CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN THUỘC NỘI DUNG KIỂM TOÁN
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
BÀI 3
CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN THUỘC NỘI DUNG KIỂM TOÁN
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu:
Giáo trình Lý thuyết kiểm toán – NXB Tài chính – GS.TS. Nguyễn Quang Quynh và
PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa.
Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc
qua email.
Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học.
Nội dung
Gian lận và sai sót với việc xác định nội dung kiểm toán.
Trọng yếu và rủi ro kiểm toán với việc lựa chọn nội dung kiểm toán cụ thể.
Chứng từ kiểm toán, cơ sở dẫn liệu, bằng chứng kiểm toán và hồ sơ kiểm toán.
Mục tiêu
Chương này nghiên cứu các khái niệm cơ bản của nội dung kiểm toán như gian lận và sai
sót, trọng yếu và rủi ro kiểm toán, chứng từ kiểm toán, bằng chứng kiểm toán và hồ sơ kiểm
toán và hiểu rõ mối quan hệ giữa các cặp khái niệm.
38
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
Tình huống dẫn nhập
Năm 2002, Công ty viễn thông đường dài lớn thứ hai Hoa Kỳ WorldCom đã bị phát hiện
che dấu 3,8 tỷ USD chi phí nhằm khai khống lợi nhuận 1,4 tỷ với mục đích tăng giá trị cổ phiếu
của công ty trên thị trường chứng khoán.
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Tình huống trên là hành vi gian lận hay sai sót?
Nguyên nhân nào dẫn đến hành vi trên?
Trách nhiệm của kiểm toán viên trong phát hiện các sai phạm trên như thế nào?
Các sai phạm trên có phải là sai phạm trọng yếu hay không?
Các sai phạm trên ảnh hưởng tới các loại cơ sở dẫn liệu nào?
Các sai phạm trên trình bày trên hồ sơ kiểm toán nào?
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
39
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
3.1.
Gian lận và sai sót với việc xác định nội dung kiểm toán
3.1.1.
Khái niệm về gian lận và sai sót – Mối quan hệ giữa gian lận và sai sót
3.1.1.1.
Gian lận
Khái niệm
o Gian lận là hành vi cố ý lừa dối, giấu diếm,
xuyên tạc sự thật với mục đích tư lợi.
o Trong lĩnh vực tài chính kế toán, gian lận là
hành vi cố ý do một hay nhiều người trong
Ban quản trị, Ban Giám đốc, các nhân viên
hoặc bên thứ ba thực hiện bằng các hành vi
gian dối để thu lợi bất chính hoặc bất hợp
pháp (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 230 “Trách nhiệm của kiểm toán
viên liên quan đến gian lận trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính”).
Các hình thức biểu hiện
o Lập báo cáo tài chính gian lận có thể được thực hiện thông qua các hành vi như
xuyên tạc, làm giả hoặc sửa đổi chứng từ, sổ kế toán có các nội dung, số liệu
liên quan lập báo cáo tài chính (ví dụ như mua hóa đơn giá trị gia tăng nhằm
hợp thức hóa các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, làm hồ sơ giả mạo để xin hoàn
thuế), làm sai lệch hoặc cố tình bỏ sót các thông tin trình bày trong báo cáo tài
chính (ví dụ như cố tình bỏ sót các nghiệp vụ liên quan đến doanh thu hoặc chi
phí để nhằm trốn thuế. Cụ thể, công ty Viễn thông điện lực bán hàng không
xuất hóa đơn, không phản ánh vào sổ sách kế toán trốn thuế 37 tỷ đồng nhằm
mục đích trốn thuế thu nhập doanh nghiệp) hoặc ghi chép các nghiệp vụ không
có thật trên báo cáo tài chính (ví dụ như khai khống doanh thu hoặc chi phí), cố ý
áp dụng sai các nguyên tắc kế toán có liên quan đến các số liệu, sự phân loại,
cách thức trình bày hoặc thuyết minh, (ví dụ 1 số đơn vị phản ánh chi phí sửa
chữa lớn tài sản cố định thì hạch toán vào sửa chữa nâng cấp tài sản cố định nhằm
mục đích tăng quy mô tài sản của đơn vị và tăng thời gian phân bổ chi phí)...
o Hành vi biển thủ tài sản có thể được thực hiện theo nhiều dạng khác nhau như
biển thủ các khoản phải thu, lấy cắp tài sản vật chất hoặc tài sản trí tuệ (ví dụ
lấy cắp hàng tồn kho, tiền mặt, bán tài liệu kỹ thuật cho đối thủ cạnh tranh),
dùng tài sản của đơn vị để đem lại lợi ích cá nhân (Ví dụ: dùng xe công cho
mục đích cá nhân, hoặc sử dụng đất sai mục đích như cho thuê để tăng thu
nhập phổ biến các doanh nghiệp Nhà nước…), tạo khách hàng ảo để đơn vị
thanh toán tiền hàng hoặc dịch vụ mà đơn vị không nhận được (Ví dụ: thanh
toán cho người bán không có thật, thanh toán cho người bán với giá trị cao hơn
giá trị thực của giao dịch phát sinh để cá nhân được hưởng hoa hồng chênh
lệch giá,…).
Nguyên nhân dẫn đến hành vi gian lận
Phụ thuộc vào ba yếu tố như động cơ hoặc áp lực, cơ hội, và thiếu tính liêm khiết.
o Động cơ hoặc áp lực thực hiện hành vi gian lận: Động cơ hoặc áp lực thực
hiện hành vi gian lận xuất hiện từ phía cá nhân hoặc nhóm người thực hiện
40
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
o
o
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
hành vi gian lận hoặc bởi một người nào đó.
Chẳng hạn, do có nhu cầu về tiền để trang
trải một số khoản chi tiêu cá nhân như mua
xe hoặc mua nhà, hoặc muốn trở nên giàu
có nhanh, muốn nổi tiếng,… sẽ khiến con
người nảy sinh ý muốn gian lận hoặc ai đó
xúi giục hay tạo áp lực cho họ để thực hiện
hành vi gian lận. Trong doanh nghiệp, động
cơ hoặc áp lực thực hiện hành vi gian lận như áp lực cao với Ban Giám đốc
nhằm đạt được kỳ vọng của các bên thứ 3 như muốn huy động thêm vốn để
đầu tư kinh doanh, đáp ứng yêu cầu về niêm yết hoặc thanh toán các khoản
công nợ đến hạn thanh toán,… hoặc áp lực cao đối với Ban Giám đốc đạt được
mục tiêu tài chính do Hội đồng quản trị đặt ra bao gồm chính sách khen thưởng
theo doanh thu hoặc tỷ suất lợi nhuận,…
Cơ hội: Cơ hội chính là thời cơ để thực hiện hành vi gian lận. Sau đây là một
số ví dụ về cơ hội thuận lợi để thực hiện hành vi gian lận:
Hệ thống kiểm soát nội bộ kém hiệu lực như thiếu vắng các thủ tục kiểm
soát tại đơn vị, thiếu giám sát đối với các thủ tục kiểm soát,… Ví dụ, việc
kiểm kê và đối chiếu tài sản không đầy đủ và kịp thời, thiếu các biện pháp
bảo vệ tài sản trong đơn vị như tiền mặt, tài sản đầu tư, hàng tồn kho, tài
sản cố định,…
Sự giám sát hoạt động của Ban Giám đốc, Ban quản trị không hiệu quả do
sự độc quyền trong quản lý. Ví dụ: Phó giám đốc tài chính có thẩm quyền
trong các quyết định đầu tư mà không có bất cứ sự giám sát, kiểm tra nào từ
phía người khác.
