả những sai sót về mặt kỹ thuật dù từ phía nào cũng đều làm cho quá trình thanh toán bị gián đoạn, kéo dài, thậm chí gây thiệt hại rất lớn cho các bên. 2.2. Rủi ro chính trị Rủi ro chính trị hay rủi ro quốc gia (Country Risk) quốc gia là những rủi ro về sự thay đổi chính trị, kinh tế, chính sách của một quốc gia khiến cho nhà xuất khẩu không nhận được tiền hàng và nhà nhập khẩu không nhận được hàng hoá, qua đó có ảnh hưởng không tốt tới ngân hàng. Những biến động về chính trị như: chiến tranh, nổi loạn, đảo chính và các biến cố chính trị xã hội khác đã gây cản trở cho việc giao nhận hàng và thanh toán qua ngân hàng của các doanh nghiệp. Những biến động này thường khiến cho các bên 13 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ xuất nhập khẩu và ngân hàng không thực hiện được nghĩa vụ của mình, làm cho L/C có thể bị huỷ bỏ gây thiệt hại cho các bên. Bên cạnh đó, biến động về môi trường pháp lý cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các bên tham gia phương thức thanh toán L/C và nó cũng để lại những hậu quả đáng kể. Rủi ro này xảy ra khi có sự vận dụng không thống nhất các nguồn luật điều chỉnh L/C ngoài UCP600. Nó thường xuất hiện khi có sự tranh chấp hoặc khiếu kiện giữa các bên. Ví dụ trường hợp một công ty nhập khẩu đến VCB xin mở một L/C cho người hưởng lợi nước ngoài. Sau khi xem xét đơn yêu cầu mở L/C và giấy cam kết của khách hàng, căn cứ vào tình hình tài chính, phân tích đánh giá nhu cầu thị trường, ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp ký quỹ 20%. Quy định mức tiền ký quỹ này là một biện pháp để ngân hàng mở tự bảo vệ mình. Khi đồng ý mở L/C cho doanh nghiệp, VCB cũng vận dụng kết hợp các thông lệ quốc tế không chỉ trong ngân hàng mà còn trong các lĩnh vực khác như vận tải, bảo hiểm... và yêu cầu vận đơn phải được theo lệnh của ngân hàng phát hành. Theo thông lệ quốc tế về vận tải, với vận đơn đó ngân hàng sẽ được quyền nhận hàng hoặc bán hàng cho khách hàng khác nếu đơn vị mở L/C không có khả năng thanh toán hoặc có nguy cơ bị phá sản. Song thực tế lại diễn ra không theo như ý muốn của các bên tham gia. Sau khi hàng đã giao và bộ chứng từ thanh toán đã đến ngân hàng mở - VCB, ngân hàng yêu cầu đơn vị nhập khẩu thanh toán để nhận chứng từ đi lấy hàng thì họ lại không có khả năng thanh toán do có nhiều hợp đồng bị thua lỗ trước đó. Sau khi không còn có hy vọng gì về việc người mua có thể thanh toán được tiền hàng, VCB đã phải cầm chứng từ hàng hoá đi nhận hàng của người nhập khẩu nhưng đã bị hải quan từ chối với lý do: “ngân hàng chỉ là người bảo lãnh chứ không phải người mua nên không được nhận hàng”. Đây là mặt hàng phải có quota nhập khẩu nên ngân hàng không có đủ điều kiện để nhận hàng hoặc bán lại cho bên thứ ba. Rõ ràng ngân hàng mở trong trường hợp này đã tìm cách tự bảo vệ mình nhưng rủi ro vẫn xảy ra ngoài tầm kiểm soát. Hay chẳng hạn như trường hợp của một doanh nghiệp cung ứng vật liệu xây dựng ký một hợp đồng xuất khẩu gỗ cho một công ty của Đài Loan. Sau khi hợp đồng được ký kết, Nhà nước lại ban hành quyết định tăng thuế, hạn chế xuất khẩu mặt hàng này. Do đó doanh nghiệp đã không cung cấp được đủ số lượng cho bên nước ngoài theo đúng thời hạn. Bên Đài Loan đã căn cứ vào đó để phạt thanh toán chậm 20 ngày, gây thiệt hại về tài chính cho 14 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ doanh nghiệp. Cùng với mất mát tài chính của đơn vị xuất khẩu, uy tín của VCB với tư cách là ngân hàng thông báo cũng bị ảnh hưởng. 2.3. Rủi ro ngoại hối Rủi ro ngoại hối là những rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được ấn định bằng đồng tiền nước ngoài. Do vậy nó phụ thuộc vào hai yếu tố, đó là tỷ giá hối đoái và trạng thái ngoại hối về loại ngoại tệ đó của ngân hàng.  Thứ nhất là vấn đề tỷ giá hối đoái: đây là một yếu tố nhạy cảm và sự biến động của nó là không thể lường trước được, nó có ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định của doanh nghiệp. Khi kí hợp đồng mua hàng, nhà nhập khẩu không thể lường trước được mức độ trượt giá đồng nội tệ so với ngoại tệ mạnh. Khi hàng nhập về, tỷ giá trượt mạnh, đối với những mặt hàng giá bán cạnh tranh không thể tăng giá được, nhà nhập khẩu có thể từ chối nhận hàng vì sợ bị lỗ và vì cũng không có đủ khả năng thanh toán, khi đó thì rủi ro tất yếu sẽ xảy ra đối với ngân hàng thương mại. Bản thân ngân hàng đã có những biện pháp để tự phòng ngừa những ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá hối đoái một cách có hiệu quả. Tuy nhiên trong một số trường hợp, do sơ suất ngân hàng đã phải chịu một số thiệt hại do sự biến động của tỷ giá hối đoái gây nên. Ví dụ: Trong thực tế ở nước ta, một số doanh nghiệp nhập khẩu thường không sẵn có ngoại tệ hoặc nếu có thì số lượng không đáng. Do đó khi cần ngoại tệ, họ sẽ chuyển nội tệ vào ngân hàng và yêu cầu ngân hàng bán ngoại tệ cho mình để thanh toán. Khi có yêu cầu mở L/C thanh toán ngân hàng sẽ thu tiền ký quỹ đối với nhà nhập khẩu. Do trong TTQT ngoại tệ mạnh thường được sử dụng nên ngân hàng mở sẽ phải dùng số tiền đó để mua ngoại tệ. Số tiền ký quỹ mà doanh nghiệp nộp vào ngân hàng đã được tính ra ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái tại thời điểm đó. Nếu vì một lý do nào đó ngân hàng không thực hiện ngay việc trao đổi lấy ngoại tệ tại thời điểm đó mà lùi lại một thời gian, giả sử khi đó đồng nội tệ giảm giá và ngân hàng không lường trước được điều này, ngân hàng sẽ phải mất thêm một khoản tiền để bù vào mức giảm đó khi mua ngoại tệ. Kết quả là ngân hàng sẽ bị mất một khoản tiền do sự biến động của tỷ giá hối đoái.  Bên cạnh đó, nếu trạng thái ngoại hối của ngân hàng không tốt, một mặt ngân hàng sẽ không đáp ứng được nhu cầu mua ngoại tệ của khách hàng, mặt khác bản thân ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn trong quá trình thanh toán cho ngân hàng. Thiệt hại xảy ra có thể về mặt tài chính vì ngân hàng phải đi vay ngoại tệ của ngân hàng khác, 15 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ nhưng đồng thời cũng ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng trong hoạt động thanh toán nói riêng, hoạt động ngân hàng nói chung. Cụ thể là trường hợp xảy ra đối với Petrolimex Hà Nội. Trong quá trình thanh toán, VCB đã cố gắng cung cấp ngoại tệ để thanh toán các L/C đến hạn. Tuy nhiên có một vài trường hợp khi đến hạn thanh toán, ngân hàng đã không thể thanh toán được như kế hoạch vì khi đó Petrolimex Hà Nội không kịp chuẩn bị tiền VND hoặc ngân hàng chưa có đủ ngoại tệ để bán. Kết quả chúng ta đã bị ngân hàng nước ngoài phạt. Petrolimex Hà Nội khi đó không những không quan tâm mà còn đổ lỗi cho ngân hàng vì không chuẩn bị đủ ngoại tệ để bán cho họ. Như vậy, Vietcombank vừa bị mang tiếng với ngân hàng nước ngoài vừa có trục trặc trong quan hệ với khách hàng. 2.4. Rủi ro đạo đức Rủi ro đạo đức là những rủi ro xảy ra khi một bên tham gia phương thức L/C cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, gây thiệt hại đến quyền lợi của một bên hoặc các bên còn lại. Trong phương thức thanh toán L/C, dù quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia được quy định rõ ràng. Song không phải lúc nào những nguyên tắc đó cũng được tôn trọng. Rủi ro đạo đức có thể xảy ra khi:  Người xuất khẩu có nghĩa vụ phải giao hàng đúng theo hợp đồng, theo đúng L/C nhưng anh ta không giao hàng hoặc giao hàng không đúng, không đủ nhưng lại xuất trình được bộ chứng từ hoàn hảo. Cũng có thể người bán không giao hàng vì muốn tăng giá, dẫn đến làm chậm trễ việc giao hàng... Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến người mua và đồng thời cũng có ảnh hưởng gián tiếp đến ngân hàng. Nếu người mua gặp rủi ro thì khả năng anh ta thanh toán lại tiền cho ngân hàng là rất khó. Do đó ngân hàng có thể sẽ bị chậm trễ trong việc thu hồi tiền từ người mua, thậm chí nghiêm trọng hơn là sẽ không được người mua thanh toán. Người nhập khẩu có nghĩa vụ trả tiền cho ngân hàng mở L/C nhưng anh ta có thể cố tình trì hoãn hoặc từ chối thanh toán, từ chối nhận hàng bằng những thủ đoạn nghiệp vụ bắt lỗi sai sót chứng từ hoặc phát hành thư tín dụng giả mạo bởi một ngân hàng “ma”. 16 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ  Người bán giao hàng cho nhà chuyên chở, nhưng bị họ lừa đảo nhận hàng, lấy tiền cước rồi biến mất, hoặc có tìm thấy tàu nhưng hàng thì không còn. Trong trường hợp này, nếu nhà xuất khẩu vẫn xuất trình được bộ chứng từ hợp lệ thì ngân hàng phát hành vẫn buộc phải thanh toán, nhưng thực tế thì nhà nhập khẩu lại không nhận được hàng nên họ sẽ từ chối thanh toán, khi đó rủi ro xảy ra đối với ngân hàng thanh toán (ngân hàng mở L/C) là điều chắc chắn.  Trong nhiều trường hợp các ngân hàng phát hành có thể cũng vi phạm những cam kết của mình như trì hoãn, hoặc từ chối thanh toán, đứng về phía người mua để gây khó khăn cho quá trình thanh toán. Điều này sẽ gây rủi ro đối với người bán, ngân hàng xác nhận và ngân hàng chiết khấu. Ngược lại, nếu ngân hàng chiết khấu không trung thực, bộ chứng từ có sai sót mà vẫn đòi tiền bằng điện thì sẽ gây rủi ro cho nhà nhập khẩu và ngân hàng phát hành. Ví dụ: Có khách hàng yêu cầu VCB phát hành bảo lãnh nhận hàng và chấp nhận thanh toán kể cả khi chứng từ có sai sót, nhưng khi có sai sót lại yêu cầu ngân hàng không thanh toán. Có trường hợp khách hàng không chịu thanh toán phần còn lại của lô hàng để răn đe nhà cung cấp mặc dù công trình đã được nghiệm thu, bất chấp thông lệ quốc tế. Với những khách hàng như thế Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn để giữ uy tín của mình. Một số khách hàng nhập khẩu vì lợi ích riêng của doanh nghiệp đã bội ước với ngân hàng, trây ỳ trong thanh toán. Hàng đã bán hết