Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu ...

Tài liệu Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp

.PDF
170
260
84

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT *******000******* NGUYỄN DUY GIẢNG CÁC CHỦ THỂ TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TRƯỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 62.38.40.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Độ HÀ NỘI - NĂM 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Trần Văn Độ. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả các số liệu và kết quả nghiên cứu đó. Luận án này chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Luận án NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra ĐTV Điều tra viên KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân TTHS Tố tụng hình sự VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Giới thiệu về Luận án ................................................................................. 1 2. Lý do lựa chọn Đề tài Luận án.................................................................... 1 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................. 3 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án ................................................ 4 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................. 6 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài Luận án ................................. 6 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước ................................................... 6 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ................................................ 14 1.1.3. Khái quát về những kết quả đã nghiên cứu có liên quan đến Đề tài Luận án .................................................................................................... 18 1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài Luận án ............................... 27 1.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ..................................... 27 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC CHỦ THỂ TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........................................ 29 2.1. Các chủ thể trong tố tụng hình sự .......................................................... 29 2.2. Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam ...... 36 2.2.1. Khái quát chung về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam ...................................................................................... 36 2.2.2. Quá trình phát triển quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................ 39 2.3. Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự một số nước trên thế giới .................................................................................................. 51 2.3.1. Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự một số nước theo truyền thống án lệ .................................................................... 52 2.3.2. Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự một số nước theo truyền thống luật dân sự Châu Âu lục địa................................. 56 2.3.3 Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự một số nước theo mô hình mới chuyển đổi ................................................................... 61 Kết luận Chương 2 ....................................................................................... 66 Chương 3: THỰC TRẠNG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CÁC CHỦ THỂ TIẾN HÀNH TỐ TỤNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ............................................................................................. 71 3.1. Quy định hiện hành về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc cơ quan điều tra, về các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và thực tiễn áp dụng ................................................................................ 71 3.2. Quy định hiện hành về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn áp dụng ...................................................................... 86 3.3. Quy định hiện hành về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc toà án nhân dân và thực tiễn áp dụng ............................................................................... 98 Kết luận Chương 3 ..................................................................................... 103 Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC CHỦ THỂ TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRƯỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP ........................................................................ 106 4.1. Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với việc hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam ......................... 106 4.2. Hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc CQĐT và quy định về cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ....................................................................................................... 111 4.3. Hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc viện kiểm sát nhân dân................................................................................................ 117 4.4. Hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc toà án nhân dân ..................................................................................................... 127 4.5. Hoàn thiện một số quy định khác có liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự............................................................................................ 132 Kết luận Chương 4 ..................................................................................... 134 KẾT LUẬN ................................................................................................... 139 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................................ 143 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 144 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 161 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu về Luận án Luận án này được thực hiện theo quy định tại Quy chế đào tạo sau đại học của Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài phần mở đầu, danh mục các công trình công bố kết quả nghiên cứu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục kèm theo Luận án, nội dung chính của Luận án có 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài Luận án Chương 2: Những vấn đề lý luận về chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật tố tụng hình sự Chương 3: Thực trạng Luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về các chủ thể tiến hành tố tụng và thực tiễn áp dụng Chương 4: Định hướng hoàn thiện Luật tố tụng hình sự Việt Nam về các chủ thể tiến hành tố tụng trước yêu cầu cải cách tư pháp 2. Lý do lựa chọn Đề tài Luận án Cùng với tiến trình đổi mới toàn diện đất nước trên các lĩnh vực, việc đổi mới tổ chức và hoạt động tư pháp đã và đang được Đảng, Nhà nước và toàn dân hết sức quan tâm, là nhiệm vụ vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài trong quá trình phát triển đất nước. Trong lĩnh vực TTHS, một trong những nội dung trọng tâm của cải cách tư pháp là nghiên cứu hoàn thiện các quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng, bao gồm cơ quan tiến hành TTHS (CQĐT, VKS, tòa án) và những người tiến hành tố tụng trong các cơ quan này. Quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng trong TTHS ở nước ta đã có một quá trình hình thành và phát triển theo tiến trình phát triển của đất nước, nhất là từ sau Cách mạng tháng 8/1945 cho đến khi có Hiến pháp năm 1992, BLTTHS năm 2003, Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân và Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004. Tuy vậy, qua gần 10 năm tổ chức thi hành, quy định trong các văn bản pháp luật nói trên về chủ thể tố tụng nói chung và chủ thể tiến hành tố tụng nói riêng đã bộc lộ khá nhiều bất cập. Những bất cập đó là một trong 1 những nguyên nhân quan trọng làm hạn chế chất lượng, hiệu quả của các hoạt động TTHS. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định các chủ trương, giải pháp về cải cách tư pháp nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết đặt ra yêu cầu xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho ĐTV, KSV và thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình. Ngày 12 tháng 3 năm 2014 Bộ Chính trị có Kết luận số 92 - KL/TW “về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó có các quan điểm chỉ đạo quan trọng về: xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp; về hệ thống tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan điều tra chuyên trách trong công an, quân đội và ngành kiểm sát; phương hướng hoàn thiện quy định định về một số hoạt động điều tra của bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, hải quan, kiểm lâm; về tổ chức của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân…Kết luận số 92 - KL/TW của Bộ Chính trị cũng yêu cầu nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xác định rõ nội hàm và xây dựng cơ chế để tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp; chuẩn bị những nội dung có liên quan đến việc đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp giai đoạn 2016 - 2020, phục vụ việc xây dựng các văn kiện Đại hội XII của Đảng... Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong lịch sử lập Hiến ở nước ta. Hiến pháp đề cao yêu cầu tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, có nhiều sửa đổi 2 quan trọng liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp như tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân. Hiến pháp mới bổ sung quy định về xét xử theo thủ tục rút gọn, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; nguyên tắc suy đoán vô tội với nội hàm đầy đủ hơn…Những quy định mới được sửa đổi, bổ sung nói trên trong Hiến pháp năm 2013 cần được nghiên cứu cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật có liên quan như BLTTHS, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức điều tra hình sự. Những yêu cầu nêu trên đều liên quan chặt chẽ đến việc đổi mới, hoàn thiện các quy định liên quan đến tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Mặc dù thời gian qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS Việt Nam, nhưng các công trình nghiên cứu đã có chủ yếu theo từng vấn đề riêng và trong mỗi vấn đề cũng đang còn có ý kiến khác nhau hoặc cần được nghiên cứu sâu, cụ thể và toàn diện hơn. Nhận thấy việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS Việt Nam một cách toàn diện, có hệ thống nhằm góp phần bổ sung thêm luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện các quy định liên quan của Luật TTHS Việt Nam trong thời gian tới là rất quan trọng và cấp thiết nên nghiên cứu sinh chọn Đề tài: “Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” để xây dựng Luận án tiến sĩ luật học của mình. 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Luận án là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam; đánh giá mức độ phù hợp, những hạn chế, khiếm khuyết của pháp luật TTHS Việt Nam hiện nay trong hoạt động thực tiễn, từ đó đề xuất việc hoàn thiện các quy định liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự ở Việt Nam trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Đồng thời qua đó 3 cũng góp phần phát triển lý luận về các chủ thể tố tụng thuộc chuyên ngành Luật Tố tụng hình sự ở nước ta. Đối tượng nghiên cứu của Đề tài Luận án là những vấn đề liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS Việt Nam dưới góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của CQĐT, cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS, tòa án và người có nhiệm vụ, thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan này. Phạm vi nghiên cứu của Đề tài Luận án: Việc nghiên cứu về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS Việt Nam liên quan đến nhiều vấn đề, từ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong khuôn khổ Luận án này, tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan và người có thẩm quyền tố tụng thuộc CQĐT, VKS, toà án dưới góc độ Luật TTHS và một số vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy có ảnh hưởng đến việc đảm bảo tính độc lập của chủ thể tiến hành tố tụng. Về thời gian, các quy định của Luật TTHS Việt Nam được nghiên cứu từ năm 1945 đến nay, việc khảo sát số liệu được lấy theo kết quả tổng kết 8 năm thi hành BLTTHS năm 2003 (2004 – 2012). Khái niệm “Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” trong Đề tài này được hiểu theo nghĩa là một ngành luật, bao gồm những vấn đề thuộc về lý luận, pháp luật thực định được quy định trong Hiến pháp, BLTTHS, các luật về tổ chức của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra hình sự… 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án Luận án tiến sĩ luật học với Đề tài: “Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu tổng thể, toàn diện, đầy đủ về các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự, bám sát các yêu cầu được nêu trong các nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Luận án có những đóng góp mới như sau: 4 * Là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện, có hệ thống các vấn đề lý luận về các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự, bao gồm CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS, tòa án và những người có nhiệm vụ, thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan này ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu Đề tài đã góp phần làm sáng tỏ và phát triển lý luận về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. * Luận án đã đánh giá tương đối toàn diện việc thực hiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta, những kết quả đã đạt được và những hạn chế, vướng mắc, qua đó làm rõ những hạn chế trong quy định của Luật Tố tụng hình sự hiện hành cần được xem xét sửa đổi, bổ sung. * Luận án đã góp phần làm rõ các yêu cầu của cải cách tư pháp đối với việc sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự trong Luật Tố tụng hình sự ở nước ta. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và tổng kết thực tiễn cũng như yêu cầu của cải cách tư pháp, Luận án đã đề xuất các nội dung cần sửa đổi, bổ sung quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự nhằm góp phần giải quyết những bất cập, vướng mắc trong các quy định liên quan đến CQĐT, cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS, tòa án và những người có nhiệm vụ thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan này nhằm tăng cường hiệu quả trong đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, xây dựng một nền tư pháp hình sự tiên tiến, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu Đề tài cũng có thể sử dụng để tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Luật TTHS ở các trường đại học chuyên ngành Luật. 5 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài Luận án 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS Việt Nam liên quan đến các vấn đề như vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các nghiên cứu, bàn luận về cải cách tư pháp ở nước ta trong thời gian vừa qua ở các khía cạnh, mức độ khác nhau đều có liên quan đến các chủ thể tiến hành TTHS. Cụ thể như sau: Bộ Công an xây dựng đề án “Tổ chức lại hệ thống Cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối”, đề xuất việc tổ chức lại hệ thống cơ quan Cảnh sát điều tra và An ninh điều tra các cấp; đề xuất không tổ chức CQĐT trong VKSND tối cao, bỏ quyền hạn tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng hải quan, kiểm lâm [33]. Tuy nhiên, tại Kết luận số 92 - KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị vẫn chỉ đạo giữ nguyên CQĐT trong VKSND tối cao; giữ nguyên quyền hạn và quy định rõ hơn nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động điều tra của lực lượng hải quan, kiểm lâm..). Bộ Công an cũng đang soạn thảo Luật Tổ chức điều tra hình sự để trình Quốc hội trong thời gian tới. VKSND tối cao đã phối hợp với các ngành hữu quan và các nhà khoa học nghiên cứu 2 đề án cấp nhà nước là Đề án “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” và Đề án “Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố”, hoàn thành năm 2012. Các đề án đã nghiên cứu, đề xuất phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở nước ta có liên quan tới chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKSND, TAND [6, 7]. Theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, VKSND tối cao triển khai nghiên cứu Đề án “Viện 6 kiểm sát trong cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp theo tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa” và Đề án “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị” với những đề xuất quan trọng về đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND [8, 148]. Tòa án nhân dân tối cao đang xây dựng các đề án về đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐT, tòa án theo Nghị quyết 49-NQ/TW và Kết luận 79KL/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, trong đó có việc thành lập TAND sơ thẩm khu vực trên cơ sở TAND cấp huyện, đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND cấp tỉnh, thành lập TAND cấp cao, đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND tối cao. TAND tối cao cũng đang xây dựng dự thảo Luật Tổ chức tòa án nhân dân trình Quốc hội xem xét trong thời gian tới có nhiều nội dung liên quan đến việc đổi mới quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc tòa án. Đặc biệt, VKSND tối cao đang phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu sửa đổi bổ sung BLTTHS năm 2003 với nhiều hoạt động tổng kết thực tiễn, tổ chức nhiều hội thảo, tổ chức khảo sát kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới. Một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, đề án, luận án có nội dung liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng được thực hiện trong thời gian qua như: Luận án tiến sĩ luật học của Lê Thị Tuyết Hoa (2005), đề tài “Quyền công tố ở Việt Nam” đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về vấn đề quyền công tố ở một số nước trên thế giới và quyền công tố trong tố tụng hình sự ở Việt Nam, liên quan chủ yếu đến chủ thể thực hành quyền công tố là VKS trong mối quan hệ với CQĐT và tòa án [48]. Luận án tiến sĩ luật học của Đào Hữu Dân với đề tài “Mối quan hệ giữa cơ quan cảnh sát điều tra với viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự”; Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Tiến Sơn, với đề tài “Mối quan hệ giữa cơ quan 7 điều tra với viện kiểm sát trong tố tụng hình sự Việt Nam” đã nghiên cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong tố tụng hình sự, đưa ra một số đề xuất nhằm xây dựng cơ chế pháp lý về mối quan hệ giữa hai cơ quan này nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong đấu tranh phòng chống tội phạm [27, 97]. Luận án tiến sỹ luật học của Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2004), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, nghiên cứu, đề xuất những cải cách đối với hệ thống tòa án [107]. Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Tiến Châu (2008): “Chức năng xét xử trong TTHS Việt Nam”, Viện Nhà nước và Pháp luật - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Tác giả luận án đã đi sâu nghiên cứu về chức năng của TTHS, từ đó nghiên cứu chức năng xét xử của TTHS gắn với chức năng của tòa án nhân dân và có nhiều kiến nghị liên quan đến việc hoàn thiện pháp luật và cơ chế đảm bảo chức năng xét xử của tòa án nhân dân [12]. Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Hải Ninh (2013) “Các yếu tố đảm bảo độc lập xét xử ở Việt Nam hiện nay” đã nghiên cứu sâu về lịch sử hình thành tư tưởng “độc lập xét xử”, thực trạng và các giải pháp để tăng cường các yếu tố đảm bảo độc lập xét xử ở nước ta trong thời gian tới [66]. Một số đề tài khoa học cấp bộ đã được hoàn thành ở mức độ và khía cạnh khác nhau có nhiều nội dung nghiên cứu, đề xuất liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc CQĐT, VKS, tòa án trong tố tụng hình sự như: Vũ Văn Mộc (Chủ nhiệm đề tài, Hà Nội/2008), Đề tài khoa học cấp bộ “Phân biệt thẩm quyền quản lý hành chính và thẩm quyền tố tụng của những người đứng đầu các cơ quan tiến hành tố tụng và việc tăng quyền hạn, trách nhiệm của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán theo yêu cầu cải cách tư pháp của VKSND tối cao”. Nội dung đề tài đi sâu nghiên cứu phân biệt thẩm quyền quản lý hành chính và thẩm quyền tố tụng của những người đứng đầu các cơ quan tiến hành tố tụng; sự ảnh 8 hưởng tiêu cực của thẩm quyền hành chính đối với thẩm quyền tố tụng trong việc đảm bảo tính độc lập và nâng cao trách nhiệm của người tiến hành tố tụng là điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán trong hoạt động thực tiễn [58]. Một số cuộc hội thảo quốc tế có nội dung liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng đã được tổ chức trong thời gian vừa qua. VKSND tối cao, với sự giúp đỡ của Quỹ hợp tác quốc tế về pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức, Chương trình đối tác tư pháp do Liên minh Châu Âu tài trợ đã tổ chức các hội thảo: “Mô hình Luật tố tụng hình sự Việt Nam” tháng 12/2009; Hội thảo “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp Kinh nghiệm của CHLB Đức”, tổ chức ngày 9,10/6/2011; Hội thảo “Mô hình tố tụng hình sự một số nước trên thế giới - kinh nghiệm đối với việc hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam”, tổ chức ngày 15/11/2011; Hội thảo “Cải cách Viện kiểm sát ở một số nước trên thế giới- những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam” tổ chức ngày 22/11/2011; Hội thảo “Một số định hướng cơ bản sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, tổ chức ngày 17/9/2012. Bên cạnh đó, Viện Nhà nước và Pháp luật đã phối hợp với Viện Kass, Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức “Hội thảo quốc tế về quyền công tố” ngày 27-28/4/2011; Ủy ban Tư pháp Quốc hội đã tổ chức hội thảo “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp” ngày 23/4/2012. Các hội thảo này có sự tham gia của hầu hết các nhà khoa học về Luật Tố tụng hình sự và các nhà hoạt động thực tiễn trong và ngoài nước. Các bài tham luận, phát biểu ý kiến trong các hội thảo khoa học nói trên chủ yếu trình bày dưới góc độ pháp luật so sánh về các mô hình TTHS trên thế giới và những yếu tố có thể tham khảo khi sửa đổi BLTTHS năm 2003, trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến các chủ thể trong hoạt động TTHS. Một số sách chuyên khảo có nội dung liên quan đến Đề tài Luận án như: Đào Trí Úc (Chủ biên,1995), “Tội phạm học, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự”, NXB Chính trị quốc gia; Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (1994), “Đổi mới các cơ quan tư pháp, những vấn đề lý luận và thực tiễn”; 9 NXB Công an nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), “Một số khuyến nghị về xây dựng Bộ luật TTHS (sửa đổi), sổ tay công tác kiểm sát hình sự tại Việt Nam”; Nguyễn Đăng Dung (2005), “Sự hạn chế quyền lực nhà nước”, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội; Lê Hữu Thể (chủ biên, 2008), “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”; Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn Thị Thủy (đồng chủ biên, 2013), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các sách tham khảo này đều có nghiên cứu, đề xuất về hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, trong đó có CQĐT, VKS, tòa án. Ngoài ra, thời gian qua cũng có nhiều bài dịch giới thiệu về pháp luật nước ngoài để tham khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Nhiều bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học đề cập đến các khía cạnh khác nhau có liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc CQĐT, VKSND, TAND, trong đó có những nghiên cứu, đề xuất về hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể này ở tầm vĩ mô (như mô hình tố tụng), có những nghiên cứu đề xuất cụ thể liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền hoặc thủ tục liên quan đến thẩm quyền của một chủ thể nhất định. Cụ thể như: Tạp chí Luật học có một số bài viết: Nguyễn Đức Mai (2008), “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa”, số 7; Hoàng Thị Minh Sơn (2009), “Một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyết định của tòa án trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng”, số 7; Đào Trí Úc (2010), “Bàn về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, số 8; Vũ Gia Lâm (2010), “Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của viện kiểm sát và tòa án”, số 08; Bùi Kiên Điện (2011), “Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân”, số 08. 10 Tạp chí Khoa học pháp lý có các bài như: Nguyễn Thái Phúc (2007), “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, số 18; Lương Thị Mỹ Quỳnh (2010), “Tìm hiểu mô hình tố tụng thẩm vấn và những kiến nghị hoàn thiện Bộ Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, số 6; Vũ Thị Kim Oanh, Nguyễn Ngọc Kiện (2010), “Thực tiễn áp dụng quy định về tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung”, số 3; Bùi Thế Vinh, Trần Vũ Tuân (2011), “Thủ trưởng cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự Việt nam”, số 5; Lê Văn Cảm, Nguyễn Cảnh Hợp (2012), “Mô hình lý luận của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, số 03. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật có các bài của: Nguyễn Thái Phúc (2009) “Đổi mới phiên tòa sơ thẩm hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, số 2; Nguyễn Trương Tín (2009), “Một số vấn đề lý luận về chức năng buộc tội trong tố tụng hình sự và vấn đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến chức năng buộc tội”, số 8. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp có các bài của: Đào Trí Úc (2011), “Tố tụng hình sự Việt Nam cần được đổi mới và hoàn thiện theo hướng nào”, số 15; Nguyễn Thị Thủy (2009), “Tư pháp hình sự và yêu cầu tăng cường kiểm sát hoạt động tư pháp”, số 13; Nguyễn Quang Hiền (2009), “Các loại hình tố tụng hình sự và hướng áp dụng ở Việt Nam”, số 20; Trần Văn Độ, “Phân định thẩm quyền trong tố tụng hình sự Việt Nam”, (theo http://luatsuhanoi.vn). Tạp chí Tòa án nhân dân có các bài của: Nguyễn Trương Tín (2009), “Một số vấn đề về vai trò của tòa án trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong điều kiện cải cách tư pháp”, số 1; Nguyễn Trương Tín (2009), “Một số vấn đề lý luận định hướng xây dựng mô hình tố tụng hình sự Việt Nam trong bối cảnh cải cách tư pháp”, số 15; Lê Cảm (2009), “Về mô hình tố tụng hình sự của nhà nước pháp quyền dân chủ Liên Bang Nga”, sè 24; Nguyễn Đức Mai (2009), “Đặc điểm của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam”, số 11 23; Đỗ Văn Chỉnh (2012), “Cần sửa đổi, bổ sung quy định về rút quyết định truy tố”, số 5; Trần Đình Nhã (2012), “Về Chế định điều tra tội phạm trong Bộ luật tố tụng hình sự”, số 21. Tạp chí Kiểm sát có các bài của: Trịnh Tiến Việt (2003), “Tranh tụng tại phiên tòa và những vấn đề đảm bảo việc tranh tụng”, số 6; Đinh Văn Quế (2004), “Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, số 5; Đinh Văn Quế (2004), “Người tiến hành tố tụng trong các cơ quan viện kiểm sát nhân dân và toà án nhân dân”, số 6; Mai Văn Lư (2006), “Một số vấn đề về thẩm quyền của viện trưởng, phó viện trưởng viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự”, số 9; Lê Cảm (2007), “Các mô hình lý luận về tổ chức viện công tố trong chiến lược cải cách tư pháp” số 14; Nguyễn Tất Viễn (2007), “Một số suy nghĩ về cơ quan công tố ở Việt Nam trong thời kỳ cải cách tư pháp”, số 14; Hoàng Nghĩa Mai (2007), “Một vài suy nghĩ về cải cách tư pháp ở Canada, Trung Quốc và Nhật Bản”, số 15; Phạm Hồng Hải (2008), “Vai trò, trách nhiệm của kiểm sát viên trong quá trình thực hành quyền công tố nhìn dưới góc độ luật sư”, số 3; Nguyễn Ngọc Khánh (2008), “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra và xác định mối quan hệ giữa công tố với điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp” số 18-20; Mai Văn Lư (2009), “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra và tăng thẩm quyền cho điều tra viên, kiểm sát viên trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, số 05; Vũ Văn Mộc (2009), “Về việc tăng quyền hạn và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên trong tố tụng hình sự”, số 10; Vũ Văn Mộc (2009), “Một số ý kiến về tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt động điều tra”, số 16; Đinh Xuân Thảo (2009), “Những vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự”, số 16; Nguyễn Khắc Quang (2010), “Vai trò, thẩm quyền của một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt 12 động điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”, số 20; Nguyễn Đức Mai (2010), “Vai trò, thẩm quyền của tòa án trong mô hình tố tụng hình sự Việt Nam”, số 20; Nguyễn Minh Đức (2010), “Địa vị pháp lý của các chủ thể tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”, số 20; Nguyễn Tiến Sơn (2010), “Phân định trách nhiệm giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”, số 20; Khổng Ngọc Sơn (2010), “Bàn về vị trí pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra Công an nhân dân trong tố tụng hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”, số 21; Trần Văn Độ (2010), “Xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của tòa án trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, số 20; Đào Trí Úc (2012), “Xác định tòa án có vị trí trung tâm, xét xử là trọng tâm”, số 21; Đỗ Văn Đương (2012), “Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp và sửa đổi, bổ sung chế định về chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự”, số 21; Nguyễn Thị Thủy (2012), “Mô hình tố tụng hình sự và vấn đề xác định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong tố tụng hình sự”, số 09; Nguyễn Thị Thủy (2012), “Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự nhằm thực hiện chủ trương của Đảng “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với điều tra”, số 21; Nguyễn Thái Phúc (2013), “Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về việc phân định thẩm quyền điều tra”, số Xuân/2013… Tạp chí Khoa học Kiểm sát có các bài: Lê Văn Cảm (2014), “Mô hình lập pháp về hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vì quyền con người”, số 01; Trần Văn Độ (2014), “Nguyên tắc tranh tụng và những vấn đề đặt ra đối với sửa đổi, bổ sung BLTTHS”, số 1. Nội dung các bài viết trên các tạp chí rất đa dạng, đề cập đến nhiều vấn đề có liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự như: chức năng của TTHS, mô hình tố tụng hình sự; bàn về vị trí, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự; bàn về những chủ trương lớn như: tăng cường tranh tụng tại phiên tòa, tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động 13 điều tra, phân biệt thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng; tăng thẩm quyền cho ĐTV, KSV, thẩm phán...theo yêu cầu cải cách tư pháp 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Các chủ thể tố tụng hình sự nói chung (trong đó có các chủ thể tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta hiện nay) đã được các nhà nghiên cứu về chính trị, pháp luật trên thế giới quan tâm từ lâu, dưới nhiều góc độ khác nhau và có nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện từ trước đến nay. Liên quan đến nội dung Đề tài này có một số tác phẩm, công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Montesquieu, “Tinh thần pháp luật”, NXB Giáo dục, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn- Khoa luật (bản dịch), Hà Nội 1996; Jean- Jacques Rousseau(bản dịch), “Bàn về khế ước xã hội”, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1992; Bary M.Hager, “The Rule of Law” (bản tiếng Anh) xuất bản bởi: The Mansfield Center for Pacific Affairs; John Hatchard, Barbara Huber and Richard Vogler (1996), Comparative Criminal Procedure, B.I.I.C.L, Bristain; NXB Chính trị quốc gia (1999), “Khái quát về chính quyền Mỹ” (An outline of American Government của Richard. Shroeder); Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ tư pháp (1999), “Tư pháp hình sự so sánh” của Philip.L.Reichel, (tài liệu dịch); Nancy Hollander (2000), “Hệ thống tố tụng hình sự Hoa Kỳ trong sự so sánh với việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam” trong sách “Một số khuyến nghị về xây dựng Bộ luật TTHS (sửa đổi), sổ tay công tác kiểm sát hình sự tại Việt Nam”. Các tác phẩm, công trình này nghiên cứu, so sánh về những vấn đề cốt lõi của tư pháp hình sự, trong đó có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tố tụng hình sự như cảnh sát, công tố và tòa án trong các mô hình tố tụng, truyền thống pháp luật trên thế giới. Một số công trình nghiên cứu khác được thực hiện trong thời gian gần đây đáng chú ý như: Luận án tiến sĩ của Tony Paul Marguery (2008) “The Unity and Diversity of Public Prosecution Service in Europe” (PhD thesis, 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan