Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ CÁC CÁCH XƯNG HÔ TRONG TIẾNG NÙNG...

Tài liệu CÁC CÁCH XƯNG HÔ TRONG TIẾNG NÙNG

.PDF
173
132
62

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM PHẠM NGỌC THƯỞNG CÁC CÁCH XƯNG HÔ TRONG TIẾNG NÙNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN HÀ NỘI - 1998 LỜI CAM ĐOAN Tôi xing cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Phạm Ngọc Thưởng 3 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 3 MỤC LỤC .................................................................................................................... 4 MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 7 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI. .................................................................................7 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI. ...........................................................................8 3.Ý NGHĨA KHÔA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ . ...................................................10 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.......................................10 5. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI. ........................................................12 6.GIẢ THIẾT KHÔA HỌC CỦA ĐỀ TÀI. ......................................................................13 7.LỊCH SỬ VẤN ĐỂ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI. ......................................................13 8. CÁI MỚI CỦA LUẬN ÁN. ...........................................................................................15 9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN. .......................................................................................15 CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỚ LÝ THUYẾT VỀ XƯNG HÔ ............................. 16 1.1.KHÁI NIỆM XƯNG HÔ ............................................................................................16 1.2. NHỮNG CHỨC NĂNG CỦA TỪ XƯNG HÔ..........................................................18 1.2.1. CHỨC NĂNG ĐỊNH VỊ CỦA TỪ XƯNG HÔ. .................................................18 1.2.2. CHỨC NĂNG CHIẾU VẬT CỦA TỪ XƯNG HÔ............................................22 1.2.3. CHỨC NĂNG THỂ HIỆN QUAN HỆ LIÊN CÁ NHÂN. .................................27 1.3. CÁC NGỮ VỰC* CHI PHỐI CÁCH SỬ DỤNG TỪ XƯNG HÔ. ..........................32 1. 3.1. VAI GIAO TIẾP VÀ VỊ THẾ XÃ HỘI CỦA NHÂN VẬT GIAO TIẾP. ..........32 1.3.2. TÍNH QUI THỨC (FOKMAL) VÀ KHÔNG QUI THỨC (INFOKMAL) CỦA NGỮ CẢNH GIAO TIẾP. .............................................................................................38 1.4. CÁC PHƯƠNG TIỆN DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ. ........................................................40 1.4.1. ĐẠI TỪ XƯNG HÔ. ...........................................................................................40 1.4.2. DANH TỪ CHỈ NGƯỜI DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ...............................................44 4 1.4.3. DANH TỪ CHỈ CHỨC NGHIỆP ĐỂ XƯNG HÔ. ............................................46 1.4.4. HỌ VÀ TÊN RIÊNG CỦA NGƯỜI DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ. ............................47 CHƯƠNG 2: CÁCH XƯNG HÔ BẰNG ĐẠI TỪ TRONG TIẾNG NÙNG ....... 54 2.1. DANH SẮCH ĐẠI TỪ XƯNG HÔ TIẾNG NÙNG .................................................55 2.2. ĐẠI TỪ XƯNG HÔ NGÔI THỨ NHẤT SỐ ÍT .......................................................57 2.2.1. ĐẠI TỪ CAU. .....................................................................................................59 2.2.2. ĐẠI TỪ LẠI. .......................................................................................................65 2.2.3. ĐẠI TỪ KHỎI LAI. ............................................................................................66 2.2.4. ĐẠI TỪ NGÒ. .....................................................................................................67 2.3. ĐẠI TỪ XƯNG HÔ NGÔI THỨ HAI SỐ ÍT. ..........................................................69 2.3.1. ĐẠI TỪ MƯNG ..................................................................................................71 2.1.2. ĐẠI TỪ NÌ. .........................................................................................................72 2.3.3. ĐẠI TỪ CAU ......................................................................................................74 2.4. ĐẠI TỪ XƯNG HÔ LƯỠNG NGÔI .........................................................................75 2.4.1. ĐẠI TỪ LÀU ......................................................................................................75 2.4.2. ĐẠI TỪ HAU ......................................................................................................78 CHƯƠNG 3: CÁCH XƯNG HÔ BẰNG DANH TỪ THÂN TỘC TRONG TIẾNG NÙNG ........................................................................................................... 81 3.1. XƯNG NOỌNG (EM) TRONG GIA TỘC NGƯỜI NÙNG .....................................83 3.2. XƯNG HÔ GIỮA DÂU, RỂ VỚI CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA TỘC NÙNG: ............................................................................................................................................85 3.2.1. XƯNG HÔ KHI DÂU, RỂ CHƯA CÓ CON. ....................................................86 5.2.2. XƯNG HÔ KHI DÂU, RỂ CÓ CON. .................................................................91 3.3. XƯNG HÔ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI NÙNG. ............96 3.3.1. XƯNG HÔ GIỮA VỢ CHỒNG KHI CHƯA CÓ CON. ....................................96 3.3.2. XƯNG HÔ GIỮA VỢ CHỒNG KHI CÓ CON. ................................................98 5 3.3.3. XƯNG HÔ GIỮA VỢ CHỒNG KHI CÓ CHÁU.............................................100 3.4. XƯNG HÔ GIỮA ANH, CHỊ VÀ EM TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI NÙNG .......102 3.4.1. XƯNG HÔ KHI ANH, CHỊ - EM CÒN NHỎ VÀ CHƯA CÓ GIA ĐÌNH RIÊNG. ........................................................................................................................103 3.4.2.XƯNC HÔ GIỮA ANH, CHỊ - EM Ở TUỔI KHÔN LỚN VÀ CÓ GIA ĐÌNH RIÊNG . ......................................................................................................................105 3.5. XƯNG HÔ GIỮA CHA MẸ VÀ CON TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI NÙNG........109 3.5.1. KHI CON CÁI CÒN NHỎ................................................................................ 110 3.5.2. KHI CON CÁI KHÔN LỚN ............................................................................. 113 3.6. XƯNG HÔ GIỮA ÔNG BÀ VÀ CHÁU TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI NÙNG. .... 115 CHƯƠNG 4: CÁCH XƯNG HÔ NGOÀI XÃ HỘI Ở NGƯỜI NÙNG ............. 121 4.1. XƯNG HÔ TRONG VÀ SAU ĐÁM CƯỚI CỦA NGƯỜI NÙNG. ........................121 4.1.1. XƯNG HÔ TRONG ĐÁM CƯỚI.....................................................................121 4.1.2. XƯNG HÔ SAU ĐÁM CƯỚI. .........................................................................125 4.2. XƯNG HÔ TRONG DÂN CA CỦA NGƯỜI NÙNG..............................................128 4.3. XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ NGÀNH NGHỀ CỦA NGƯỜI NÙNG. ................131 4.3.1. XƯNG HÔ TRONG NGHỀ THEN ..................................................................135 4.3.2. XƯNG HÔ TRONG GIỚI THẦY MO .............................................................136 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 140 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 144 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 157 6 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI. 1.1. Vấn đề ngôn ngữ trong quan hệ với văn hóa của các dân tộc là vấn đề đang được thể giới quan tâm. Vấn đề dạy tiếng Việt chô