nhưng không trả tiền cho ngân hàng mà mang tiền bán hàng sử dụng vào mục đích khác. Đến khi làm ăn thua lỗ lại không thực hiện được cam kết với ngân hàng. Đó là trường hợp của công ty trách nhiệm hữu hạn Đức Phương, công ty Hưng Thịnh Vũng Tàu... 2.5. Các rủi ro khác. Ngoài những rủi ro kể trên, hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ cũng như các hoạt động khác của ngân hàng còn có thể gặp một số loại rủi ro khác như bất khả kháng (như thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh..) và các rủi ro do 1 trong các bên phá sản mất khả năng thanh toán làm cho các bên tham gia gặp phải thiệt hại với hậu quả khôn lường. 17 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ (1) Rủi ro xảy ra đối với người nhập khẩu còn có thể do nguyên nhân khi ngân hàng phát hành đứng trước tình trạng mất khả năng thanh toán. Trong trường hợp này, mức độ thiệt hại của người mua phụ thuộc vào số tiền ký quỹ. (2) Rủi ro do nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản: Đây là loại rủi ro gây thiệt hại nặng nề nhất cho ngân hàng mở thư tín dụng, bởi vì ngân hàng buộc phải thanh toán cho người bán trong khi không thể thu hồi được vốn lại từ phía người mua. (3) Rủi ro đối với ngân hàng chiết khấu hoặc ngân hàng xác nhận hoặc bên nhập khẩu khi ngân hàng phát hành bị phá sản: rủi ro này ít khi xảy ra nhưng không phải là không có, sự kiện sụp đổ của ngân hàng Bearing của Anh tháng 2 năm 1995 là minh chứng cho sự rủi ro loại này. (4) Trong điều 36 UCP 600 quy định: “ Ngân hàng không có nghĩa vụ hoặc trách nhiệm đối với các hậu quả phát sinh ra tự sự gián đoạn hoạt động kinh doanh của mình do thiên tai, bạo động, dân biến, nổi dậy… hoặc bất cứ nguyên nhân nào khác nằm ngoài sự kiểm soát của họ. Khi bắt đầu kinh doanh trở lại, ngân hàng không phải thanh toán hoặc thương lượng thanh toán theo tín dụng mà tín dụng này đã hết hạn trong lúc kinh doanh của ngân hàng bị gián đoạn”. Rõ ràng khi có bất khả kháng xảy ra, nếu người Nhập khẩu hoặc ngân hàng chiếu khấu chưa kịp được chấp nhận thanh toán thì chính họ sẽ là những người bị thiệt hại. 3.Nguyên nhân 3.1. Đối với rủi ro kỹ thuật Nguyên nhân của rủi ro kỹ thuật chủ yếu là do trình độ nghiệp vụ ngoại thương và thanh toán xuất nhập khẩu của các bên tham gia còn yếu nên chưa nắm bắt được các yêu cầu của L/C. Điều này dẫn đến những sai sót trong quá trình lập chứng từ và thanh toán. 18 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ Một nguyên nhân không thể không nhắc đến là từ phía ngân hàng mở L/C. Việc mở L/C quy định quá nhiều các điều kiện, khoản mục sẽ gây khó khăn cho người bán. Để khắc phục nguyên nhân này, với người bán, phải nâng cao trình độ nghiệp vụ, thận trọng trong việc giao hàng, lập chứng từ. Với các ngân hàng phải thận trọng trong các nghiệp vụ của mình. Đặc biệt là các ngân hàng mở L/C, chỉ nên đưa những quy định quan trọng liên quan đến chất lượng, số lượng, tiêu chuẩn hàng hoá, ngày giao hàng…tránh việc đòi hỏi quá nhiều chứng từ và nhiều nội dung trong chứng từ. 3.2. Đối với rủi ro chính trị Nguyên nhân sâu xa của loại rủi ro này là môi trường pháp lý và luật pháp của các nước khác nhau. Nếu có sự khác biệt, thậm chí đối nghịch giữa UCP600 và luật pháp