Đặc điểm của ngành hoặc các hoạt động của đơn vị, cơ cấu tổ chức phức
tạp hoặc không ổn định,…như khó khăn không xác định bộ phận hoặc cá
nhân kiểm soát các hoạt động trong đơn vị, cơ cấu tổ chức quá phức tạp
hoặc thường xuyên thay đổi Ban quản trị hoặc Ban Giám đốc.
...
Thiếu liêm khiết (hoặc khả năng có thể biện minh cho hành vi gian lận): Thiếu
liêm khiết sẽ làm cho sự kết hợp giữa động cơ/áp lực và cơ hội biến thành hành
động gian lận. Thông thường, nếu giả sử có thực hiện hành vi gian lận thì hiếm
khi người gian lận lại thừa nhận rằng “tôi lấy tiền hôm nay là do tôi thiếu liêm
khiết”. Họ sẽ tìm các cách khác nhau để biện minh cho hành động của mình
với ngôn từ có thể chấp nhận được. Ví dụ: Ban Giám đốc tham vọng quá mức
trong việc duy trì hoặc gia tăng giá trị cổ phiếu, xu hướng thu nhập của doanh
nghiệp thì sẽ thực hiện điều chỉnh lợi nhuận tăng theo hướng có lợi cho doanh
nghiệp, hoặc Ban Giám đốc sử dụng các biện pháp không thích hợp để giảm lợi
nhuận báo cáo vì các lý do liên quan đến thuế,... hoặc đối với cá nhân trong
doanh nghiệp bất mãn hoặc không hài lòng với mức lương, khen thưởng hiện
có thì họ sẽ thực hiện hành vi gian lận để bù đắp vào sự thiếu hụt mà họ nghĩ
họ xứng đáng được hưởng,…
41
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
3.1.1.2.
Sai sót
Khái niệm
Sai sót là lỗi không cố ý, thường được hiểu là sự
nhầm lẫn, bỏ sót hoặc do yếu kém về năng lực
nên gây ra sai phạm.
Trong lĩnh vực kế toán tài chính, sai sót là sự
trình bày sai lệch không có chủ ý các thông tin
trên báo cáo tài chính do nhân viên thực hiện.
Các hình thức biểu hiện:
o Sai sót về số học như lỗi do cộng số học, tính toán sai, sai số trong chuyển sổ
(chuyển số liệu sai từ sổ chi tiết lên sổ tổng hợp).
o Vô tình bỏ sót các nghiệp vụ kinh tế phát sinh như vô tình bỏ sót nghiệp vụ chi
phí hoạt động hoặc doanh thu của đơn vị.
o Vô tình áp dụng sai nguyên tắc, chế độ kế toán tài chính như vô tình áp dụng
hạc toán sai những tài sản thuê hoạt động vào khoản mục tài sản thuê tài chính
do năng lực chuyên môn hạn chế của kế toán viên.
o ...
Nguyên nhân dẫn đến sai sót
o Năng lực hạn chế của nhân viên kế toán: Năng lực xử lý công việc yếu kém do
trình độ chuyên môn hạn chế vì nhân viên kế toán tích cực học hỏi nâng cao
trình độ chuyên môn và không cập nhật thường xuyên những thay đổi chế độ
kế toán và hệ thống văn bản pháp luật liên quan hoạt động của đơn vị được
kiểm toán.
o Sức ép công việc: Áp lực về thời gian cần hoàn thành công việc trong thời gian
ngắn hoặc hạn chế số lượng kế toán viên. Do đó, số lượng công việc quá nhiều
dẫn đến việc xử lý công việc quá tải dẫn đến sai sót dễ phát sinh. Ngoài ra sức ép
về tâm lý, áp lực về môi trường làm việc không thoải mái, mâu thuẫn nội bộ,…
o Lề lối làm việc cẩu thả, thiếu thận trọng, thiếu ý thức trách nhiệm sẽ làm sai sót
nảy sinh.
3.1.1.3.
Mối quan hệ giữa gian lận và sai sót
Giống nhau
o Đều là hành vi sai phạm.
o Trong lĩnh vực tài chính kế toán, đều làm lệch lạc thông tin, phản ánh sai thực tế.
o Bất cứ ai thực hiện hành vi gian lận và sai sót thì trách nhiệm luôn liên đới tới
nhà quản lý tài chính kế toán nói riêng và nhà quản lý nói chung.
Khác nhau
Tiêu chí
42
Gian lận
Sai sót
Ý thức
Hành vi cố ý
Hành vi không cố ý
Mức độ tinh vi
Tính toán kỹ lưỡng và che
giấu tinh vi khó phát hiện
Dễ phát hiện
Tính trọng yếu của sai phạm
Luôn xem là nghiêm trọng
Tùy thuộc vào quy mô và tính
chất của sai phạm
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
3.1.2.
Trách nhiệm của kiểm toán viên đối với gian lận và sai sót
Liệu kiểm toán viên có chịu trách nhiệm phát hiện toàn bộ gian lận và sai sót liên
quan đến đơn vị được kiểm toán hay không?
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 240, 450, 220, Giám đốc (hoặc người đứng đầu)
đơn vị được kiểm toán chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc ngăn ngừa, phát hiện và
xử lý các gian lận và sai sót trong đơn vị thông qua việc xây dựng và duy trì thường
xuyên hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ thích hợp.
Chuẩn mực cũng qui định kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải thiết lập các thủ
tục kiểm toán thích hợp nhằm bảo đảm các gian lận và sai sót có ảnh hưởng trọng
yếu đến báo cáo tài chính đều được phát hiện. Nếu ảnh hưởng có tính trọng yếu thì
cần sửa đổi hoặc bổ sung các thủ tục kiểm toán thích hợp.
Khi phát hiện có gian lận, hoặc có sai sót trọng yếu hay khi kiểm toán viên nghi ngờ
về khả năng gian lận, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải thông báo kịp thời cho
Giám đốc (hay người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán trong thời hạn nhanh nhất.
3.2.
Trọng yếu và rủi ro với việc lựa chọn nội dung kiểm toán cụ thể
Như đã trình bày tại phần 3.1.2. kiểm toán viên chịu trách nhiệm trong việc phát hiện
các gian lận và sai sót có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính. Do đó, sinh viên
cần hiểu thế nào là gian lận và sai sót có ảnh hưởng trọng yếu tới báo cáo tài chính của
đơn vị được kiểm toán. Nếu thực hiện kiểm toán phát hiện đơn vị được kiểm toán khai
khống doanh thu là 50.000 USD thì liệu sai phạm đó có được coi là trọng yếu hay
không? Để xác định sai phạm đó là trọng yếu hay không thì kiểm toán viên cần nắm
chắc khái niệm trọng yếu là gì?
3.2.1.
Khái niệm trọng yếu trong nội dung kiểm toán (Materiality)
"Trọng yếu, xét trong quan hệ với nội dung kiểm toán, là khái niệm chung chỉ rõ tầm
cỡ và tính hệ trọng của phần nội dung cơ bản của kiểm toán có ảnh hưởng tới tính
đúng đắn của việc nhận thức đối tượng kiểm toán và việc sử dụng thông tin đã đánh
giá đó để đưa ra quyết định quản lý".
Theo VSA 320, tính trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính, định nghĩa:
“Trọng yếu là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan
trọng của một thông tin (một số liệu kế toán) trong
báo cáo tài chính. Thông tin được coi là trọng yếu
có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hay thiếu sự
chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các
quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính”.
Từ hai khái niệm trên đều có thấy thông tin được
coi là trọng yếu khi tính đúng đắn hay tính thiếu
chính xác của thông tin đó khiến người sử dụng thông tin đưa ra quyết định sai lầm thì
được gọi là trọng yếu. Do đó, kiểm toán cần xác lập mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán
được thực hiện ngay từ giai đoạn đầu tiên của cuộc kiểm toán – giai đoạn lập kế hoạch
kiểm toán. Trên cơ sở thiết lập mức trọng yếu và đánh giá rủi ro kiểm toán, kiểm toán
viên có thể xác định được phạm vi kiểm toán hợp lý, cũng như nội dung và lịch trình
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
43
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
kiểm toán cụ thể. Chính vì thế việc thiết lập mức trọng yếu và đánh giá các loại rủi ro
trong kiểm toán cần phải được kiểm toán viên thực hiện một cách chi tiết và cẩn thận
ngay trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
Đối tượng kiểm toán là vấn đề rất rộng và trên thực tế không thể kiểm toán được tất cả
thông tin đã thu được và chưa thu được của hoạt động tài chính và hoạt động phải
kiểm toán. Do đó trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định được những
thông tin nào là trọng yếu để có thể giới hạn phạm vi kiểm toán của mình một cách
phù hợp. Tính trọng yếu của thông tin phải được xem xét trên cả phương diện định
lượng (quantitative) và định tính (qualitative). Dù là xem xét trên phương diện nào thì
trong các cuộc kiểm toán, mức trọng yếu vẫn được xác định chủ yếu dựa trên xét đoán
nghề nghiệp (professional judgment) của kiểm toán viên.
3.2.1.1.
Về mặt định lượng (Quantitative factors)
Khi xem xét dưới góc độ định lượng, mức trọng yếu của thông tin được biểu hiện
bằng một giá trị tiền tệ cụ thể. Mức trọng yếu về mặt định lượng được hiểu là giá trị
sai sót tối đa có thể chấp nhận được của thông tin, nghĩa là nếu sai sót vượt quá giá trị
đó sẽ dẫn đến các đánh giá/quyết định của người sử dụng thông tin báo cáo tài chính
bị ảnh hưởng.
Cụ thể, tính trọng yếu của đối tượng kiểm toán được thể hiện ở quy mô của đối tượng
kiểm toán, bao gồm quy mô tuyệt đối và quy mô tương đối, lũy kế của các sai phạm
với quy mô nhỏ.
Quy mô tuyệt đối
Kiểm toán viên sử dụng con số tuyệt đối để đánh giá tính trọng yếu. Một con số tuyệt
đối là số thể hiện mức quan trọng mà không cần cân nhắc thêm bất cứ một yếu tố nào
khác. Chẳng hạn, một vài Kiểm toán viên cho rằng “1 triệu USD hoặc một con số lớn
hơn thì luôn là con số trọng yếu, không cần quan tâm tới các vấn đề nào khác”. Song
rất ít khi Kiểm toán viên chỉ sử dụng con số tuyệt đối như một tiếu chuẩn để đánh giá
tính trọng yếu vì với một con số cụ thể, giả sử 50.000USD (như ví dụ), có thể là trọng
yếu đối với công ty này nhưng lại là quá nhỏ đối với một công ty khác.
Quy mô tương đối
Thông thường, Kiểm toán viên khi xem xét vấn đề quy mô của đối tượng kiểm toán
thì họ quan tâm tới quy mô tương đối. Quy mô tương đối là mối quan hệ tương quan
giữa đối tượng cần đánh giá với một số gốc. Số gốc thường khác nhau trong mỗi
tình huống.
Các hướng dẫn thiết lập mức trọng yếu cụ thể có thể được đưa ra bởi các công ty kiểm
toán độc lập, và ở các công ty kiểm toán khác nhau sẽ có thể có những hướng dẫn cụ
thể khác nhau. Nhưng nhìn chung, việc xác lập các mức trọng yếu trên thực tế trước
hết thường xác định mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính theo công thức:
Mức trọng yếu = Tiêu chí (hay con số gốc) × Tỷ lệ %
Xác định tiêu chí lựa chọn (Con số gốc)
Các tiêu chí (Con số gốc) phù hợp thông thường được lựa chọn như với Báo cáo
kết quả kinh doanh thì con gốc có thể là Lợi nhuận trước thuế; Tổng doanh thu;
44
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
Lợi nhuận gộp; Tổng chi phí; hoặc với Bảng cân đối kế toán thì con số gốc có thể
là Tổng vốn chủ sở hữu; Giá trị tài sản ròng, tổng tài sản ngắn hạn,…
Xác định tỷ lệ phần trăm
Tùy theo hướng dẫn cụ thể của các công ty kiểm toán độc lập khác nhau sẽ có cách
áp dụng tỷ lệ % cho từng tiêu chí lựa chọn khác nhau.
Ví dụ, theo hướng dẫn của VACPA, tỷ lệ sử dụng để ước tính mức trọng yếu.
Lợi nhuận trước thuế: 5% – 10%.
Doanh thu: 0,5% – 3%.
Tổng tài sản và vốn: 2%.
Lũy kế của các sai phạm có quy mô nhỏ
Ngoài ra, khi xem xét về quy mô của tính trọng yếu, Kiểm toán viên cần phải chú ý
không chỉ quy mô tuyệt đối hay quy mô tương đối mà còn phải cân nhắc cả sự ảnh
hưởng lũy kế của đội tượng xem xét. Chẳng hạn, có nhiều sai phạm khi xem xét chúng
một cách cô lập thì không đủ trọng yếu do quy mô nhỏ. Song nếu Kiểm toán viên
cộng dồn tất cả những sai phạm sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính hệ thống của sai
phạm và khi đó phát hiện tính trọng yếu của chúng.
3.2.1.2.
Về mặt định tính (Qualitative factors)
Ngoài việc xác định mức trọng yếu trên phương diện định lượng qua biểu hiện của giá
trị tiền tệ cụ thể của MTY, Kiểm toán viên sẽ cần phải sử dụng khả năng xét đoán
nghề nghiệp của mình để đưa ra kết luận về tính trọng yếu của đối tượng kiểm toán
bằng cách xem xét bản chất và mức độ ảnh hưởng của các khoản mục, các nghiệp vụ
đến kết luận kiểm toán, và với việc ra quyết định của người sử dụng thông tin đã được
kiểm toán.
Các hoạt động, khoản mục được xem là trọng yếu thường bao gồm:
(1) Các khoản mục, hoạt động có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận như:
Các hoạt động đấu thầu và giao thầu, giao dịch
không hợp pháp;
Các hoạt động thanh lý tài sản;
Các hoạt động về tiền mặt;
Các hoạt động mua bán và thanh toán;
Các hoạt động bất thường;
Các hoạt động phân chia quyền lợi;
Các hoạt động cố ý bỏ ngoài sổ sách;
Các hoạt động xảy ra vào cuối kỳ quyết toán hoặc thuộc loại hoạt động mới
phát sinh;
Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa.
(2) Các nghiệp vụ, khoản mục có sai sót hệ trọng:
Các hoạt động, khoản mục phát hiện có sai sót ở qui mô lớn hoặc có chênh lệch
lớn với các kỳ trước hoặc giữa các nguồn thông tin có liên quan;
Các hoạt động vi phạm quy tắc kế toán và pháp lý nói chung;
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
45
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
Các hoạt động, khoản mục có sai sót lặp lại nhiều lần;
Các hoạt động, khoản mục có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau;
Các hoạt động, khoản mục là đầu mối hoặc gây hậu quả liên quan đến nhiều hoạt
động, khoản mục khác.
Như vậy, khái niệm trọng yếu đã đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm toán với tính
nguyên tắc là không bỏ sót các hoạt động, khoản mục có quy mô lớn và có tính hệ trọng.
Vi phạm nguyên tắc này cũng có nghĩa là tạo ra rủi ro kiểm toán.
3.2.2.
Rủi ro kiểm toán (Audit Risk – AR)
Theo VSA 200, “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán
không phù hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn chứa đựng sai sót trọng
yếu. Rủi ro kiểm toán là hệ quả của rủi ro có sai sót trọng yếu (gồm rủi ro tiềm tàng,
rủi ro kiểm soát) và rủi ro phát hiện”.
Ví dụ: Kiểm toán viên đưa ra ý kiến rằng báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán
đã trình bày trung thực và hợp lý xét trên các khía cạnh trọng yếu. Tuy nhiên, trên
thực tế các báo cáo đã được kiểm toán vẫn tồn tại các sai phạm trọng yếu mà Kiểm
toán viên không phát hiện ra trong quá trình kiểm toán.
Rủi ro này luôn luôn có thể tồn tại, ngay cả khi cuộc kiểm toán được lập kế hoạch
chu đáo và thực hiện một cách thận trọng. Rủi ro này sẽ tăng lên nếu việc lập kế
hoạch kiểm toán kém và thực hiện thiếu thận trọng.
Trên thực tế, trong lĩnh vực nghề kiểm toán, không có một chuẩn mực chính thức
nào về mức rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận, loại trừ rằng rủi ro kiểm toán phải ở
mức thấp cho phép.
Trong thực tiễn, rủi ro kiểm toán thường xảy ra do giới hạn về quản lý, về kiểm
toán mà trực tiếp là chi phí kiểm toán (từ đó hạn chế về lượng bằng chứng thu
được). Trong mối quan hệ này, rủi ro kiểm toán và chi phí kiểm toán (bằng chứng
kiểm toán) có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau.
Do đối tượng kiểm toán là những thông tin được
kiểm toán qua nhiều giai đoạn nên rủi ro kiểm
toán cấu thành bởi rủi ro có sai phạm trọng yếu
(gồm rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát ) và rủi
ro phát hiện (theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
số 200).
Rủi ro có sai phạm trọng yếu là rủi ro khi báo cáo
tài chính chứa đựng những sai phạm trọng yếu
trước khi kiểm toán. Do đó, rủi ro có sai phạm trọng yếu bao gồm hai bộ phận: rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Nếu xem xét rủi ro có sai phạm trọng yếu thì dễ dàng
giúp kiểm toán viên xác định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục kiểm toán
cần thực hiện để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp. Do đó, kiểm toán
viên cần xem xét từng bộ phận cấu thành rủi ro có sai phạm trọng yếu như sau:
46
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
3.2.2.1.
Rủi ro tiềm tàng (Inherent Risk – IR)
Theo VSA 200, “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có, do khả năng cơ sở dẫn liệu
của một nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh có thể chứa đựng
sai sót trọng yếu, khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, trước khi xem xét đến bất kỳ kiểm
soát nào có liên quan”.
Như vậy, rủi ro tiềm tàng là khả năng có thể có những sai lệch trọng yếu trong báo cáo
tài chính bắt nguồn từ hoạt động hay môi trường kinh doanh, hoặc do bản chất của
khoản mục hay nghiệp vụ, trước khi xem xét đến tính hữu hiệu của hệ thống kiểm soát
nội bộ. Kiểm toán viên không tạo ra và cũng không kiểm soát rủi ro tiềm tàng, họ chỉ
có thể đánh giá chúng.
Ví dụ, trong kiểm toán tài chính một số nhân tố tác động tới rủi ro tiềm tàng như sau:
Để đánh giá rủi ro tiềm tàng, Kiểm toán viên có thể xem xét 2 nhóm nhân tố
chính sau:
(1) Trên phương diện báo cáo tài chính (Financial Statement level)
o Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của ban giám đốc cũng như sự thay đổi
thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán;
o Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân viên kế
toán chủ yếu, của Kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi của họ (nếu có);
o Những áp lực bất thường đối với ban giám đốc, đối với kế toán trưởng, nhất là
những hoàn cảnh thúc đẩy ban giám đốc, Kế toán trưởng phải trình bày báo cáo
tài chính không trung thực;
o Đặc điểm hoạt động của đơn vị, như: Quy trình công nghệ, cơ cấu vốn, các đơn
vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, tính thời vụ của hoạt động;
o Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của đơn vị, như: các biến động về kinh
tế, về cạnh tranh, sự thay đổi về thị trường mua, thị trường bán và sự thay đổi
của hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị.
(2) Trên phương diện số dư Tài khoản và loại nghiệp vụ (Assertion level)
o Báo cáo tài chính có thể chứa đựng những sai sót, như:
Báo cáo tài chính có những điều chỉnh
liên quan đến niên độ trước: Các sai
phạm được phát hiện ở cuộc kiểm toán
của năm trước rất có khả năng sẽ lặp lại
trong cuộc kiểm toán năm nay, bởi vì
nhiều loại sai phạm về bản chất mang
tính hệ thống, và nhiều doanh nghiệp
chậm trễ trong việc thay đổi để loại bỏ chúng. Nếu năm trước Kiểm toán
viên tìm thấy một số lượng lớn các sai phạm trong định giá hàng tồn kho,
Kiểm toán viên trong năm hiện tại sẽ rất có thể đánh giá IR cao và ngược lại;
Báo cáo tài chính có nhiều ước tính kế toán, hoặc trong năm tài chính có sự
thay đổi chính sách kế toán.
-
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
Việc xác định số dư và số phát sinh của các tài khoản và nghiệp vụ kinh
tế như: Nhiều số dư tài khoản cần được ước tính và cân nhắc cẩn thận
47
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
trước khi ghi nhận, chắng hạn như các khoản đầu tư được phản ánh theo
giá hợp lý, các khoản dự phòng cho các khoản phải thu có thể không
thu hồi được và hàng tồn kho đã lỗi thời/quá hạn, dự phòng các khoản
chi cho bảo hành sản phẩm, dự phòng rủi ro vay ngân hàng.
3.2.2.2.
-
Mức độ về bị mất mát, biển thủ tài sản như: phát sinh nhiều nghiệp vụ
thu, chi tiền mặt, tạm ứng tiền với số lượng lớn, thời gian thanh toán dài...;
-
Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp, đặc biệt là gần thời
điểm kết thúc niên độ;
-
…
Rủi ro Kiểm soát (Control Risk – CR)
Theo VSA 200, “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu, khi xét riêng lẻ
hay tổng hợp lại, đối với cơ sở dẫn liệu của một nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay
thông tin thuyết minh mà kiểm soát nội bộ của đơn vị không thể ngăn chặn hoặc
không phát hiện và sửa chữa kịp thời”.
Như vậy rủi ro kiểm soát là khả năng có sai sót nghiêm trọng hoặc những điểm bất
thường mà hệ thống kiểm soát nội bộ không phát hiện, hoặc không ngăn chặn được.
Chẳng hạn, một hệ thống kiểm soát nội bộ tốt vẫn dễ gặp sai sót khi hệ thống được
xây dựng quá phức tạp, lại luân chuyển nhân sự quá nhiều, hoặc thiếu đào tạo nhân
viên... Kiểm toán viên chỉ có thể đánh giá được rủi ro kiểm soát thông qua việc đánh
giá tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ (được nghiên cứu trong chương 3 –
Kiểm toán tài chính) mà kiểm toán viên không thể tạo ra rủi ro kiểm soát.
3.2.2.3.
Rủi ro phát hiện (Detection Risk – DR)
Theo VSA 200, “Rủi ro phát hiện là rủi ro mà trong
quá trình kiểm toán, các thủ tục mà kiểm toán viên
thực hiện nhằm làm giảm rủi ro kiểm toán xuống tới
mức thấp có thể chấp nhận được nhưng vẫn không
phát hiện được hết các sai sót trọng yếu khi xét
riêng lẻ hoặc tổng hợp lại”.
Như vậy, rủi ro phát hiện là khả năng khi đã áp
dụng những thủ tục kiểm toán nhưng Kiểm toán
viên vẫn không phát hiện được các sai lệch trọng yếu của báo cáo tài chính.
Ngược lại với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, Kiểm toán viên và công ty kiểm
toán phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán
nhằm quản lý và kiểm soát đối với rủi ro phát hiện. Rủi ro phát hiện liên quan đến
trách nhiệm của Kiểm toán viên và công ty kiểm toán. Tùy theo tình hình của đơn vị,
Kiểm toán viên sẽ tăng giảm công việc kiểm toán của mình để đạt được mục đích cuối
cùng là rủi ro kiểm toán được giảm xuống thấp đến mức thấp chấp nhận được với chi
phí hợp lý.
Cần nhận thức rằng rủi ro phát hiện vẫn có thể xảy ra dù đã kiểm tra 100% số dư và
nghiệp vụ, vì có thể Kiểm toán viên đã chọn lựa và áp dụng phương pháp kiểm toán
48
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
không phù hợp, hoặc giải thích sai hoặc nhận định sai về kết quả kiểm tra. Thí dụ như
do Kiểm toán viên thiếu kiểm tra thông tin của các trợ lý thu thập, nên tổng hợp và
nhận định sai, hoặc kiểm toán viên thực hiện các thủ tục kiểm toán không thích hợp.
Ví dụ để xác minh mục tiêu kiểm toán về quyền và nghĩa vụ đối với hàng tồn kho mà
kiểm toán viên chỉ thực hiện phương pháp kiểm kê cho rằng hàng tồn kho thực sự tồn
tại và cho rằng đều là tài sản thuộc quyền sở hữu của đơn vị mà không làm thêm bất
cứ thủ tục kiểm toán nào bổ sung.
3.2.2.4.
Mô hình rủi ro Kiểm toán
Để trợ giúp cho việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa các loại rủi ro, các chuẩn mực
kiểm toán đưa ra những mô hình rủi ro. Vào đầu thập niên 1980, chuẩn mực kiểm toán
của một số quốc gia đã thiết lập mô hình rủi ro kiểm toán và biểu thị bởi công thức
sau đây:
AR = IR × CR × DR
hoặc
DR = AR/ (IR × CR)
Khi IR và CR cao, mức độ DR có thể chấp nhận được cần phải ở mức thấp, để khống
chế AR vẫn ở mức chấp nhận được. Còn ngược lại khi IR và CR thấp, Kiểm toán viên
có thể chấp nhận DR ở mức cao, nhưng vẫn giới hạn được AR ở mức mong muốn.
Các lưu ý:
Tuy được biểu thị bằng công thức, nhưng cần nhận thức rằng đây không phải là
một công thức toán học thuần túy, mà nó được dùng để trợ giúp cho Kiểm toán
viên khi phán đoán và xác định mức độ sai phạm có thể chấp nhận được để làm cơ
sở thiết kế các thủ thục kiểm toán (audit procedures) và điều hành cuộc kiểm toán.
Ví dụ sau sẽ minh họa cho ý kiến trên:
Giả sử trong kế hoạch, Kiểm toán viên đánh giá các rủi ro như sau:
AR = 5%; IR = 75%; CR = 30% DR = 5%/ (75% × 30%) = 22%
Sau khi thực hiện thử nghiệm kiểm soát (test of control), Kiểm toán viên thu thập
được bằng chứng cho thấy kiểm soát nội bộ không hữu hiệu như đánh giá ban đầu,
nên Kiểm toán viên đánh giá lại CR cao hơn, ví dụ là CR = 50%. Vì thế rủi ro phát
hiện DR được tính lại như sau:
DR = 5%/ (75% × 50%) = 13%
Nói cách khác, do kiểm soát nội bộ yếu kém hơn ước tính ban đầu, nên Kiểm toán
viên phải điều chỉnh giữa mức rủi ro phát hiện DR và tăng cường kiểm tra để thu
thập thêm bằng chứng kiểm toán.
Ngoài ra, khi sử dụng mô hình rủi ro này Kiểm toán viên cần chú ý một số
điểm sau:
o
Kiểm toán viên không thể giả sử rằng IR = 0 để không cần đến các bước thu
thập bằng chứng kiểm toán: AR = IR (= 0) × CR × DR = 0
o
Kiểm toán viên không thể đặt niềm tin tuyệt đối vào hệ thống kiểm soát nội bộ
và cho rằng CR = 0 để không cần đến các bước thu thập bằng chứng kiểm toán:
AR = IR × CR (= 0) × DR = 0
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
49
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
o
Kiểm toán viên không thể được xem là đã thận trọng nghề nghiệp thích đáng
nếu như rủi ro của việc không phát hiện các sai phạm trọng yếu trong đối tượng
kiểm toán ở mức quá cao, ví dụ:
AR = IR (= 80%) × CR (= 80%) × DR (= 50%) = 32%
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro được xác lập bằng một bảng dưới dạng ma trận nhằm
xác định rủi ro phát hiện DR như sau:
Đánh giá của Kiểm toán viên về rủi ro kiểm soát CR
Cao
Đánh giá của Kiểm
toán viên về rủi ro
tiềm tàng IR
Trung bình
Thấp
Cao
Tối thiểu
Thấp
Trung bình
Trung bình
Thấp
Trung bình
Cao
Thấp
Trung bình
Cao
Tối đa
Trong bảng trên, rủi ro phát hiện DR (in nghiêng đậm, highlight) được XĐ căn cứ vào
mức IR và CR tương ứng. Ví dụ, do mức IR được đánh giá là cao, nhưng CR lại thấp
nên DR sẽ ở mức trung bình. DR luôn tỷ lệ nghịch với CR và IR.
Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và tính trọng yếu
Trong một cuộc kiểm toán, rủi ro kiểm toán AR và mức trọng yếu có mối quan hệ tỷ
lệ nghịch với nhau: mức độ trọng yếu càng cao, rủi ro kiểm toán AR càng thấp và
ngược lại.
3.3.
Chứng từ kiểm toán, cơ sở dẫn liệu, bằng chứng kiểm toán và hồ sơ kiểm toán
3.3.1.
Chứng từ kiểm toán
Khái niệm
Chứng từ kiểm toán là nguồn tư liệu sẵn có cung cấp cho kiểm toán viên.
Hình thức của chứng từ kiểm toán
Bao gồm:
o Các tài liệu kế toán:
Chứng từ kế toán;
Các bảng kê, bảng tổng hợp chứng từ gốc;
Các sổ tổng hợp và chi tiết kế toán;
Các bảng cân đối – tổng hợp kế toán.
o Các tài liệu khác:
Tài liệu hạch toán ban đầu (các phiếu theo dõi lao động, thiết bị, hợp đồng,…);
Các biên bản xử lý vi phạm hợp đồng và vi phạm khác;
Các đơn từ khiếu tố,…
3.3.2.
Cơ sở dẫn liệu với việc xác định mục tiêu kiểm toán
Cơ sở dẫn liệu là các khẳng định của Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán một cách
trực tiếp hoặc dưới hình thức khác về các khoản mục thông tin trình bày trên báo cáo
tài chính và được kiểm toán viên sử dụng để xem xét các loại sai phạm có thể xảy ra
50
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
(Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 315 “Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng
yếu thông qua hiểu biết về đơn vị được kiểm toán và môi trường đơn vị”).
Các cơ sở dẫn liệu có liên quan trực tiếp với các
nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận rộng rãi
(GAAP). Các cơ sở dẫn liệu này được ban quản lý
sử dụng như một phần của các chuẩn mực trong
việc trình bày và báo cáo các thông tin kế toán trên
các báo cáo tài chính. Do vậy kiểm toán viên cần
phải hiểu được các cơ sở dẫn liệu đó để thực hiện
các cuộc kiểm toán một cách thích đáng.
Trong kiểm toán tài chính, tuỳ thuộc vào các phương pháp thu thập bằng chứng khác
nhau (phương pháp tuân thủ và phương pháp cơ bản) sẽ có nhóm các cơ sở dẫn liệu
khác nhau.
Khi thu thập bằng chứng theo phương pháp tuân thủ, kiểm toán có các cơ sở dẫn
liệu sau đây: (thường cam kết của nhà quản lý về hệ thống kiểm soát nội bộ)
Sự hiện diện: Qui chế kiểm soát có tồn tại.
Tính liên tục: Các qui chế kiểm toán hoạt động liên tục trong kỳ của báo cáo tài
chính đã lập.
Tính hữu hiệu: Qui chế kiểm soát đang hoạt động có hiệu lực.
Ví dụ, Kiểm toán viên cần xác minh sự tồn tại và hiệu lực của thủ tục kiếm soát đối
với hoạt động chi tiền mặt. Theo phương pháp tuân thủ, nhà quản lý cam kết về 3 cơ
sở dẫn liệu:
Sự hiện diện (hay tồn tại) của các quy chế kiểm soát đối với hoạt động chi tiền như
sự phân cấp phê duyệt mức chi tiền mặt tương ứng trách nhiệm từng bộ phận khác
nhau như kế toán trưởng, giám đốc tài chính, tổng giám đốc, chức năng nhiệm vụ
từng người liên quan hoạt động chi tiền như thủ quỹ, kế toán thanh toán,...
Tính liên tục của các quy chế kiểm soát có tồn tại đối với các hoạt động chi tiền
mặt. Nhà quản lý cam kết các phiếu chi có đầy đủ các chữ ký của những người có
thẩm quyền tương ứng với cấp phê duyệt và mức chi như giám đốc đơn vị, kế toán
trưởng, và chữ ký trên chứng từ có phản ánh đúng chức năng nhiệm vụ của từng
bộ phận liên quan hoạt động chi tiền hay không?
Tính hữu hiệu của quy chế kiểm soát được tuân thủ đúng theo những quy định
kiếm soát hoạt động chi?
Khi thu thập bằng chứng kiểm toán theo phương pháp cơ bản, các cơ sở dẫn liệu
được phân ra làm sáu nhóm cơ bản sau đây:
Sự hiện hữu (phát sinh)
Mục tiêu kiểm toán liên quan tới cơ sở dẫn liệu về sự hiện hữu hoặc phát sinh là
nhằm thu thập các bằng chứng để khẳng định rằng các tài sản, công nợ, và vốn chủ
sở hữu thực sự tồn tại và các hoạt động tạo ra doanh thu, chi phí đã thực sự phát
sinh. Do đó, kiểm toán viên có thể các thủ tục kiểm toán xác minh tính có thật của
thông tin (tài sản, công nợ và vốn chủ sở hữu không được khai khống) như thực
hiện kiểm kê quỹ tiền mặt để xác minh số dư tiền mặt với số tiền được phản ánh
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
51
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
trên sổ quỹ là trùng khớp và số tiền tồn quỹ thực sự tồn tại hoặc gửi thư xác nhận
các khoản phải thu, tiền gửi ngân hàng,... nhằm xác định xem liệu các khoản phải thu
và tiền gửi ngân hàng và các tài sản khác có thực sự hiện đang tồn tại hay không?
Tính trọn vẹn (tính đầy đủ)
Mục tiêu kiểm toán liên quan tới cơ sở dẫn liệu về tính trọn vẹn là thu thập các
bằng chứng nhằm khẳng định tất cả tài sản, các khoản nợ, hoạt động hay giao dịch
đã xảy ra có liên quan đến báo cáo tài chính phải được ghi chép hết các sự kiện
liên quan hay nói cách khác đơn vị không được phép khai khống thông tin. Chẳng
hạn, mục tiêu của kiểm toán viên là thu thập bằng chứng kiểm toán để xác định
xem liệu tất cả các tài sản của đơn vị hoặc nghiệp vụ kinh tế phát sinh có được
phản ánh đầy đủ (không bỏ sót) trên báo cáo tài chính. Kiểm toán viên thường
kiểm tra các thông tin từ chứng từ lên sổ chi tiết và tổng hợp để xem xét các thông
tin đó có được khai báo đầy đủ hay không?
Quyền và nghĩa vụ
Mục tiêu kiểm toán liên quan tới cơ sở dẫn liệu quyền và nghĩa vụ là thu thập bằng
chứng kiểm toán để khẳng định số liệu được báo cáo là tài sản của công ty phải
thực sự phản ánh quyền sở hữu (về tài sản) của công ty và những công nợ của
công ty thì thực sự phản ánh nghĩa vụ của công ty. Khi xem xét về cơ sở dẫn liệu
này kiểm toán viên cần lưu ý về khái niệm quyền (Tài sản thực sự thuộc quyền sở
hữu hoặc kiểm soát lâu dài hay chỉ có quyền sử dụng), ví dụ cần phân biệt giữa tài
sản của đơn vị, tài sản thuê tài chính và tài sản đi thuê hoạt động. Tài sản thuê
hoạt động thì đơn vị chỉ có quyền sử dụng nên không được phản ánh trên BCĐKT
mà chỉ phản ánh các tài khoản ngoài Bảng và không tác động tới sự biến động của
tài sản trong đơn vị .
Tính giá và đo lường
Mục tiêu liên quan tới cơ sở dẫn liệu tính giá và
đo lường là thu thập bằng chứng kiểm toán để
xác định liệu các tài sản, công nợ được ghi chép
theo giá trị thích hợp trên cơ sở chuẩn mực và
chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp
nhận). Ví dụ, Kiểm toán viên xem xét xác định
các thành phần chi phí hình thành nên nguyên
giá tài sản cố định hay giá thực tế của vật tư
nhập kho có tuân thủ theo chuẩn mực và chế độ
kế toán hay không?
Trình bày và công bố
Kiểm toán viên cần xác định xem liệu các chính sách tài chính kế toán, các nguyên
tắc kế toán có được lựa chọn và áp dụng một cách hợp lý không và liệu các thông
tin cần khai báo có đầy đủ và thích đáng không. Cụ thể hơn nữa đối với cơ sở dẫn
liệu này là việc sắp xếp, phân loại, tổng hợp và trình bày các khoản mục trên
báo cáo tài chính có phù hợp với chuẩn mực kế toán, nguyên tắc kế toán hay
không. Ví dụ đơn vị hạch toán chi phí sửa chữa lớn ngoài kế hoạch vào chi phí
nâng cấp tài sản cố định.
52
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
Chính xác
Mục tiêu kiểm toán liên quan tới cơ sở dẫn liệu chính xác là thu thập bằng chứng
kiểm toán để khẳng định một nghiệp vụ hay một sự kiện được ghi chép theo đúng
giá trị, đúng về toán học, các phép tính cộng dồn và chuyển sổ là đúng. Cơ sở dẫn
liệu này kiểm toán viên chú ý tới tính đúng đắn về mặt số liệu khi kết chuyển giữa
chứng từ lên sổ chi tiết và sổ tổng hợp. Các số liệu khi kết chuyển phải trùng khớp
nhau. Hoặc số liệu tính toán về mặt số học như trên các chứng từ như hóa đơn giá
trị gia tăng,… hay tính toán các công thức như tính giá xuất kho hàng tồn kho,…
phản ánh đúng về giá xuất của hàng tồn kho.
3.3.3.
Bằng chứng kiểm toán
Trong tất cả các lĩnh vực khác nhau, bằng chứng là các minh chứng cho các kết luận.
Kiểm toán thực hiện chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến do đó vấn đề thu thập bằng
chứng hết sức quan trọng. Vậy bằng chứng kiểm toán là gì?
Khái niệm
o Bằng chứng kiểm toán chính là toàn bộ thông tin làm cơ sở cho các kết luận
trong kiểm toán.
o Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 500 “Bằng chứng kiểm toán”:
Bằng chứng kiểm toán là tất cả các thông tin, các tài liệu mà kiểm toán viên thu
thập được liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên những thông tin này, kiểm
toán viên hình thành nên ý kiến của mình.
Phân loại bằng chứng kiểm toán
Bằng chứng kiểm toán có thể bao gồm nhiều
loại và thu thập từ các nguồn khác nhau.
Thường có hai cách phân loại bằng chứng kiểm
toán phổ biến nhất là phân loại theo dạng bằng
chứng kiểm toán và phân loại theo nguồn hình
thành bằng chứng kiểm toán.
o Phân loại theo dạng bằng chứng kiểm toán:
Bằng chứng kiểm toán có dạng vật chất
(chứng từ kế toán, sổ sách kế toán, thư xác nhận,...).
Bằng chứng kiểm toán bằng miệng (điều tra, phỏng vấn…).
o Phân loại theo nguồn gốc thu thập bằng chứng kiểm toán:
Bằng chứng do kiểm toán tự khai thác và đánh giá thông qua kiểm kê, quan
sát và tính toán lại.
Bằng chứng do doanh nghiệp cung cấp. Ví dụ như chứng từ kế toán (hóa
đơn bán hàng, phiếu nhập kho, phiếu xuất kho,…) và sổ sách kế toán (sổ
chi tiết, sổ tổng hợp và hệ thống báo cáo tài chính).
Bằng chứng do bên thứ ba độc lập cung cấp.
Yêu cầu đối với bằng chứng kiểm toán
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 500: “Kiểm toán viên và công ty kiểm
toán phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra
ý kiến của mình về báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán”.
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
53
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
Bằng chứng kiểm toán là mục đích của quá trình kiểm toán và là điều kiện tiên
quyết để đưa ra ý kiến kiểm toán. Không có bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên
không thể dựa vào lý trí để đưa ra một kết luận hợp lý.
o Yêu cầu về tính thích hợp (tính hiệu lực)
Tính thích hợp là khái niệm chỉ chất lượng hay độ tin cậy của bằng chứng kiểm
toán. Bằng chứng kiểm toán có thích hợp thì nó phải đảm bảo phù hợp (tính
liên đới) và đáng tin cậy.
Tính phù hợp của bằng chứng kiểm toán nghĩa là bằng chứng này phải phù
hợp với mục tiêu kiểm toán của kiểm toán viên. Tính phù hợp của bằng
chứng kiểm toán phải được xem xét gắn liền với một mục tiêu cụ thể.
Ví dụ: Kiểm toán viên nghi ngờ khả năng nghiệp vụ bán hàng bị ghi trùng
lặp làm doanh thu tăng. Sau đó, Kiểm toán viên chọn một mẫu hóa đơn bán
hàng và thực hiện đối chiếu theo trình tự kế toán tới Nhật ký bán hàng, hóa
đơn vận chuyển, biên bản giao hàn hóa.
Trong trường hợp này, bằng chứng do kiểm toán viên thu thập được không
phù hợp với mục tiêu kiểm toán. Do đó, bằng chứng kiểm toán không đảm
bảo tính thích hợp với mục tiêu kiểm toán nêu trên.
Tính đáng tin cậy của bằng chứng kiểm toán phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: nguồn của thông tin được thu thập, thời điểm thu thập bằng chứng
kiểm toán, chất luợng của hệ thống kiểm soát nội bộ,…
-
Bằng chứng thu thập được từ những
nguồn bên ngoài công ty khách hàng
thường đáng tin cậy hơn so với thu
thập trong nội bộ. Ví dụ: Kiểm toán
viên thu thập kết quả phỏng vấn với
luật sư của công ty khách hàng thì
chất lượng kết quả phỏng vấn sẽ đáng
tin cậy hơn so với bằng chứng phỏng
vấn công ty khách hàng.
-
Thời điểm thu thập bằng chứng liên quan tới khi nào bằng chứng được
thu thập hoặc kỳ liên quan tới cuộc kiểm toán. Bằng chứng kiểm toán
thường có độ tin cậy cao hơn khi kiểm toán viên thu thập bằng chứng
kiểm toán càng gần với ngày lập báo cáo tài chính. Ví du: Bằng chứng
kiểm toán từ quan sát kiểm kê hàng tồn kho vào ngày 30/12 sẽ có độ tin
cậy cao hơn nếu quan sát kiểm kê hàng tồn kho vào ngày 30/10 năm đó.
-
o
54
Hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty khách hàng hoạt động có hiệu
quả thì bằng chứng thu được từ nội bộ sẽ có độ tin cậy cao hơn so với
trường hợp hệ thống kiểm soát nội bộ yếu. Ví dụ: Nếu kiểm soát nội bộ
đối với nghiệp vụ bán hàng và phát hành hóa đơn là hiệu lực thì kiểm
toán viên có thể thu thập được bằng chứng hiệu lực từ hóa đơn bán
hàng, chứng từ vận chuyển…
Yêu cầu về tính đầy đủ
Tính đầy đủ là khái niệm để chỉ số lượng cần thiết của bằng chứng kiểm toán
cho việc đưa ra kết luận kiểm toán.
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
Số lượng bằng chứng kiểm toán phụ thuộc vào những yếu tố sau:
Tính trọng yếu của đối tượng kiểm toán cụ thể: Khoản mục kiểm toán trọng
yếu thì số lượng bằng chứng thu thập càng nhiều và ngược lại.
Mức độ rủi ro của đối tượng kiểm toán: Nếu đối tượng kiểm toán chứa đựng
sai phạm nhiều thì số lượng bằng chứng thu thập càng nhiều và ngược lại.
Tính thuyết phục của bằng chứng kiểm toán (độ tin cậy của bằng chứng):
Bằng chứng thu thập có độ tin cậy cao thì số lượng bằng chứng thu thập
được càng ít và ngược lại.
Tính kinh tế: Khi thực hiện cuộc kiểm toán, kiểm toán viên cần cân nhắc
giữa chi phí kiểm toán với lợi ích thu được. Vì vậy, kiểm toán viên khi thu
thập bằng chứng kiểm toán cũng phải cân nhắc khoảng thời gian hợp lý với
mức chi phí kiểm toán có thể chấp nhận được.
3.4.
Hồ sơ kiểm toán
Khái niệm
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 230:
“Hồ sơ kiểm toán là các tài liệu do kiểm toán
viên lập, thu thập, phân loại, sử dụng và lưu trữ
trong cuộc kiểm toán”.
Tài liệu trong hồ sơ kiểm toán được thể hiện
trong giấy, phim ảnh, trên phương tiện tin học
hay bất kỳ phương tiện lưu trữ nào khác theo qui
định của pháp luật hiện hành.
Chuẩn mực cũng qui định: “Kiểm toán viên phải thu thập và lưu trong hồ sơ kiểm
toán mọi tài liệu, thông tin cần thiết liên quan đến cuộc kiểm toán đủ để làm cơ sở
cho việc hình thành ý kiến kiểm toán của mình và chứng minh rằng cuộc kiểm
toán đã được thực hiện theo đúng các chuẩn mực kiểm toán”.
Ý nghĩa của hồ sơ kiểm toán
o Lưu trữ những bằng chứng kiểm toán thu được trong quá trình thực hiện kiểm
toán và làm cơ sở cho việc đưa ra ý kiến của kiểm toán viên;
Hồ sơ kiểm toán là phương tiện chủ yếu chứng minh một cuộc kiểm toán đã
được tiến hành theo chuẩn mực. Đồng thời, hồ sơ kiểm toán cũng giúp Kiểm
toán viên chứng mnh với cơ quan pháp luật là cuộc kiểm toán được thực hiện
và giám sát đầy đủ, thu thập đầy đủ các bằng chứng thích hợp và báo cáo kiểm
toán đã đánh giá đúng đắn các kết quả kiểm toán.
Hồ sơ kiểm toán là nguồn tư liệu quan trọng giúp kiểm toán viên lựa chọn loại
báo cáo kiểm toán phù hợp trong từng tình huống cụ thể. Hồ sơ kiểm toán lưu
giữ toàn bộ bằng chứng kiểm toán thích hợp làm cơ sở cho ý kiến kết luận của
kiểm toán viên nên có tác dụng minh chứng cho phạm vi kiểm toán đúng đắn
và tính trung thực của báo cáo tài chính.
o Trợ giúp cho việc lập kế hoạch và thực hiện công việc kiểm toán;
Để lập kế hoạch kiểm toán đầy đủ cho năm hiện hành, Kiểm toán viên cần
tham khảo thông tin sẵn có trong hồ sơ kiểm toán như: thông tin về hệ thống
kiểm soát nội bộ, các kết quả kiểm toán năm trước…
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
55
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
o
o
o
Trợ giúp cho việc kiểm tra, soát xét và đánh giá chất lượng công việc kiểm toán;
Hồ sơ kiểm toán là hệ thống tài liệu căn bản để giúp cấp lãnh đạo quản lý cuộc
kiểm toán.
Trợ giúp cho việc xử lý các phát sinh sau cuộc kiểm toán;
Làm tài liệu tham khảo cho các cuộc kiểm toán sau.
Phân loại hồ sơ kiểm toán
Hồ sơ kiểm toán thường được phân chia làm hai loại chính trên cơ sở mục đích và
tính chất lưu trữ của chúng là hồ sơ kiểm toán chung và hồ sơ kiểm toán năm.
o Hồ sơ kiểm toán chung là hồ sơ kiểm toán chứa đựng những thông tin chung
về khách thể kiểm toán liên quan tới hai hay nhiều cuộc kiểm toán trong nhiều
năm với cùng một khách thể kiểm toán.
Hồ sơ kiểm toán chung thường bao gồm các dữ kiện lịch sử hay mang tính liên
tục qua các năm tài chính. Tuy nhiên, hồ sơ kiểm toán chung cũng được cập
nhật hàng năm khi có sự thay đổi liên quan đến những nội dung lưu trữ có liên
quan. Thông thường hồ sơ kiểm toán chung bao gồm những nội dung cơ bản
như: tên và số liệu hồ sơ, các thông tin chung về khách hàng, tài liệu về thuế,
tài liệu về nhân sự,…
o Hồ sơ kiểm toán năm là hồ sơ kiểm toán chứa đựng những thông tin về khách
thể kiểm toán chỉ liên quan đến cuộc kiểm toán năm hiện tại.
Hồ sơ kiẻm toán năm bao gồm các dữ liệu áp dụng cho năm kiểm toán. Các dữ
liệu này có thể bao gồm: các thông tin về người lập, người kiểm tra, soát xét hồ
sơ kiểm toán; các văn bản về tài chính, kế toán, thuế,…
56
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
Bài 3: Các khái niệm cơ bản thuộc nội dung kiểm toán
Tóm lược cuối bài
Như vậy, trong nội dung bài 3, sinh viên cần nắm bắt được các khái niệm cơ bản thuộc nội dung
kiểm toán bao gồm:
• Gian lận và sai sót.
• Trọng yếu và rủi ro.
Chứng từ kiểm toán, cơ sở dẫn liệu, bằng chứng kiểm toán và hồ sơ kiểm toán.
TXKTKI03_Bai3_v1.0015105212
57
- Xem thêm -