SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI
TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÀO CAI
CHUYÊN ĐỀ:
PHƯƠNG PHÁP DẠY LỊCH SỬ VIỆT NAM (TKX - TK XVIII:
“CÁC CUỘC CẢI CÁCH DUY TÂN TRONG
LỊCH SỬ DÂN TỘC THỜI TRUNG ĐẠI”
Giáo viên: Đặng Thị Hiền
Tổ: Sử - Địa - GDCD
Lào Cai, tháng 06 năm 2014
Năm học: 2013 - 2014
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cải cách duy tân để phát triển đất nước là xu thế tất yếu trong lịch sử.
Không phải chỉ đến bây giờ, mà nhìn vào quá khứ, vấn đề cải cách, canh tân đất
nước đã từng được đặt ra và thực hiện trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể.
Cải cách là “đổi mới cho tiến bộ hơn, cho phù hợp với sự phát triển chung của
xã hội mà không đụng tới nền tảng của chế độ hiện hành. Có nhiều mức độ cải
cách: cải cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội hoặc có
những cuộc cải cách trong một số mặt. Có nhiều thuật ngữ đồng nghĩa với cải
cách như “duy tân, “cải tổ”, “đổi mới”… nhưng vẫn có những điểm không giống
nhau. Cải cách khác với cải lương, cũng khác cách mạng; nhưng cải cách và
cách mạng có quan hệ với nhau. Cải cách tiến bộ có tác dụng thúc đẩy cuộc cách
mạng phát triển và thắng lợi” [2; 69]. Duy tân là “thay đổi theo cái mới, cái tiến
bộ, bỏ cái cũ, cái lạc hậu trong đời sống xã hội, xây dựng đất nước” [2; 155].
Cải cách duy tân là một hiện tượng lịch sử. Nó có sự hình thành, phát triển
và mất đi. Cải cách cũng là hiện tượng mang trong nó những quy luật. Không
phải trong suốt tiến trình lịch sử dân tộc đều diễn ra cải cách mà nó phải có
những điều kiện, những tác động từ khách quan và chủ quan, không phải triều
đại phong kiến nào cũng thực hiện cải cách. Hiện nay, các nhà sử học đang tập
trung nghiên cứu một số cuộc cải cách có tính chất nổi bật. Đó là cuộc cải cách
của Khúc Hạo năm 907, cuộc cải cách của Hồ Quý Lý cuối thế kỉ XIV - đầu thế
kỉ XV, cuộc cải cách của Lê Thánh Tông cuối thế kỉ XV, cuộc cải cách của
Quang Trung - Nguyễn Huệ cuối thế kỉ XVIII.
Việc nghiên cứu các cuộc cải cách duy tân thời trung đại có ý nghĩa khoa
học và ý nghĩa thực tiễn to lớn. Về ý nghĩa khoa học, chúng ta hiểu được mỗi
cuộc cải cách thực hiện trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, mục đích,
mức độ thành công, tác động của các cuộc cải cách khác nhau. Về ý nghĩa thưc
tiễn, chúng ta sẽ lựa chọn phương pháp giảng dạy chuyên đề phù hợp cho học
sinh. Đồng thời rút ra được những bài học kinh nghiệm quý giá cho công cuộc
cải cách, đổi mới của nước ta hiện nay. Vì vậy, chúng tôi tiến hành viết chuyên
2
đề: “Các cuộc cải cách duy tân trong lịch sử thời trung đại” để làm sáng tỏ
những ý nghĩa trên.
2. Mục đích của đề tài
Đề tài nhằm làm sáng tỏ những nội dung sau:
- Hoàn cảnh lịch sử , mục đích, mức độ thành công, tác động của các cuộc
cải cách.
- Rút ra được những bài học kinh nghiệm quý giá cho công cuộc cải cách,
đổi mới của nước ta hiện nay.
NỘI DUNG
A. CÁC CUỘC CẢI CÁCH, DUY TÂN TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC
TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XVIII
1. Cải cách của Khúc Hạo (907)
a. Hoàn cảnh lịch sử
Năm 905, Khúc Hạo giúp cha giành quyền tự chủ của người Việt ở An
Nam, lúc đó gọi là Tĩnh Hải quân. Khi Khúc Thừa Dụ được nhà Đường phong
3
làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân thì ông được cha phong làm “Tĩnh Hải hành quân
tư mã quyền tri lưu hậu”, tức là chức vụ của người sẽ kế nghiệp cha làm Tiết độ
sứ Tĩnh Hải sau này.
Sử sách ghi chép rất vắn tắt về những năm tháng thời kỳ này nhưng chắc
chắn trong 2 năm trị vì ngắn ngủi của cha, Khúc Hạo đã có đóng góp đáng kể
trong việc trị sự, bởi vậy khi lên nắm quyền, ông là nhà cai trị ôn hoà nhưng rất
vững vàng.
Tháng 7 năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên thay cha làm Tiết độ
sứ Tĩnh Hải quân. Nhà Hậu Lương lên thay nhà Đường công nhận ông làm “An
Nam đô hộ, sung Tiết độ sứ”. Ông đã kế tiếp sự nghiệp của cha một cách tài tình
để củng cố sự nghiệp độc lập của Việt Nam lúc đó từ tay Trung Quốc.
b. Nội dung cải cách
Khúc Hạo đã tiến hành cải cách quan trọng về các mặt. Đường lối chính trị
của ông được sử sách tóm lược ngắn gọn song rất rõ ràng: “Chính sự cốt
chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui”. Khoan dung tức là
không bắt buộc, không quá khắt khe với dân, chống tham quan ô lại. Giản dị là
không làm phiên hà, sách nhiễu bởi nhiều thủ tục quan liêu. Yên vui, “an cư lạc
nghiệp” là lý tưởng của nếp sống mà người nông dân nơi thôn xóm mong đợi.
Khúc Hạo sửa lại chế độ điền tô, thuế mà lực dịch nặng nề của thời thuộc
Đường. Ông ra lệnh “bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê
rõ quê quán, giao cho giáp trưởng (quản giáp) trông coi”.
Từ mô hình của chính quyền đô hộ nhà Đường với An Nam, nhằm khắc
phục tình trạng phân tán quyền lực vào tay các thủ lĩnh địa phương, Khúc Hạo
đã có những cố gắng lớn đầu tiên nhằm xây dựng chính quyền độc lập, thống
nhất từ trung ương đến xã. Ông chia cả nước thành những đơn vị hành chính các
cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã. Mỗi xã đặt ra xã quan, một người chánh lệnh trưởng
và một người tá lệnh trưởng. Một số xã ở gần nhau thời thuộc Đường gọi là
4
hương nay đổi là giáp, mỗi giáp có một quản giáp và một phó tri giáp để trông
nom việc kê hộ khẩu, nhân khẩu và việc thu thuế. Theo sách “An Nam chí
nguyên”, Khúc Hạo đặt thêm 150 giáp, cộng với những giáp trước đây nhà
Đường đặt, cả thảy toàn bộ Tĩnh Hải quân có 314 giáp.
c. Ý nghĩa
Như vậy, những cải cách kinh tế và chính trị của Khúc Hạo đã có ý nghĩa
lớn lao trong công cuộc xây dựng một quốc gia độc lập tự chủ, tách dời khỏi
quyền lực của chính quyền đô hộ phong kiến phương Bắc
Nếu sau các cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, Lý Bí, Triệu Quang Phục...
trước đây, dân tộc ta chỉ giữ được chính quyền trong một thời gian ngắn rồi lại
bị bọn xâm lược quay lại thống trị, thì nay cuộc giành chính quyền và cải cách
của họ Khúc đã mở đầu cho một quá trình liên tục đấu tranh giành cho kỳ được
độc lập dân tộc.
Công cuộc xây dựng nền tự chủ, thống nhất của Khúc Hạo mở ra một thời
kì phát triển mới của xã hội Việt Nam mà các triều đại sau đó sẽ hoàn thành.
Với những đóng góp trong sự nghiệp xây dựng đất nước hồi đầu thế kỉ X, dòng
họ Khúc đã đặt cơ sở quan trọng để Ngô Quyền kết thúc hoàn toàn một nghìn
năm Bắc thuộc của dân tộc bằng chiến thắng Bạch Đằng lịch sử (938).
2. Cải cách của Hồ Quý Ly (cuối thế kỉ XIV – đầu thế kỉ XV)
a. Hoàn cảnh lịch sử
Nửa sau thế kỉ XIV, xã hội Đại Việt lâm vào tình trạng khủng hoảng, mục
nát và suy thoái nghiêm trọng :
Về chính trị: Vua Trần Dụ Tông ăn chơi xa sỉ, trụy lạc, cho xây dựng các
công trình tốn nhiều tiền của và công sức của nhân dân nhằm làm chỗ vui chơi.
Bọn quan lại thừa nước đục thả câu, bòn rút sức người sức của của nhân dân để
phục vụ cuộc sống xa hoa của mình. Trong triều đình nhà Trần có rất nhiều nịnh
thần và việc kéo bè, kéo cánh, tranh giành quyền lực xảy ra liên miên.Tình hình
5
nội bộ rối loạn khiến các nước nhỏ ở phía nam không còn thần phục như trước.
Vì vậy, tình hình chính trị trở nên rối ren.
Về kinh tế: Triều đình không chăm lo cho nông nghiệp nên mất mùa, đói
kém xảy ra thường xuyên, nhiều người phải bán vợ, bán con. Nạn chấm chiếm
ruộng đất xảy ra khắp nơi. Kinh tế suy thoái trầm trọng.
Về xã hội: Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân nổi dậy khắp nơi. Các cuộc
khởi nghĩa đã lôi cuốn nông dân nghèo và hàng loạt nông nô, nô tì ở các điền
trang của vương hầu quý tộc tham gia. Xã hội trở nên bất ổn hơn bao giờ hết.
Về đối ngoại: Năm 1388 ở phía Bắc, nhà Minh sai sứ sang đòi ta phải cống
nộp lương thực và các loại trái cây đặc sản và những báu vật, sản vật quý
hiếm.Từ đầu những năm 60 của thế kỉ XIV, Champa hùng mạnh lên thường
xuyên đánh phá. Cuộc chiến tranh với Champa đã cho thấy sự suy yếu rõ rệt
của nhà Trần vừa gây thêm nhiều khó khăn cho triều đình và nhân dân ta, làm
cho cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng hơn.
Tóm lại, xã hội Đại Việt cuối thế kỉ XIV đã lâm vào tình trạng khủng
hoảng sâu sắc và toàn diện. Trong khi ngoài biên cương không những quân
Cham pa liên tục tiến đánh mà lúc này Đại Việt còn đứng trước nguy cơ về một
cuộc xâm lược ngày càng đến gần của quân Minh. Đây chính là những tiền đề
dẫn đến cuộc cải cách của Hồ Quý Ly.
b. Mục đích của cuộc cải cách
Trước những yêu cầu khách quan của xã hội thời Trần với mong muốn cứu
vãn tình thế, Hồ Quý Ly đã tiến hành cuộc cải cách toàn diện trên các lĩnh vực:
chính trị quân sự, kinh tế -xã hội và văn- hóa giáo dục….
c. Nội dung cải cách
* Trên lĩnh vực chính trị và quân sự:
- Năm 1397 thay đổi một số lộ trấn trấn và quy định về cơ chế làm việc:
+ Đổi các lộ xa làm trấn, đặt thêm chức An Phủ phó sứ, Trấn thủ phó sứ
cùng nhiều chức quan khác ở các cấp châu, huyện.
6
+ Đặt ra các chức quan lớn như Đô hộ, Đô thống, Thái thú (cai quản việc
qân sự và dân sự), đặt chức Liêm phóng sứ tại mỗi lộ để dò xét tình hình nhân
dân.
- Hồ Quý Ly cho xây dựng một kinh thành ở An Tôn (Vĩnh Phúc, Thanh
Hóa) còn gọi là Thành Nhà Hồ - tuy là một huyện nhỏ nhưng lại có đầy đủ các
dạng địa hình, từ sông, biển đến núi non hùng vĩ.....
Việc xây thành tại An Tôn có 1 ý nghĩa quan trọng bởi nếu cho rằng kinh
đô Thăng Long là chốn phồn hoa đô hội phù hợp với việc xây dựng và phát triển
kinh tế thì An Tôn lại có thế mạnh về quân sự quốc phòng, nhất là trong bối
cảnh đất nước đang suy yếu và đứng trước nguy cơ ngoại xâm. Mặt khác, với sự
tính toán khôn ngoan của mình, Hồ Quí Ly còn nhằm mục đích tránh xa kinh
thành Thăng Long- nơi tồn tại đã hơn 200 năm của nhà Trần để hạn chế sự can
thiệp từ vương hàu, quí tộc nhà Trần vào công cuộc cải cách của mình.
- Chấn chỉnh võ bị, tăng cuờng sức mạnh quân đội: đưa những người khoẻ
mạnh và giảm bớt người yếu....
- Cải tiến các loại vũ khí: tiêu biểu là Hồ Nguyên Trừng (con của Hồ Quý
Ly ) đã chế tạo ra súng thần cơ, thuyền chiến cổ lâu đi biển...
* Trên lĩnh vực kinh tế:
- Cải cách quan trọng nhất của Hồ Quí Ly là phép hạn điền vào năm
1397 (Tất cả mọi người từ quý tộc cho đến thứ dân, đều bị hạn chế số ruộng tư
(tối đa:10 mẫu) trừ đại vương và trưởng công chúa. Người nào nhiều ruộng thì
được phép lấy ruộng chuộc tội còn ruộng thừa thì sung công).
- Năm 1398, Hồ Quý Ly cho quan ở kinh thành về các địa phương làm lại
sổ ruộng đất với mục đích là để kiểm tra việc thực hiện chủ trương hạn điền.
Những ai có ruộng tư thi phải kê khai rõ số ruộng và phải cắm thẻ ghi tên của
mình trên mảnh ruộng đó. Nếu sau 5 năm ruộng nào không có ai nhận thì nhà
nước sung công.
7
- Bên cạnh đó, ông còn cho phát hành tiền giấy (Năm 1396, Hồ Quý Ly
cho ban hành tiền giấy thu hồi hết các loại tiền đồng gọi là “thông bảo hội
sao” có 7 loại hình vẽ khác nhau. Nhà nước quy định làm giả phải tội chết, 1
quan tiền đồng đổi được 1 quan 2 tiền giấy, ai dùng tiền đồng bị bắt cung bị tội
như làm giả. Trước phản ứng của nhân dân, năm 1403 nhà Hồ ban điều luật về
tội không tiêu tiền giấy, nâng giá hàng và đóng cửa hàng, đặt chức thi giám, ban
mẫu về công thước thương đấu).
Đây là việc làm mới mẻ và mang tính chất thiết thực nhằm giải quyết tình
trạng khủng hoảng tạm thời và đồng thời bổ sung một lượng đồng cần thiết để
chế tạo vũ khí.
- Ngoài ra, ông còn cho đổi mới chế độ thuế khoá (Năm 1402 Hồ Quý Ly
cho định lại thuế đinh và thuế ruộng. Thuế đinh chỉ đánh vào những người có
ruộng được chia, còn không phải đóng thuế đinh đó là người không ruộng,trẻ
mồ côi, đàn bà góa. Và thuế được đánh theo lũy tiến : người có 5 sào ruộng nộp
5 tiền, có trên 2 mẫu 6 sào nộp 3 quan)
Đó đều là những cải cách tiến bộ nhằm tước giảm thế lực kinh tế của bọn
quí tộc nhà Trần và giải quyết tình trạng kiệt quệ về mặt tài chính của triều đình
* Trên lĩnh vực xã hội:
- Hồ Quý Ly chú trọng đến phép hạn nô (Năm 1401 Hồ Quý Ly quy định
các quan lại , quí tộc theo các phẩm cấp chỉ được nuôi một số nô tì, nông nô
nhất định số thừa ra sẽ sung công. Nhà nước đền bù 5 quan tiền cho 1 gia nô trừ
loại mới nuôi với gia nô nước ngoài , các gia nô còn lại thị phải ghi dấu hiệu ở
trên trán theo tước hiệu của chủ....)
- Cho quan địa phương khám xét nhà giàu có thừa thóc, bắt phải bán thóc
cho dân đói theo thời giá, khi nạn đói xảy ra năm 1403 đồng thời đặt Quảng Tế
Thư- một bệnh viện công để chữa bệnh cho nhân dân.
* Trên lĩnh vực văn hoá- giáo dục:
- Hồ Quý Ly kịch liệt phản đối lối học sáo rỗng, nhắm mắt học vẹt lời nói
của cổ nhân để xét việc trước mắt : Ông đích thân soạn sách “Minh Đạo” gồm
8
14 thiên đưa ra những ý kiến xác đáng về Khổng Tử và những nghi vấn có căn
cứ về sách “Luận ngữ”- một trong những tác phẩm kinh điển của Nho gia.
- Hồ Quý Ly cũng có hoài bão xây dựng một nền văn hoá dân tộc: Ông
trọng dụng chữ Nôm, tự mình dịch “Thiên Vô Dật” để dạy cho vua Trần Nhuận
Tông và dịch sách Kinh thi để cho các nữ quan dạy các phi tần, cung nữ.
- Quan tâm mở thêm trường học và định lại thi cử cho có qui củ, tổ chức
các kì thi sát hạch để tuyển chọn nhân tài, mời ra làm quan...
- Đặc biệt tiến bộ trông thấy của công cuộc cải cách là ở chính sách tuyển
dụng quan lại bằng thi cử, thay thế chế độ quan liêu thân tộc cũ. Đây là một chế
độ tuyển dụng tiến bộ, với chế độ này, Hồ Quý Ly muốn đưa giáo dục khoa cử
đến mọi tầng lớp nhân dân, ai cũng được thi, ai cũng có thể làm quan và điều đó
đồng nghĩa với việc tìm kiếm nhân tài được tổ chức sát sao trên qui mô toàn
quốc.
d. Kết quả : thất bại.
e. Nguyên nhân thất bại
* Nguyên nhân khách quan:
- Cuộc cải cách buộc phải bỏ dở bởi ta phải tiến hành kháng chiến chống
quân Minh xâm lược.
- Cuộc cải cách của Hồ Quí Ly là cuộc cải cách đầu tiên trong lịch sử chế
độ phong kiến Việt Nam nên không thể tránh khỏi những yếu điểm, những hạn
chế mà chính nó lại trở thành vật cản khiến những chính sách cải cách của ông
đi vào ngõ cụt, “chân không đến đất mà cật không đến trời”- đó là bài học mất
lòng dân...
* Nguyên nhân chủ quan:
- Những biện pháp cải cách ấy mặc dù có vẻ toàn diện và tiến bộ song đặt
trong bối cảnh bấy giờ thì nó còn tồn tại rất nhiều hạn chế:
9
+ Chính sách hạn điền gặp phải sự phản kháng quyết liệt của vương hầu
quí tộc nhà Trần. Đặc biệt khiến ông mất đi sự ủng hộ của những địa chủ có
ruộng đất hơn 10 mẫu.
+ Việc ban hành tiền giấy và bắt buộc lưu thông trong nhân dân dưới sự
cưỡng chế của triều đình không được sự ủng hộ của người dân, đặc biệt là tầng
lớp thương buôn lớn. Hơn nữa tiền giấy rất khó giữ (nhất là nông dân- thường
xuyên phải tiếp xúc với nước) và dễ làm giả.
+ Chính sách hạn nô về bản chất cũng chỉ là khiến những người nô tì,
gia nô thay đổi chủ chứ không thay đổi được số phận, nói cách khác họ vẫn là
giai cấp cuối cùng của xã hội và vẫn bị bóc lột.
+ Đặc biệt là việc xây thành ở An Tôn đã để lại hậu quả nghiêm trọng
về mặt xã hội. Đó là khi đời sống nhân dân đang vô cùng cực khổ vì phải đối
mặt với khủng hoảng thì lại phải gồng mình đi lao dịch xây thành. Điều lại trong
lòng dân sự oán hận
Chính những điều ấy là làm Hồ Quý Ly bị cô lập giữa cả nhân dân và quan
lại, khiến ông không thể phát triển những chính sách cải cách của mình như
mong muốn.
- Bản thân Hồ Quý Ly cũng là một con người nhiều thủ đoạn độc đoán, duy
ý chí khiến bản thân ông vốn dĩ không thể đưa "con thuyền" cải cách cập đến
bến bờ thành công như mong đợi.
f. Ý nghĩa:
- Qua cuộc cải cách trên cho ta thấy rằng Hồ Quý Ly là một con người có
tài năng, hành động có tầm nhìn, có năng lực và sự quyết đoán. Hồ Quý Ly đã
thực hiên những cuộc cải cách ấy, với một quyết tâm cao, một tài năng xuất
chúng và một bản lĩnh phi thường. Ông cũng đồng thời là người mở đầu cho một
giai đoạn cải cách quan trọng trong lịch sử Việt Nam, thời kì văn minh Đại Việt.
10
- Những chính sách cải cách đó dù mang ý nghĩa tích cực nhưng vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội và những đòi hỏi cấp thiết của dân
tộc.
- Bài học ông để lại từ những chính sách cải cách là không để mất lòng dân.
Cải cách Hồ Quý Ly là toàn diện, lấy kinh tế xã hội làm trọng tâm, trong
đó “hạn điền”, “hạn nô” là quan trọng nhất. Những mục tiêu cải cách mà Hồ
Quý Ly mong muốn, sau này đã được Lê Thánh Tông kế thừa, phát huy mặt tích
cực, phủ định cái tiêu cực, dẫn tới thành công.
3. Cải cách của vua Lê Thánh Tông (những năm 60 của thế kỉ XV)
a. Hoàn cảnh lịch sử
Triều Hậu Lê kéo dài 361 năm (1428 - 1789) được chia làm hai thời kì: Lê
sơ và Lê Trung hưng. Thời Lê sơ được tín từ khi Lê Lợi lên ngôi (1428) đến khi
Mạc Đăng Dung (1527) gồm 11 đời vua, trong đó Lê Thái Tổ là người sáng lập,
Lê Thánh Tông là người đưa vương triều Lê đến giai đoạn thịnh đạt nhất. Thời
của vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497), chế độ phong kiến đạt đến đỉnh cao, trở
thành một nước toàn trị, cực quyền. Đây là một bước ngoặt lịch sử, một sự
chuyển đổi mô hình từ nền quân chủ quý tộc thời Lý – Trần mang đậm tính Phật
giáo máu sắc Đông Nam Á sang một nền quân chủ quan liêu Nho giáo Đông
Nam Á [3;117]. Điều này là do tác động của cuộc cải cách do vua Lê Thánh
Tông tiến hành.
Trước cải cách của vua Lê Thánh Tông, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước
và hành chính mang tính phân tán quyền lực của nhà nước quân chủ quan lieu
trung ương tập quyền bị hạn chế; chính quyền trung ương chưa vững mạnh, nội
bộ triều đình mâu thuẫn, tranh giành địa vị, quyền lực. Nhận thấy những hạn chế
trên, vua Lê Thánh Tông tiến hành cải cách trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế, xã hội trong phạm vi cả nước.
b. Mục đích cải cách
11
Cải cách hành chính của Lê Thánh Tông nhằm giải quyết khủng hoảng
thiết chế chính trị diễn ra từ cuối đời Trần với yêu cầu thay thế thiết chế chính trị
phong kiến quý tộc Phật giáo bằng thiết chế chính trị phong kiến quan liêu Nho
giáo - điều mà Hồ Quý Ly muốn làm nhưng chưa làm được. Tư duy chỉ đạo
(hay như ngày nay nói là “đổi mới tư duy”) của Lê Thánh Tông là nhằm xây
dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh.
c. Nội dung cải cách
* Về bộ máy hành chính và phân cấp đơn vị hành chính
Xuất phát từ mục tiêu của cuộc cải cách nhằm khắc phục những hạn chế,
yếu kém của bộ máy hành chính và thực trạng tình hình chính trị để có được một
nhà nước tập quyền mạnh, có năng lực, tập trung được quyền lực của chính
quyền trung ương. Lê Thánh Tông trước tiên bãi bỏ các quan chức và cơ quan
trung gian giữa vua và bộ phận thừa hành. Vua trực tiếp nắm quyền kể cả tổng
chỉ huy quân đội, chỉ đạo mọi việc trọng yếu và quan hệ làm việc trực tiếp với
các cơ quan thừa hành. Giúp vua bàn bạc và chỉ đạo công việc khi cần thiết có
các quan đại thần như Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Thiếu sư, Thái uý...
Cơ quản lý nhà nước ở trung ương là 6 Bộ: Lại, Lễ, Binh, Hình, Công, Hộ.
6 bộ phụ trách các hoạt động khác nhau của nhà nước. Giúp việc cho 6 bộ là 6
tự. Mỗi bộ có 6 khoa tương ứng làm công tác giám sát các bộ.
Những cải cách về các cấp hành chính cũng mạnh mẽ. Lê Thánh Tông cho
bỏ hết những đơn vị trung gian lớn là 5 đạo. Sau đó ông chia cả nước thành 12
đạo thừa tuyên. Dưới thừa tuyên là phủ, châu ,huyện ,xã.
Cùng với việc cải tổ hệ thống đơn vị hành chính thống nhất trong cả nước
là việc tổ chức lại bộ máy tổ chức chính quyền các cấp. Ở mỗi đạo thừa tuyên
đều có ba ty ngang nhau về quyền, cùng quản lý công việc chung. Đô tổng binh
sứ ty phụ trách về quân sự. Thừa tuyên sứ ty phụ trách về dân sự. Hiến sát sứ ty
phụ trách công việc thanh tra, giám sát các quan lại địa phương mình, thăm nom
12
tình hình đời sống nhân dân. Các ty chịu trách nhiệm trực tiếp theo trước triều
đình theo ngành dọc.
Đứng đầu phủ có tri phủ, đứng đầu huyện có tri huyện, đứng đầu xã có xã
trưởng.
Trong cuộc cải cách hệ thống quan lại, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý đến
vấn đề tuyển dụng bổ nhiệm quan lại, vấn đề quản lý, phân định chức năng
quyền hạn trách nhiệm, tiêu chuẩn đánh giá quan lại. Ông cho bãi bỏ chế độ
tuyển dụng các Vương hầu, quí tộc vào các trọng chức của triều đình. Tiêu
chuẩn để được tuyển dụng và bổ nhiệm làm quan là phải có học thức đã được
kiểm tra qua khoa cử, không phân biệt thành phần xuất thân. Các thân vương
công hầu được ban cấp bổng lộc nhiều, nếu không đỗ đại, không có năng lực thì
cũng không đựoc làm quan.
Ở cấp địa phương cũng đựơc thực hiện theo chính sách này. Bên cạnh vịêc
tuyển dụng quan lại là vịêc đánh giá, xét duyệt nhằm thăng giáng các chức quan.
Việc này được căn cứ và những kỳ khảo khoá sát hạch.
Như vậy, đây là đợt cải cách mạnh mẽ này của Lê Thánh Tông nhằm vào
hệ thống hành chính và đội ngũ quan lại. Những chính sách và biện pháp này đã
tạo ra một hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương mang tính chất
quan liêu điển hình của lịch sử trung đại Việt Nam. Hệ thống chính quyền này
tồn tại suốt từ Lê Thánh Tông đến khi kết thúc thời kỳ trung đại Việt Nam. Đặc
biệt là chính sách tuyển dụng quan lại thông qua học vấn Nho học. Ngay cả sau
cuộc cải cách lớn của Minh Mạng thì chính sách đó vẫn còn được coi trọng và
thực hiện. Đó là một sự tác động lớn mạnh của cải cách Lê Thánh Tông.
* Về kinh tế
Lê Thánh Tông có ý thức củng cố kinh tế tiểu nông và xây dựng lại làng
xã. Điểm khác nhau giữa Nhà nước phong kiến Lê sơ với Nhà nước Trần là một
tập hợp liên kết mới, với những chính sách cải cách kinh tế, chính trị văn hoá.
13
Về kinh tế, nhà nước Lê sơ đã kế thừa kết quả của những cải cách kinh tế của
nhà Hồ, hạn chế tối đa sự tồn tại và hình thành những trang trại lớn. Quí tộc cũ
đã bị suy yếu trong cải cách của Hồ Quý Ly đến thời thuộc Minh thì tàn lụi hẳn.
Chế độ lộc điền được khởi đầu từ vua Lê Thái Tổ, các vua kế vị tiếp tục thực
hiện. Đến vua Lê Thánh Tông thì hoàn chỉnh hẳn, vừa đảm bảo quyền lợi tối đa
cho công thần, quan lại cao cấp, quý tộc tôn thất; nhưng ruộng đất lộc điền ban
cấp lại rất phân tán lại hạn chế được sự tập trung quyền lợi của họ, ngăn cản
khuynh hướng cát cứ đối lập với triều đình. Mặt khác sở hữu lộc điền vẫn thuộc
về nhà nước phong kiến, quan lại được ban cấp lộc điễn khi về hưu phải trả lại
ruộng đất cho Nhà nước. Và tuỳ theo phẩm tước khác nhau mà được ban cấp
một số “thế nghiệp điền”. Số ruộng thế nghiệp điền chỉ là một phàn rất nhỏ so
với lộc điền thì được phép lưu truyền cho con cháu nhiều đời sau (cả nội và
ngoại đều được triều đình cho phép tái sử dụng). Chế độ lộc điền được xây dựng
trên cơ sở ruộng đất công làng xã và ruộng đất của các quí tộc cũ suy tàn. Ruông
đất công và nông dân làng xã là đặc điểm kinh tế xã hội thời Lê sơ và các thời
sau đó. Đây là sự ảnh hưởng lớn về ruộng đất của cuộc cải cách Lê Thánh Tông.
Không phải cuộc cải cách nào cũng làm được điều này.
Lê Thánh Tông còn hoàn chỉnh chế độ quân điền. Chế độ quân điền được
thực hiện là một biến chuyển quan trọng trên con đường phát triển của chế độ
phong kiến Việt Nam. Sở hữu nhà nước được mở rộng dưới triều Hồ nay lại
được củng cố và chiếm ưu thế, được xác định vững chắc. Trên danh nghĩa và cả
thực thế, ruộng đất công làng xã vần thuộc nhà nước. Nhà nước thu tô thuế, thực
hiện quyền sở hữu và chủ quyền quốc gia. Vậy là dưới chế độ quân điền, nông
dân làng xã tồn tại với hai tư cách là thần dân của triều đình và là tá điền của địa
chủ tối cao – hoàng đế. Một cá nhân nông dân phải gắn bó với làng xã và với
nhà nước trung ương thông qua làng xã.
Sự tồn tại bộ phận ruộng công phổ biến kéo dài là đặc thù của kinh tế thời
Trung đại Việt Nam. Nhìn chung xu thế ruộng đất công thu hẹp dần, nhưng
14
cũng có lúc có nơi, ruộng đất công xã vẫn được phục hồi. Chính sự tồn tại của
chế độ quân điền đã hạn chế nhiều sự suy giảm của chế độ ruộng công làng xã.
Làng xã quan chế độ quân điền trở thành cơ sở kinh tế xã hội của chế độ
quân chủ tập quyền chuyên chế. Đây chính là cơ sở để triều đình tìm cách chi
phối văn hoá tư tưởng làng xã. Tuy nhiên, trong chế độ quân điền, Nhà nước
phải chấp nhận một nguyên tắc là ruộng công của làng nào thì làng đó sử dụng,
tự phân chia cho các thành viên công xã. Đây cũng chính là cơ sở kinh tế cho sự
tồn tại của tính tự trị trong làng xã. Lệ làng cho sự từ điều khiển, tự điều chỉnh
mà triều đình không thể chi phối được. Đôi khi lệ làng cũng mâu thuẫn với phép
nước. Lê Thánh Tông ra lệnh cho làng nào làm Hương ước phải cử các Nho sĩ
thực hiện. Nền văn hoá dân gian, hội hè, ca dao được phát triển dựa trên tính tự
trị này.
Một hạn chế nữa của chế độ quân điền là nó chứa đựng sâu sắc tính chất giai cấp
và bộ lộ những mặt tiêu cực hạn chế. Nó chứa đựng những mâu thuẫn nan giải,
nó trói buộc người nông dân vào ruộng đất để bóc lột tô thuế và chịu mọi gánh
năng sưu dịch của nhà nước.
Chế độ quân điền thế kỉ XV đã góp phần quan trọng vào sự xác lập và
thống trị của những quan hệ sản xuất phong kiến: quan hệ sản xuất địa chủ - tá
điền trong xã hội Đại Việt.
Chính sách khẩn hoang và đồn điền
Xuất phát từ yêu cầu nhanh chóng phục hồi nền sản xuất nông nghiệp sau
một thời gian chiến tranh kéo dài, nhà nước Lê sơ ngày từ sớm, đã có những
chính sách khuyến khích nhân dan các làng xã khai hoang lập làng, đặc biệt
dưới thời Lê Thánh Tông. Có một số điều trong bộ luật Hồng Đức và những
huấn dụ của ông điều khuyến khích việc khai hoang, lập làng, hợp pháp hoá việc
15
khai hoang lập làng trong nhân dân, góp phần giải quyết tình hình lưu vong của
dân chúng lúc đó.
Song song với chính sách khai hoang, lập làng, Lê Thánh Tông còn đẩy
mạnh việc khai hoang lập đồn điền. Chính sách này bắt đầu được thi hành từ
thời Thái Tổ và đựơc mở rộng dưới thời Thánh Tông. Chỉ dụ năm 1481 nêu rõ
mục đích lập đồn điền nhà nước “để khai thác hết sức nông nghiệp, mở rộng
nguồn súc tích cho nhà nước.” Nhiều sở đồn điền được thành lập chuyên lo việc
mộ dân lưu vong khai hoang. Lực lượng được huy động ở hình thức khai hoang
này bao gồm cả quân lính đồn trú, tù binh, tội nhân. Nhà nước đạt ra cơ quan
chuyên trách công việc khai hoang, lập đồn điền do các chức quan chánh phó sứ
dồn điền phụ trách. Như vậy, chính sách khai hoang mở rộng đồn điền đã nhận
đựơc sự quan tâm lớn lao của chính quyền trung ương. Diện tích đất mới khai
hoang lại thuộc sở hữu công nhà nước.
Như vậy, với ba chính sách về ruộng đất: lộc điền, quân điền và chính sách
khai hoang lập đồn điền, Lê Thánh Tông đã xác lập được quyền sở hữu rộng rãi
và tối cao về ruộng đất - thứ tư liệu sản xuất quan trọng nhất. Việc xác lập này
có tác dụng đến những thế kỉ sau đó. Đồng thời nó có tác dụng làm cơ sở cho sự
tồn tại và phát triển của chính quyền trung ương tập quyền.
Những chính sách và biện pháp nhằm phát triển kinh tế: Bên cạnh việc chú
trọng nông nghiệp, các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng dưới thời trị vì
của Lê Thánh Tông cũng phát triển rực rỡ. Nghề in và làm giấy ở Đại Việt đạt
một trình độ cao của thế giới thời bấy giờ. Số lượng sách in thời này khá đồ sộ.
Đặc biệt nhất thời kỳ này là thành tựu trong công nghệ chế tạo vũ khí và đồ sắt
chiếm ưu thế. Đồ gốm, sứ thời Lê sơ phát triển đạt được độ tinh xảo và hoa văn
đẹp. Việc giao thương buôn bán đã chắp cánh cho đồ gốm thời này đi xa và hiện
nay bộ sư tập về đồ gốm Lê sơ cũng rất phong phú.
Thương mại và giao dịch buôn bán với các lân bang phát triển mạnh, cùng
với bước chân viến chinh xa xôi của đội quân đế chế Đại Việt. Để tạo thuận tiên
16
cho việc mua bán Lê Thánh Tông đã từng khuyến dụ các quan rằng: Trong dân
gian hễ có dân là có chợ để lưu thông hàng hoá, mở đường giao dịch cho dân.
Các xã chưa có chợ có thể lập thêm chợ mới. Những ngày họp chợ mới không
được trùng hay trước ngày họp chợ cũ để tránh tình trạng tranh giành khách
hàng của nhau. Có thể dưới thời Lê Thánh Tông các chợ được mở mang nhiều.
Chính nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên nền nông
nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Các nghề thủ công như: Dệt lụa, ươm tơ, dệt vải,
nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô Thăng Long 36
phố phường sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận ngày nay. Phường Yên
Thái làm giấy, Phường Nghi Tàm dệt vải lụa, Phường Hà Tân nung vôi, Phường
Hàng Đào nhuộm điều, Phường Ngũ Xá đúc đồng, Phường gạch và gốm sứ Bát
Tràng và nhiều phường khác nữa...
* Về Luật pháp
Nổi bật nhất là về cải cách pháp luật để nâng cao pháp trị: Đã làm ra được
Bộ luật Hồng Đức còn gọi là Quốc triều hình luật mà cho đến nay các nhà luật
học thế giới còn đánh giá cao. Bộ Quốc triều hình luật của nhà Hậu Lê đã được
hoàn thiện trong thời Lê Thánh Tông, nên còn được gọi là Luật Hồng Đức. Với
bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi và thuộc
loại sớm trên thế giới.
Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm của nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ
đạo việc biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hoá một nhà nước phong
kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa, lấy dân làm gốc.
Bộ luật Hồng Đức được lưu lại đến ngày nay bao gồm 13 chương với 700
điều, nội dung cơ bản của bộ luật như sau:
- Giữ cho đất nước luôn ở thế chủ động đối phó với quân xâm lược nước
ngoài;
17
- Giữ nghiêm kỷ cương, phép nước;
- Chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng của sự ổn định kinh
tế xã hội;
- Mở rộng giao lưu khuyến khích thủ công nghiệp, thương nghiệp lành
mạnh;
- Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của muôn dân, chống tham nhũng triệt để,
chống sự lạm quyền và ức hiếp dân chúng.
- Khuyến khích nuôi dưỡng thuần phong mỹ tục;
- Bênh vực và bảo vệ quyền lợi phụ nữ
- Chính sách hình sự nghiêm minh nhưng nhân đạo.
Lê Thánh Tông là người thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban hành.
Một lần, ông đã thu lại quyền chỉ huy của tổng quân đô đốc Lê Thiệt vì con trai
Lê Thiệt giữa ban ngày phóng ngựa trên đường phố và dung túng gia nô đánh
người. Lê Thánh Tông thường bảo với các quan rằng: "Pháp luật là phép tắc
chung của Nhà nước, ta và các người phải cùng tuân theo".
Giáo sư luật học trường ĐH Luật Harward, Oliver Oldman, Chủ nhiệm
khoa Đông Á đã nhận xét: "Triều đại nhà Lê ở Việt Nam vào thế kỷ đặc biệt của
mình (thế kỷ XV - thời kỳ Phục hưng ở châu Âu - NV) đã nỗ lực xây dựng một
quốc gia dân tộc vững mạnh để bảo vệ quyền tư hữu hợp pháp của con người
thông qua hệ thống pháp luật tiến bộ, trong đó có nhiều điều đã có thể sánh
ngang về mặt chức năng với những quan điểm pháp luật ở phương Tây thời cận
đại” (The Le Code - Nguyễn Ngọc Huy, Tạ Văn Tài,... Ohio University Press
Athens Ohio - London 1987).
* Những cải cách về quân sự
18
Lê Thánh Tông ra sắc chỉ đầu tiên là chỉnh đốn lại quân đội, đôn đốc và
thực hiện các bước để tăng cường các khả năng chiến đấu của các vệ quân năm
đạo. Ông thường thân chinh đi tuần phòng ở các vùng biên ải xa xôi cùng với
binh lính và là tấm gương tốt cho các quan phụ trách võ bị.
Việc canh phòng và khuyến khích các quan lại ở biên cương thường cảnh
giác với các âm mưu xâm nhập và xử lý kịp thời các sự việc lãnh thổ với bên
ngoài ở thời ông là rất chặt chẽ và cẩn thận nên triều đình nhà Minh rất tôn trọng
và có phần e ngại. Trong sử Việt còn nhắc đến việc Lê Thánh Tông ra sắc chỉ
phải cảnh giác với lực lượng nội gián là các gia nô người Ngô (số người nhà
Minh tự nguyện xin được ở lại sau khi bị bắt làm tù binh trong cuộc chiến trước
đây của Lê Lợi).
Theo các sử gia, thì vũ khí quân sự dưới thời Lê Thánh Tông đã có những
tiến bộ vượt bậc, do tiếp thu các kỹ thuật chế tạo súng hỏa công cá nhân từ
phương Tây và với số vũ khí thu được trước đây trong cuộc kháng chiến với nhà
Minh, kết hợp kỹ thuật vũ khí của Đại Việt thời nhà Hồ đã tạo thành một bộ vũ
khí đa dạng và hùng mạnh.
Lê Thánh Tông rất chú ý đến việc tích trữ lương thảo ở các vùng biên
cương để sử dụng cho quân lương khi cần thiết. Một nghệ thuật làm lương khô
thời Lê Thánh Tông được sử sách ghi lại là một kỹ thuật đặc biệt của Đại Việt,
đó là đồ (hấp) thóc chín và sấy khô. Loại lương khô này có thể cất giữ vài năm
không bị mất phẩm chất và rất tiện cho việc vận chuyển và sử dụng trong chiến
tranh, đặc biệt là dùng cho quân đội viễn chinh.
Lê Thánh Tông cải tổ quân đội mạnh mẽ về mặt tổ chức, trước đó quân đội
chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ có vệ, sở. Bên cạnh
còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ. Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê
Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương. 43 điều quân
19
chính là luật quân đội Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của
ông rất nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao.
d. Ý nghĩa
Thông qua cải cách, Lê Thánh Tông đã tạo được hệ thống hành chính
thống nhất trong phạm vi cả nước. Hệ thống khá gọn gàng với chức trách phân
minh, bảo sự chỉ đạo và tập trung quyền lực của trung ương. Đây là mô hình tiên
tiến nhất của chế độ quân chủ phong kiến đương thời. Trong đó, trung ương và
địa phương gắn liền nhau, quyền lực được đảm bảo từ trên xuống dưới. Đây là
cuộc cải cách toàn diện và thành công, tác động lớn tới các cuộc cải cách sau
này.
Cải cách hành chính của Lê Thánh Tông đã là nhân tố quyết định tạo nên
triều đại phong kiến nhà Lê huy hoàng, thịnh trị nhất trong lịch sử phong kiến
Việt Nam. Cuộc cải cách đã để lại cho ngày nay nhiều bài học quý giá.
4. Cải cách của vua Quang Trung (cuối thế kỉ XVIII)
a. Hoàn cảnh lịch sử
Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), trước khi đem quân ra Bắc tiêu
diệt quân Thanh xâm lược, Nguyễn Huệ xưng đế đặt niên hiệu là Quang Trung.
Phạm vi quản lý của triều đại Quang Trung trong những năm 1789-1792 bao
gồm toàn bộ Bắc Hà vào đến đèo Hải Vân. Năm Kỷ Dậu (1789), dưới sự lãnh
đạo của người anh hùng “áo vải, cờ đào” Quang Trung - Nguyễn Huệ, nhân dân
ta đã đập tan 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, làm nên chiến thắng Ngọc Hồi
- Đống Đa. Sau đó, vua Quang Trung tiếp tục sự nghiệp xây dựng đất nước với
những chính sách kinh tế mới mẻ, táo bạo.
Trong Chiếu Lên ngôi, vua Quang Trung đã tuyên bố: “Nhân nghĩa, trung
nghĩa là đạo lớn của người. Trẫm nay cùng dân đổi mới!”. Vì vậy, ngay sau
chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu vang dội, nhà vua đã bắt tay vào công cuộc
20
- Xem thêm -