quốc gia thì luật quốc gia sẽ vượt lên trên tất cả và phải được tuân thủ. Do đó trong nhiều trường hợp, quyết định của toà án địa phương mới là quyết định cuối cùng. Điều đáng nói ở đây là luật pháp ở một số nước cho phép toà án của họ áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo sự an toàn trong thanh toán xuất nhập khẩu, bất kể quy định đó trái ngược với UCP600. Chính vì vậy rủi ro về vấn đề pháp lý đối với thanh toán tín dụng chứng từ thường rất khó lường. Ngoài ra cũng cần quan tâm tới tình hình kinh tế của một quốc gia. Đó là những vấn đề như: Nợ nước ngoài, dự trữ ngoại hối và cán cân thanh toán của một quốc gia, sự cấm vận kinh tế, chính sách quản lý ngoại hối, chính sách thương mại và các quy định về xuất nhập khẩu của mỗi quốc gia,…Nếu nợ nước ngoài của quốc gia quá lớn thì một số biện pháp như tăng thuế, phá giá đồng nội tệ sẽ được áp dụng và như vậy nó sẽ có ảnh hưởng đến khả năng chi trả của người mua; người mua có thể sẽ không đủ khả năng chi trả và ngân hàng có nguy cơ gặp rủi ro do không đòi được tiền. Các biến động kinh tế - chính trị - xã hội dù trực tiếp hay gián tiếp, tức thì hay lâu dài, đều gây ra những ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của ngân hàng và khách hàng. Và vì vậy, rủi ro quốc gia luôn là mối đe doạ tới hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng, trong đó có hoạt động thanh toán L/C. 3.3. Đối với rủi ro ngoại hối Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải đối mặt với rủi ro ngoại hối trong trường hợp tỷ giá hối đoái biến động hay trạng thái ngoại hối của ngân hàng không tốt. Những tình huống này nếu xảy ra không chỉ gây thiệt hại cho ngân 19 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ hàng về mặt tài chính mà còn ảnh hưởng tới uy tín của Ngân hàng trong hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung. 3.4. Đối với rủi ro đạo đức Nguyên nhân sâu xa của vấn đề rủi ro đạo đức đó là vấn đề thông tin không đầy đủ và thiếu chính xác. Đó là việc các bên tham gia không có đầy đủ những thông tin cần thiết về khả năng tài chính, về tình hình hoạt động kinh doanh cũng như về uy tín và tính trung thực của đối tác, hoặc được cung cấp các thông tin không chính xác...Vì vậy mà đưa ra những phán đoán và quyết định sai lầm gây nên rủi ro trong thanh toán. Ngoài ra còn do việc thanh toán L/C chỉ dựa trên bề mặt của chứng từ, không căn cứ vào thực trạng của hàng hoá, nên đã tạo khe hở cho một số cá nhân lừa đảo. Để hạn chế rủi ro đạo đức, vấn đề cốt lõi là phải khắc phục tình trạng thông tin không cân xứng. Đứng ở góc độ ngân hàng phải tiến hành điều tra thu thập các thông tin chính xác về khách hàng của mình cũng như thông tin về các ngân hàng có liên quan như tình hình tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng và mối quan hệ của họ với các ngân hàng khác...từ đó mới có thể có được những khách hàng tốt nhằm hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra. Phần III: Một số giải pháp kiến nghị nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ 1. Một số kiến nghị đối với Nhà nước Với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước ngày càng được khẳng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan