HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
*****
BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI
CÁC GIẢI PHÁP TIN HỌC HOÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TẠI TRUNG TÂM
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
Mã số:
B.09-03
Cơ quan chủ trì:
Chủ nhiệm đề tài:
Viện Xã hội học
TS NGUYỄN DŨNG SINH
8093
HÀ NỘI - 2010
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
*****
BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI
CÁC GIẢI PHÁP TIN HỌC HOÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TẠI TRUNG TÂM
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
Mã số:
B.09-03
Cơ quan chủ trì:
Viện Xã hội học
Chủ nhiệm đề tài:
TS NGUYỄN DŨNG SINH
HÀ NỘI - 2010
Danh sách cộng tác viên
tham gia các hoạt động của đề tài B.09-03
1. Th.sĩ Khuất Hoàng Huệ Anh Viện Xã hội học
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
2. Th.sĩ Phạm Minh Châu
Viện Xã hội học
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
3. Th.sĩ Nguyễn Xuân Chinh
Viện Xã hội học
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
4. CN Nguyễn Thị Dung
Viện Xã hội học
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
5. Kỹ sư Lưu Quang Đà
Trung tâm Công nghệ thông tin
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
6. KS Hoàng Văn Khoát
Phó Tổng Giám đốc Vietnam Incom
Công ty Phần mềm và truyền thông quốc tế VNPT
7. TS Nguyễn Văn Tuấn
Viện Xã hội học,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
-1-
MỤC LỤC
Phần mở đầu ........................................................................................................................... 4
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC, THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ TIN HỌC HOÁ
CÔNG TÁC QUẢN LÝ TẠI TRUNG TÂM HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ....................................................................................... 144
1.1 Một số vấn đề lý thuyết về tin học hoá công tác quản lý và ứng dụng
vào điều kiện thực tiễn của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh ...... 144
1.1.1 Quan niệm về tin học hoá ................................................................................. 144
1.1.2 Chủ thể, đối tượng của công tác quản lý trong hệ thống Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và vấn đề tin học hoá
công tác quản lý ............................................................................................... 233
1.2 Tính khách quan và yêu cầu cấp thiết đối với nhiệm vụ tin học hoá
công tác quản lý tại trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh ... 299
1.2.1 Vai trò của công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động quản lý
ở các nước và nước ta hiện nay ...................................................................... 30
1.2.2 Công nghệ thông tin - truyền thông và tin học hóa với vai trò, tầm vóc
của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh ................................. 332
1.3. Thực trạng về tin học hoá ở trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, nhu cầu và triển vọng ........................................................... 344
1.3.1 Thực trạng về ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông và tin học hóa
tại trung tâm Học viện ...................................................................................... 344
1.3.2 Cơ sở lý thuyết, tác dụng, hiệu quả và triển vọng của quá trình
tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện. ........................................... 466
Chương 2: HỆ GIẢI PHÁP TIN HỌC HOÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TẠI TRUNG TÂM
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH .............................. 499
2.1 Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về ứng dụng công nghệ thông tin - truyền
thông, tin học hoá công tác quản lý cho các đối tượng tại Học viện .......................... 499
2.2 Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách thúc đẩy quá trình tin học hoá
công tác quản lý tại trung tâm Học viện .................................................................. 544
-2-
2.3 Nhóm giải pháp về kỹ thuật - công nghệ nhằm tiến đến tin học hoá
công tác quản lý tại trung tâm Học viện ................................................................... 644
2.3.1 Nghiên cứu, triển khai ứng dụng công nghệ quản lý trực tuyến
tại trung tâm Học viện ........................................................................................ 644
2.3.2 Áp dụng rộng rãi công nghệ VPN và VLAN .......................................................... 733
2.3.3 Tiếp tục xây dựng, củng cố, phát triển cơ sở hạ tầng thông tin ............................ 755
2.3.4 Những biện pháp cụ thể, mục tiêu và lộ trình thực hiện tin học hoá
công tác quản lý tại trung tâm Học viện đến năm 2015 ....................................... 777
Kết luận và kiến nghị .............................................................................................................. 81
Tài liệu tham khảo ................................................................................................................. 85
-3-
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
a, Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên tất cả các lĩnh
vực, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta đang hướng đến mục tiêu "đến năm 2020, đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại". Công nghệ thông tin - truyền thông đã và đang trở thành
một lĩnh vực có vị trí rất quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước.
Từ năm 1995 đến nay, Nhà nước đã quyết định nhiều chủ trương; triển khai nhiều
chương trình, đề án, dự án... công nghệ thông tin - truyền thông trong hệ thống cơ quan
của Đảng và Nhà nước nhằm ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước thực hiện tin
học hoá trong các lĩnh vực hoạt động của cơ quan Đảng, bộ máy Nhà nước và các
ngành, các cấp.
Trong sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ, y tế, văn hoá, giáo dục... quá
trình tin học hoá đã diễn ra nhanh chóng, đem lại nhiều kết quả. Ở nước ta, bước đầu đã
hình thành khu vực kinh tế thông tin trong nền kinh tế. Hàng năm, khu vực này đều có
chỉ số tăng trưởng từ 30% trở lên. Các nhà đầu tư nước ngoài đã nhận thấy những tiềm
năng to lớn; triển khai nhiều dự án, trong đó có những dự án có quy mô lớn trong lĩnh
vực công nghệ thông tin - truyền thông ở nước ta.
Công nghệ thông tin - truyền thông đã và đang trực tiếp góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội và là chiếc chìa khoá để mở cánh cổng vào nền kinh tế tri thức. Để
trở thành một nước công nghiệp phát triển; nhanh chóng tiếp cận kinh tế tri thức, nền
kinh tế nước ta nhất định phải tiếp tục thúc đẩy nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông
tin; thúc đẩy quá trình tin học hoá trong tất cả các ngành sản xuất, trong các lĩnh vực
đời sống xã hội và trước hết là trong hoạt động quản lý của các cấp.
Tuy vậy, hiện nay trong hoạt động của cơ quan Đảng và Nhà nước (bao gồm các
đơn vị quản lý hành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp), việc ứng dụng công nghệ
thông tin - truyền thông còn nhiều hạn chế, bất cập. Một số đề án, dự án cấp quốc gia gần
-4-
đây đã không thực hiện được mục tiêu, không đảm bảo tiến độ, quản lý lỏng lẻo, yếu
kém. Hệ quả tất yếu là không thực hiện được yêu cầu tin học hoá trong hoạt động của các
cơ quan nhà nước, trước hết là tin học hoá quản lý hành chính nhà nước; gây tổn thất về
kinh tế và tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với việc thực hiện các chương
trình ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông do Nhà nước đầu tư và chỉ đạo thực
hiện.
Ngày 17/10/2000, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam đã có Chỉ thị số 58/CT-TƯ về ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Năm 2006, Quốc hội đã thông qua và công bố
Luật Công nghệ thông tin - truyền thông của nước ta. Gần đây, ngày 10/4/2007, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông trong các cơ quan nhà nước. Đó là những văn kiện rất quan trọng, không
chỉ có vai trò xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông
tin - truyền thông ở nước ta trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà
còn là cơ sở pháp lý để các cấp từ Trung ương đến cơ sở xác định các chủ trương, biện
pháp cụ thể nhằm ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy quá trình tin học hoá các lĩnh
vực hoạt động trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước và trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
b, Với sự hợp nhất của Học viện Hành chính quốc gia, từ năm 2007, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã trở thành một cơ sở lớn nhất, một trung
tâm quốc gia về đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận, trang bị kiến
thức, kỹ năng về quản lý nhà nước; đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Trung
ương Đảng và Chính phủ. Trong giai đoạn cách mạng mới, vai trò, vị thế và tầm vóc của
Học viện càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.
Ngày nay, công nghệ thông tin - truyền thông - truyền thông đã trở thành công cụ,
phương tiện, giải pháp công nghệ có hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội lớn nhất trong
việc khai thác, cung cấp các nguồn tài nguyên thông tin cho mọi đối tượng. Với máy tính
điện tử và các hệ thống mạng, công nghệ thông tin - truyền thông - truyền thông cung cấp
phương tiện làm việc để mọi người có thể trao đổi dữ liệu trên phạm vi toàn cầu. Khi
được ứng dụng trong thực tế, công nghệ thông tin - truyền thông - truyền thông không chỉ
nâng cao năng suất, hiệu quả xử lý thông tin mà còn trở thành một nhân tố trực tiếp tác
-5-
động đến phương pháp tư duy, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ và tất cả mọi thành viên
trong từng tổ chức...
Trong quản lý nhà nước, công nghệ thông tin - truyền thông - truyền thông có mối
liên hệ chặt chẽ và trực tiếp thúc đẩy quá trình đổi mới, cải cách nền hành chính quốc gia.
Hiệu quả đích thực của ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông, tin học hoá trong
các lĩnh vực chính là tăng năng suất lao động, hiệu quả công tác quản lý; gia tăng giá trị
của các sản phẩm, trước hết là các sản phẩm yêu cầu có hàm lượng tri thức cao.
Các chức năng cơ bản của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
là đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học, tất yếu nhu cầu về thông tin và xử lý thông tin
ngày càng đòi hỏi phải được đáp ứng cao hơn. Trong giai đoạn phát triển mới của đất
nước, tin học hoá các lĩnh vực hoạt động của Học viện không chỉ là nhu cầu khách quan
mà còn góp phần đề cao vai trò, vị thế và tầm vóc của Học viện. Tin học hoá công tác
quản lý tại trung tâm Học viện có vai trò và tác dụng là khâu mở đầu, có ý nghĩa quan
trọng nhất của quá trình tin học hoá các lĩnh vực hoạt động của hệ thống Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
c, Từ giai đoạn 1995 - 1996, khi Nhà nước có chủ trương triển khai các chương
trình quốc gia về công nghệ thông tin, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã
được chính thức tham gia các chương trình, dự án này. Những kết quả bước đầu của
nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông, tin học hoá ở trung tâm Học
viện là: đã xây dựng được một cơ sở hạ tầng thông tin tương đối hiện đại với các hệ
thống máy chủ của trung tâm Tích hợp dữ liệu, đường truyền dữ liệu bằng cáp quang có
thông lượng đường truyền rất lớn; các đơn vị tại trung tâm Học viện đều được trang bị
máy tính điện tử có kết nối mạng để làm việc; nhiều cán bộ, nhân viên đã được đào tạo
về kiến thức, kỹ năng tin học có thể sử dụng có hiệu quả trong công tác chuyên môn;
Học viện đã xây dựng được một trang thông tin điện tử với số người truy cập, sử dụng
ngày càng tăng; là một phương tiện trao đổi thông tin có hiệu quả cao trong hoạt động
của các cơ quan, đơn vị...
Tuy nhiên, đến nay việc ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong công
tác quản lý các lĩnh vực hoạt động của các đơn vị tại trung tâm Học viện vẫn còn nhiều
vấn đề bất cập. Nổi lên là những vấn đề sau.
-6-
- Chưa xác định được phương hướng, chủ trương, kế hoạch và các giải pháp để thực
hiện nhiệm vụ tin học hoá công tác quản lý của Học viện. Các tiến bộ về khoa học, kỹ
thuật - công nghệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông chưa có điều kiện
ứng dụng để phát huy hiệu quả công tác quản lý, đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học.
Nhiều giải pháp công nghệ tiên tiến trong xử lý thông tin có thể áp dụng có hiệu quả
trong hệ thống thông tin của Học viện nhưng chưa được nghiên cứu, xem xét và đề xuất
ứng dụng trong thực tiễn...
- Một bộ phận trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa nhận thức đúng đắn và
đầy đủ về vai trò, tác dụng, hiệu quả của nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin, tin
học hoá công tác quản lý các lĩnh vực hoạt động ở trung tâm Học viện. Vì vậy, chưa coi
trọng công tác xử lý thông tin trên máy tính điện tử và trên môi trường mạng; chưa xây
dựng được các nguồn dữ liệu phục vụ cho công tác quản lý; chưa quan tâm đến việc
nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng tin học để sử dụng cho công tác chuyên môn đồng
thời tích cực đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực công nghệ thông tin - truyền thông cho
đơn vị v.v..
- Công tác quản lý của Học viện, trong đó có nhiều nội dung thuộc chức năng quản lý
nhà nước như quản lý cán bộ, công chức, học viên; quản lý công tác đào tạo và nghiên cứu
khoa học; quản lý tài chính, vật tư, tài sản... vẫn được tiến hành theo cách thức, nề nếp cũ,
lạc hậu và kém hiệu quả; không kịp đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý.
Nhiều công đoạn trong quy trình công tác quản lý có thể sử dụng máy tính điện tử
và các chương trình phần mềm trên máy tính để tác nghiệp nhưng kể cả khi đã có các yếu
tố này thì vẫn thực hiện bằng thao tác thủ công nên năng suất, chất lượng, hiệu quả không
cao; thiếu tính khách quan, chính xác; lãng phí thời gian và ngân sách...
Nguồn dữ liệu phục vụ cho công tác quản lý nghèo nàn, thiếu thốn; chưa được quan
tâm xây dựng, lưu trữ và bảo quản bằng các phương pháp hiện đại nhằm sẵn sàng truy
xuất và đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý.
Các tài nguyên thông tin như máy tính điện tử và các hệ thống mạng, truyền hình
giảng đường; các vật tư thiết bị công nghệ thông tin; các nguồn dữ liệu số hoá... do thiếu
chủ trương, kế hoạch và giải pháp kỹ thuật công nghệ nên chưa phát huy tác dụng; chưa
được khai thác triệt để, gây nên sự lãng phí không đáng có trong khi sự phát triển của
-7-
công nghệ thông tin - truyền thông lại rất nhanh chóng.
- Do xử lý thông tin vẫn theo phương thức thủ công, truyền thống nên hoạt động
của từng đơn vị trong hệ thống Học viện và tại trung tâm Học viện vẫn trong tình trạng
phổ biến là cục bộ, khép kín. Các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Học viện rất khó nắm bắt
chính xác tình hình cụ thể của các đơn vị. Thông tin từ trên xuống bị thất lạc hoặc chậm
trễ. Báo cáo từ dưới lên không đầy đủ, số liệu thiếu chính xác là một trong những nhân tố
tác động trực tiếp đến chất lượng và tính khả thi của các quyết định về lãnh đạo, quản lý.
Công tác quản lý hành chính nhà nước chậm được đổi mới và kém hiệu lực v.v..
Xuất phát từ những vấn đề trên, việc Giám đốc Học viện quyết định đưa vào kế
hoạch nghiên cứu khoa học năm 2009 đề tài Các giải pháp tin học hoá công tác quản lý
tại trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh là phù hợp với yêu
cầu thực tiễn của Học viện.
Mặc dầu trong khuôn khổ của đề tài này chưa thể có đủ điều kiện để thực hiện các nội
dung cụ thể, chi tiết về việc tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện nhưng trên
cơ sở đề xuất các giải pháp có tính hệ thống, có cơ sở lý luận, cơ sở lý thuyết và thực tiễn
sẽ là khâu mở đầu cho quá trình xác định một cách đầy đủ những vấn đề cơ bản về tin học
hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện; định hướng nhiệm vụ ứng dụng công nghệ
thông tin; góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý của Học viện. Đồng
thời, các Học viện khu vực có thể tham khảo để thực hiện nhiệm vụ tin học hoá các hoạt
động của cả hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Ở nước ta, các nghiên cứu khoa học đối với lĩnh vực tin học và công nghệ thông tin
- truyền thông là một trong những nội dung đã được quan tâm từ nhiều năm qua, nhất là
từ năm 1995, khi Nhà nước chính thức có chủ trương và các kế hoạch, chương trình về
ứng dụng công nghệ thông tin.
Tuy vậy, nghiên cứu về tin học hoá tức là ứng dụng công nghệ thông tin - truyền
thông trong từng lĩnh vực cụ thể thì các nhà nghiên cứu thường nghiêng về hướng làm
thế nào để nhanh chóng đưa công nghệ thông tin - truyền thông vào lĩnh vực đó nhằm
khai thác được những tiến bộ về kỹ thuật - công nghệ; đầu tư trang thiết bị; đào tạo người
-8-
sử dụng... Việc nghiên cứu các giải pháp có tính đồng bộ như những vấn đề về chiến lược
ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin - truyền thông để tin học hoá, những vấn đề
về cơ chế, chính sách, về con người... thường chưa được chú ý. Gần đây, thất bại của Đề
án Tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2005 (thường gọi là Đề án
112) đã thể hiện rất rõ điều đó.
Mặt khác, các chương trình, đề án về công nghệ thông tin - truyền thông của Nhà
nước như Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin - truyền thông đến năm 2000 (IT
2000), Đề án 112, Đề án 47 (Tin học hoá hoạt động các cơ quan của Đảng)... thực chất là
thực hiện tin học hoá các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan của Đảng.
Mặc dầu trong các chương trình này có bao gồm các hoạt động nghiên cứu khoa học
nhưng xét về bản chất thì đó là các chương trình đã được các cấp có thẩm quyền phê
duyệt và quyết định thực hiện trên diện rộng. Các hạng mục của những chương trình và
đề án này đều được đầu tư và bắt buộc phải thực hiện cho dù về phương diện khoa học có
thể còn những vấn đề phải bàn luận và nghiên cứu. Từ đó có thể nhận thấy, trong thực
tiễn vấn đề tin học hoá có thể đã được triển khai thực hiện trên phạm vi rộng lớn nhưng
những đề tài nghiên cứu khoa học về tin học hoá còn ít được coi trọng.
Tuy nhiên, trong các tài liệu đã công bố của đề án nêu trên nhiều nội dung về
phương diện khoa học, kỹ thuật - công nghệ vẫn có thể tham khảo và vận dụng.
Những công trình đã công bố liên quan đến vấn đề tin học hoá công tác quản lý có
thể tham khảo gồm: Quản lý thông tin và công nghệ thông tin - truyền thông của Nguyễn
Khắc Khoa, NXB Khoa học - Kỹ thuật, Hà Nội, 2000; Tin học hoá công tác văn thư, lưu
trữ và thư viện của Dương Văn Khảm, Hà Nội, 1995. Một số bài báo Tạp chí chuyên
ngành công nghệ thông tin - truyền thông (bản giành cho đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản
lý) đã đề cập đến vấn đề tin học hoá như Chấm công - từ thẻ giấy đến thẻ điện tử của
Nhật Thanh, PC World số tháng 6/2002; Máy tính quản lý chuyền may của Nguyễn
Thanh Thi, PC World số tháng 7/2002...
Trên tạp chí chuyên ngành này cũng đăng tải một số bài giới thiệu kinh nghiệm tin
học hoá của các cơ quan, đơn vị cả trong và ngoài nước như Lotus Domino và bài học
kinh nghiệm của NewYork của Trung Hải, PC World số tháng 8/2002 hoặc gần đây có
bài Ủy ban huyện điều hành trực tuyến của Phi Quân, PC World số tháng 2/2008; Điều
-9-
hành sản xuất với MES của Việt Dũng, PC World số tháng 4/2008; Hội họp từ xa với
Tele Presence của Như Dũng PC World số tháng 5/2008 v.v..
Tuy vậy, số công trình nghiên cứu về tin học hoá trong công tác quản lý còn còn
rất mỏng và thưa thớt. Trên các tạp chí chuyên ngành công nghệ thông tin, chưa thấy
các tác giả đề xuất và luận chứng một cách toàn diện đến vấn đề tin học hoá công tác
quản lý trong một mô hình tổ chức nhất định nào đó của cơ quan nhà nước. Đến năm
2008, các luận văn, luận án thạc sĩ, tiến sĩ về chủ đề này đều chưa thấy công bố.
Ở Học viện CTQG Hồ Chí Minh, từ giai đoạn 1995 - 1996, Bộ môn Tin học của Học
viện đã chủ trì thực hiện đề tài cấp cơ sở "Ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông
trong công tác quản lý"; năm 2002, Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh đã quyết định
triển khai đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ "Các giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng
công nghệ thông tin - truyền thông trong hệ thống Học viện CTQG Hồ Chí Minh" và đã
nghiệm thu, đạt kết quả tốt. Tiếp đến, năm 2005, Văn phòng Học viện tổ chức nghiên cứu
đề tài "Thực trạng về ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong công tác quản lý
tại Học viện CTQG Hồ Chí Minh" (loại đề tài Giám đốc giao nhiệm vụ)...
Khái quát chung là các đề tài nghiên cứu khoa học về tin học hoá công tác quản lý
hiện nay chưa nhiều, nhất là những đề tài nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề liên
quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn; xác định phương hướng, giải pháp và đề xuất, luận
chứng về các mô hình tin học hoá trong công tác quản lý. Các công trình nghiên cứu
thường chỉ mới đề cập đến một số khía cạnh về tin học hoá trong một vấn đề cụ thể cần
phải quản lý mà chưa hướng đến lý giải những vấn đề có tính hệ thống, có cơ sở khoa
học và thực tiễn để từ đó có thể đề xuất các giải pháp đồng bộ có tính khả thi đối với
nhiệm vụ tin học hoá trong một mô hình tổ chức nhất định.
3. Mục tiêu của đề tài:
Xây dựng hệ giải pháp tin học hoá công tác quản lý các lĩnh vực hoạt động của Học
viện tại trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
4. Các nội dung nghiên cứu chủ yếu:
4.1 Các vấn đề lý thuyết về tin học hoá, bao gồm: Tin học hoá và tin học hoá công tác
quản lý; các lý thuyết và mô hình tin học hoá công tác quản lý; những vấn đề lý thuyết về
- 10 -
quản lý trực tuyến.
4.2 Các vấn đề về thực trạng tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, gồm: Tin học hoá công tác quản lý với vai
trò, tầm vóc của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; thực trạng về tin
học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện.
4.3 Các giải pháp tin học hóa công tác quản lý tại trung tâm Học viện, gồm: giải
pháp về cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy quá trình tin học hoá công tác quản lý; nâng
cao nhận thức về ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông; quản lý nhà nước đối với
lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông trong hệ thống Học viện.
4.4 Các giải pháp về kỹ thuật - công nghệ nhằm thúc đẩy quá trình tin học hoá công tác
quản lý tại trung tâm Học viện, gồm: về xây dựng hạ tầng kỹ thuật thông tin; cơ sở lý thuyết,
tính khả thi và mô hình quản lý trực tuyến nhằm mục tiêu tin học hoá công tác quản lý tại
trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; các biện pháp cụ thể về
về kỹ thuật - công nghệ nhằm thúc đẩy quá trình tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm
Học viện trong giai đoạn trước mắt (2010 - 2015) và các giai đoạn tiếp theo.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm
Học viện. Những vấn đề đặt ra cho nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài không chỉ thuần tuý
về chuyên môn kỹ thuật, công nghệ thông tin - truyền thông mà còn liên quan đến các
hoạt động trong công tác quản lý; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và các hoạt động
chung của Học viện. Các phương pháp nghiên cứu sẽ được áp dụng là:
- Nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu, phân tích các tài liệu liên quan về chủ trương,
chính sách công nghệ thông tin - truyền thông của Đảng, Nhà nước; các tài liệu về kỹ
thuật, công nghệ thông tin - truyền thông để hệ thống hoá những vấn đề cơ bản, chủ yếu
liên quan đến nhiệm vụ tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện.
- Xây dựng mô hình và đặt giả thuyết để chứng minh đối với các mô hình tin học
hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện.
- Kết hợp các phương pháp logic - lịch sử, phân tích, so sánh... và căn cứ tình hình
thực tế của Học viện để xác định những vấn đề về định hướng ứng dụng, phát triển công
- 11 -
nghệ thông tin, tin học hoá công tác quản lý của Học viện
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
Đề tài "Các giải pháp tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện Chính trị
- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh" sẽ tập trung nghiên cứu trên các vấn đề chủ yếu:
một là, mối quan hệ giữa công nghệ thông tin, tin học hoá với công tác lãnh đạo, quản lý
tại Học viện; hai là, các giải pháp công nghệ hiện đại về quản lý trực tuyến để ứng dụng
vào tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh; ba là, xây dựng và đề xuất các mô hình ứng dụng cụ thể cho nhiệm vụ tin
học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện.
Khi thực hiện thành công, đề tài sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý; cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực công nghệ
thông tin - truyền thông trên các phương diện sau.
- Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống các vấn đề về mối quan hệ giữa lãnh đạo, quản
lý và ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin, đề tài góp phần hệ thống hoá các kiến
thức cơ bản về mảng vấn đề này nhằm cung cấp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tại
Học viện cũng như những người liên quan đến loại hình hoạt động này. Khối kiến thức
này có thể làm tài liệu nghiên cứu, phục vụ giảng dạy cho đối tượng đào tạo là cán bộ
lãnh đạo, quản lý tại Học viện và các cơ sở đào tạo cán bộ ở nước ta hiện nay.
- Các sản phẩm của đề tài sẽ là một tập hợp các tài liệu về giải pháp kỹ thuật - công
nghệ hiện đại liên quan trực tiếp đến vấn đề quản lý trực tuyến. Hiện nay, đây là một trong
những công nghệ tiên tiến không chỉ được áp dụng ở các nước công nghiệp phát triển mà
có ý nghĩa thiết thực đối với việc tin học hoá hoạt động của cơ quan nhà nước ở nước ta.
Trước hết, các đơn vị trong hệ thống Học viện có thể tham khảo để ứng dụng nhằm tiến
đến tin học hoá công tác quản lý trong cả hệ thống Học viện.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là một hệ giải pháp có tính hệ thống cả về cơ chế,
chính sách và kỹ thuật - công nghệ; các mô hình ứng dụng công nghệ thông tin - truyền
thông để tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện. Trên cơ sở xem xét để
thực hiện các giải pháp này, về phương diện thực tiễn đề tài sẽ góp phần mang lại hiệu
quả kinh tế và hiệu quả xã hội cho nhiệm vụ đổi mới và ngày càng hoàn thiện hơn công
- 12 -
tác quản lý đối với các lĩnh vực hoạt động tại trung tâm Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh.
7. Sản phẩm của đề tài:
- Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu của đề tài theo quy định của Học viện.
- Kiến nghị của Chủ nhiệm đề tài về ứng dụng công nghệ thông tin, tin học hoá
công tác quản lý tại trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Kỷ yếu khoa học
- Đĩa CD lưu trữ toàn bộ kết quả của đề tài.
- 13 -
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC, THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ TIN HỌC HOÁ
CÔNG TÁC QUẢN LÝ TẠI TRUNG TÂM HỌC VIỆN
CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
1.1 Một số vấn đề lý thuyết về tin học hoá công tác quản lý và ứng dụng vào điều kiện
thực tiễn của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
1.1.1 Quan niệm về tin học hoá
- Khái niệm Tin học hoá
Với sự ra đời của máy tính điện tử, công nghệ thông tin - truyền thông; của ngành
điều khiển học và nhiều thành tựu khoa học - công nghệ khác... ngày nay, một nền tảng
kỹ thuật - công nghệ mới trong hoạt động sản xuất và đời sống xã hội đã và đang dần
thay thế nền tảng kỹ thuật cơ điện. Đó là, nền tảng kỹ thuật - công nghệ tự động hoá,
điều khiển học.
Với tự động hóa, nhiều thao tác của con người trong quy trình tác nghiệp để tạo ra
các sản phẩm đã được thay thế bằng máy móc. Thậm chí, nhiều công đoạn trong các quy
trình tác nghiệp ấy, con người có thể tin cậy giao cho máy móc đảm nhiệm. Tự động hóa
không chỉ thay thế lao động bằng cơ bắp của con người mà còn nâng cao năng suất lao
động gấp nhiều lần so với lao động thủ công; đảm bảo độ chính xác cao; khắc phục và
hạn chế tối đa những rủi ro đối với con người khi tác nghiệp trong những điều kiện khó
khăn, phức tạp.
Trong quá trình chuyển sang tự động hóa, máy tính điện tử và công nghệ thông tin
có vai trò đặc biệt quan trọng. Với máy tính điện tử và các chương trình phần mềm - thực
chất là chương trình hóa các thao tác của con người trong tất cả các hoạt động sản xuất,
nhờ đó, con người có thể tính toán và điều khiển quá trình sản xuất; làm ra các sản phẩm
hàng hoá với khối lượng lớn, năng suất, chất lượng cao.
Không chỉ trong lĩnh vực sản xuất ra các sản phẩm vật chất, hàng hoá đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của xã hội, hoạt động của con người trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y
tế; trong việc tổ chức và quản lý xã hội; an ninh, quốc phòng; nghiên cứu khoa học...
- 14 -
cũng đều có thể nhận được sự hỗ trợ của máy tính điện tử, của công nghệ thông tin truyền thông. Thế giới đã và đang tiếp tục diễn ra quá trình tin học hoá trong các lĩnh vực
đời sống xã hội.
Vậy, tin học hóa là gì ?
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của đề tài, các tác giả đã khai thác, thu thập
nhiều dữ liệu thuộc một số công trình nghiên cứu khoa học trong nước và thế giới để tìm
hiểu sâu hơn về tin học hóa. Một số tác giả cho rằng, với sự phát triển của chuyên ngành
Tin học là tích hợp nhiều thành tựu của khoa học hiện đại và nhanh chóng được áp dụng
trong thực tiễn mà trước hết là công việc xử lý tự động thông tin với khối lượng dữ liệu
lớn và với nhiều phép tính khác nhau. Từ kết quả của việc xử lý thông tin tự động, ứng
dụng của Tin học vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội cũng được lan tỏa
mạnh mẽ. Lý do của sự phát triển, lan tỏa mạnh mẽ ứng dụng đặc trưng này có người đã
khái quát đó là một tính qui luật trong sự phát triển của Tin học. Điều này cho thấy, sự
phát triển của chuyên ngành Tin học là quá trình tác động lẫn nhau giữa các yếu tố khoa
học, công nghệ và ứng dụng. Và chính đặc trưng ứng dụng cao trong khoa học, nên đưa
đến quá trình tin học hóa. Như vậy, khái niệm Tin học hóa có các nội hàm là, nghiên cứu
ứng dụng các lý thuyết, qui trình và thủ tục xử lý tự động thông tin trên máy tính để giải
quyết các nhiệm vụ đa dạng phong phú trong thực tiễn1.
Một số báo cáo chuyên đề khác của đề tài cũng đã đưa ra các khái niệm về tin học
hóa. Tuy nhiên, trên phương diện tổng thể và hướng đến mục tiêu nghiên cứu của đề tài,
Chủ nhiệm đề tài xác định khái niệm Tin học hóa như sau:
Tin học hoá là quá trình chuyển đổi, thay thế việc thực hiện một quy trình tác
nghiệp với các thao tác thủ công bằng các thiết bị, công cụ có sự tham gia của máy tính
điện tử và công nghệ thông tin - truyền thông.
Khái niệm này bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
+ Tin học hóa là một quá trình diễn ra từ thấp đến cao; từ đơn giản đến phức tạp; từ
một hoặc một số công đoạn đến toàn bộ quy trình tác nghiệp. Mức độ phát triển cao nhất
của quá trình tin học hóa là các quy trình tác nghiệp trong sản xuất và đời sống được
chuyển sang tự động hóa, điều khiển học.
1
Xem chuyên đề Tin học hóa và tin học hóa công tác quản lý của tác giả Nguyễn Văn Tuấn, Kỷ yếu của đề tài
- 15 -
+ Trong quá trình tin học hóa, máy tính điện tử, công nghệ thông tin - truyền thông
có vai trò quyết định nhất nhưng tin học hóa là kết quả của sự kết hợp giữa máy tính điện
tử, công nghệ thông tin - truyền thông với những tiến bộ của các ngành khoa học - công
nghệ khác như công nghệ điện tử, công nghệ vật liệu mới, công nghệ xây dựng, công
nghệ sinh học; công nghệ quản lý; công nghệ đào tạo v.v..
+ Tin học hóa là quá trình mô phỏng và chương trình hóa các hoạt động của con
người, giao cho thiết bị, máy móc thực hiện. Điều đó đòi hỏi, các quy trình tác nghiệp của
con người phải được hợp lý hóa ở mức độ cao nhất khi tin học hóa quy trình tác nghiệp.
Từ khái niệm trên cho thấy, tin học hoá thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và lực
lượng sản xuất. Tin học hoá thúc đẩy nền sản xuất đang được thực hiện trên các nền tảng
kỹ thuật hiện có từng bước chuyển dần sang thực hiện trên nền tảng kỹ thuật - công nghệ
tự động hoá, điều khiển học. Tin học hóa không chỉ có thể thực hiện trong hoạt động sản
xuất của con người mà nó cũng có thể được thực hiện trong các lĩnh vực hoạt động khác
như trong quá trình tổ chức, quản lý xã hội; trong giáo dục - đào tạo; trong kinh doanh và
các ngành dịch vụ...
Nói cách khác, trong bất cứ lĩnh vực nào mà hoạt động của con người nhằm tạo ra
sản phẩm và dịch vụ mà có thể chương trình hóa được thì đều có thể tin học hóa ở các
mức độ nhất định tùy theo điều kiện và nhu cầu tin học hóa của con người. Đó cũng
chính là một đặc trưng cơ bản của Tin học hóa.
Ngày nay, tin học hoá là một xu hướng phát triển tất yếu của tất cả các quốc gia, các
nền kinh tế nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, từng bước đáp ứng và tiến đến thoả
mãn mọi nhu cầu trong đời sống của xã hội loài người. Tin học hóa và tự động hóa là
những biểu tượng chủ yếu của các nền kinh tế phát triển đến trình độ kinh tế tri thức.
- Tin học hoá công tác quản lý
Bàn về tin học hóa công tác quản lý sẽ liên quan đến các khái niệm về quản lý.
Trong một mức độ nhất định nào đó, khi lãnh đạo và quản lý có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau thì khi bàn về quản lý, tất yếu còn phải phân định được sự khác nhau giữa lãnh
đạo và quản lý.
Trước hết, quản lý là một quá trình hoạt động của các chủ thể và khách thể liên
quan đến việc thực hiện một mục tiêu nhất định nào đó trong thực tiễn. Bàn về quản lý là
- 16 -
bàn về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức và cá nhân có trách nhiệm thực hiện một
hoặc một số mục tiêu nhất định của tổ chức. Không thể nói đến quản lý mà không gắn
với một mô hình tổ chức nhất định trong đời sống xã hội. Trong quá trình thực hiện vai
trò và chức năng quản lý, các chủ thể quản lý phải căn cứ vào các quy định của pháp luật
và nhiệm vụ của tổ chức cấp trên giao cho để tổ chức, điều hành mọi thành viên trong tổ
chức thực hiện cho được mục tiêu, nhiệm vụ của mình. Đặc trưng cơ bản của hoạt động
quản lý là gắn liền với pháp luật. Nói cách khác là khi chưa có chính quyền nhà nước thì
chưa có đủ điều kiện để bàn về quản lý.
Một đặc trưng khác của hoạt động quản lý là trên cơ sở tuân thủ pháp luật hiện
hành, các chủ thể và khách thể của hoạt động quản lý phải hướng đến thực hiện những
mục tiêu đã được xác định trong hiện tại. Trong quá trình thực hiện vai trò, chức năng
quản lý, nếu có sự trái ngược giữa quy định pháp luật và yêu cầu thực tiễn thì vẫn phải
tuân theo pháp luật. Nếu các chủ thể quản lý thấy phải thực hiện mà không đúng với quy
định của pháp luật thì nhất định phải báo cáo với các cấp có thẩm quyền; thực hiện theo
quyết định của cấp có thẩm quyền đó.
Các tác giả của đề tài khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động quản lý trong đời
sống xã hội. Chỉ với vai trò, sự tác động của hoạt động quản lý, con người mới có thể thực
hiện được những mục đích, mục tiêu nhất định trong hoạt động sản xuất và các lĩnh vực
hoạt động khác. Quản lý tạo nên những điều kiện cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của
sản xuất và đời sống. Quản lý là điều kiện cần thiết cho sự ổn định và phát triển của xã hội.
Xã hội càng hiện đại, hoạt động quản lý càng có vai trò, ý nghĩa to lớn và quan trọng.
Về mối liên hệ giữa lãnh đạo và quản lý, hiện nay, vẫn còn không ít người có sự
nhầm lẫn giữa hai khái niệm này. Trong hoạt động lãnh đạo và quản lý có một điểm
chung là, mối liên hệ giữa các chủ thể với khách thể trong hoạt động lãnh đạo, hoạt động
quản lý đều được thể hiện ở việc ban hành và thực hiện các quyết định. Các quyết định là
sản phẩm trực tiếp của chủ thể lãnh đạo, quản lý. Từ các quyết định đến hiện thực đời
sống xã hội là sản phẩm của quá trình thực hiện hoạt động lãnh đạo, quản lý.
Do đặc trưng cơ bản của hoạt động lãnh đạo, quản lý là đưa ra các quyết định và
tổ chức thực hiện các quyết định ấy nên trong hoạt động lãnh đạo, quản lý thông tin và
xử lý thông tin có vai trò rất quan trọng. Nó là điều kiện tiền đề cơ bản nhất quyết định
chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý. Thiếu thông tin và năng lực xử lý
- 17 -
thông tin, một nhà lãnh đạo, quản lý tài giỏi nhất cũng khó có thể đưa ra được những
quyết định đúng đắn và chính xác. Một xã hội thiếu thông tin không chỉ dẫn đến sự lạc
hậu, trì trệ, bảo thủ cả về phương diện sản xuất mà còn tác động tiêu cực đến văn hóa
và lối sống của con người. Thông tin là tri thức, là giá đỡ, là sức mạnh thúc đẩy và
quyết định sự phát triển của đời sống xã hội.
Tuy vậy, với hai khái niệm lãnh đạo và quản lý thì mỗi khái niệm đều có những
điểm riêng biệt. Nếu hoạt động quản lý phải gắn liền với pháp luật thì lãnh đạo không
nhất thiết gắn liền với pháp luật vì thực chất pháp luật là các quy định của một chính
quyền nhà nước nhất định. Lãnh đạo là việc xác định phương hướng, mục tiêu, cách thức
thực hiện các mục tiêu và tác động vào các đối tượng để các đối tượng này có thể thực
hiện được các mục tiếu ấy. Khi chưa giành được chính quyền, các Đảng Cộng sản đã lãnh
đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền từ tay các giai cấp thống trị cũ. Khi đã giành
được chính quyền, các Đảng Cộng sản vẫn phải tiếp tục lãnh đạo nhân dân không chỉ
thực hiện nhiệm vụ của nhà nước (tức là chính quyền do Đảng lãnh đạo) mà còn lãnh đạo
nhà nước và lãnh đạo nhân dân hướng đến các mục tiêu lâu dài hơn.
Như vậy là, trong khi hoạt động quản lý hướng vào thực hiện các mục tiêu hiện tại
thì lãnh đạo là hướng đến tương lai. Trong hoạt động lãnh đạo không thể sử dụng các
biện pháp có tính bắt buộc, cưỡng bức mà chủ yếu là tuyên truyền, vận động, giáo dục,
thuyết phục... làm cho đối tượng của hoạt động lãnh đạo nhận thức được và tự giác thực
hiện các mục tiêu của hoạt động lãnh đạo.
Một đảng chính trị cầm quyền, lãnh đạo chính quyền nhà nước hay giành ưu thế
trong bộ máy chính quyền nhà nước, khi tồn tại trong mối liên hệ với các cộng đồng xã
hội phải thực hiện đúng pháp luật. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức đầy đủ vế thứ hai
của vấn đề này là một đảng chính trị khi đã trở thành đảng cầm quyền thì có vai trò rất to
lớn, thậm chí có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật.
Lãnh đạo không phải là khái niệm chỉ dành riêng cho các đảng chính trị. Trong
các cộng đồng xã hội, người ta có thể nói đến sự lãnh đạo của một người, một nhóm
người nào đó. Tuy vậy, khi còn tồn tại trong một chế độ xã hội nhất định, do một đảng
chính trị cầm quyền thì người hoặc nhóm người đó vẫn phải tuân theo pháp luật của nhà
nước. Nếu mục tiêu hướng đến của người đó hoặc nhóm người đó phù hợp với mục tiêu
của đảng cầm quyền và chính quyền nhà nước thì có thể hoạt động hợp pháp. Nếu
- 18 -
- Xem thêm -