học sinh các dân tộc ít người đang là vấn đề nóng bỏng của giáo dục nước ta hiện nay. Ngày 03 thâng 02 nám 1997, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã có thông tư số 01 hướng dẫn việc dạy tiếng nói và chữ viết dân tộc thiểu số. Thông tư có đoạn viết, “Sở Giáo dục - đào tạo các tỉnh, thành phố có đồng bào các dân tộc thiểu số chịu trách nhiệm phối họp với các cơ quan chức năng của Bộ để cụ thể hóa xây dựng chương trình chô phù họp với từng thứ tiếng và biên soạn tài liệu, đào tạo bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng dân tộc..." [15,4] Theo chúng tôi nghĩ, muốn xây dựng được chương trình, tài liệu dạy tiếng nói và chữ viết dân tộc thiểu số chô phù họp với từng dân tộc thì đòi hỏi đầu tiên là phải hiểu được phông tục, tập quán, văn hóa truyền thống cũng như ngôn ngữ của dân tộc mà mình trực tiếp giảng dạy. Điều quan trọng nhất là chúng ta phải xây dựng được tài liệu giảng dạy đúng với ngôn ngữ của từng dân tộc. Có như vậy việc dạy tiếng nói và chữ viết dân tộc thiểu số mới mang lại kết quả cao. 1 .2. Ngay từ năm 1961, chúng ta đã có "Phương án chữ Tày - Nùng" [86]. Theo đó, sắch dạy chữ Tày - Nùng [135], [137] chô học sinh dân tộc Tày và Nùng được xuất bản và dạy trong các trường học. Tuy nhiên việc gom những đặc điểm phổ biến của hai ngôn ngữ Tày và Nùng để trở thành một ngôn ngữ, một chữ viết để giảng dạy chô học sinh dân tộc Tày và dân tộc Nùng đã không thu được kết quả như mong muốn. Đó cũng là một trong những nguyên nhân tan rã của phông trào học chữ Tày - Nùng. Giải thích điều này, Hôàng Tuệ đã phát biểu, "Thiết tưởng cần rút ra những kinh nghiệm thích đáng trong quan niệm về "tiếng Tày - Nùng". Trong quan niệm này, phải chăng đã có sự chú trọng thiên lệch về sự đồng dạng cấu trúc của tiếng Tày và tiếng Nùng, mà ít có quan tâm cần thiết đển những yếu tố văn hóa, tâm lý dân tộc... của những cộng đồng tuy có giống nhau nhưng thực sự vẫn là khác nhau ấy?"! [112,8] 7 Trong lịch sử phát triển của mình "Người Nùng, người Tày sống bên nhau, rất gần gũi nhau về ngôn ngữ, văn hóa, phông tục tạp quán và do đó rất dễ hôà hợp với nhau" [62,22]. Tuy nhiên, sự "gần gũi" và "là một" là hai khái niệm khác nhau. Để phân biệt cần phải có những công trình nghiên cứu nghiêm túc, dài hơi. Nhưng một điều chắc chắn rằng, xu hướng coi văn hóa cũng như ngôn ngữ của dân tộc Tày và dân tộc Nùng là một để tìm hiểu, nghiên cứu sẽ không giúp chúng ta hiểu đươc những đặc trưng văn hóa, ngôn ngữ của hai dân tộc này. Đúng như Mông Ký SLay nhận xét, "Không thể gắn đặc trưng văn hôá, ngôn ngữ vốn chỉ có ở dân tộc này thành của cả hai dân tộc, dẫu chô chúng có những nét văn hôá gần gũi nhau như dân tộc Tày và dân tộc Nùng." [97, 3]. Nhítn nói về cuốn sắch của mình, Lục Văn Páo đa xác nhận một thực tế "Việc xây dựng tiếng chữ Tày - Nùng thống nhất trước đây đã làm một số người lăn lộn : nhiều lĩnh vực thuộc văn hôá Tày được đồng nhất coi như văn hôá Nùng và ngược lại. Nên không thấy được tính dân tộc người và thích đặc thù địa phương của . Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, chúng tôi thấy làm rõ sự khác nhau đó là cần thiết và có lợi chô việc hiểu thấu đáo các nền văn hôá dân tộc”[80, 6]. Đã đển lúc chúng ta cần có một cái nhìn rạch ròi hơn về văn hôá cũng như ngôn ngữ của dân tộc Tày và dân tộc Nùng. Có như vậy chúng ta mới có thể nhìn nhận, phán ánh đúng hơn đối tượng được tìm hiểu, nghiên cứu. 1 .3. Hệ thống từ xưng hô, các cách xưng hô trong tiếng Nùng rất phông phú, đa dạng. Nghiêu cứu từ xưng hô tiếng Nùng không những giúp chúng ta nắm bắt được những đặc điểm ngôn ngữ (ở đây là cách xưng hô) của người Nùng mà còn hiểu được những ứng xử văn hôá - ngôn ngữ của người Nùng qua cách xưng hô. Đây cũng là vấn đề mà nhiều công trình nghiên cứu về ngôn ngữ cũng như văn hôá của người Nùng còn bỏ ngỏ. Xuất phát từ tình hình nghiên cứu văn hôá, ngôn ngữ của dân tộc Tày và dân tộc Nùng như vừa nêu trên, đề tài "Các cách xưng hô trong tiếng Nùng" nhằm giới thiệu những đặc điểm riêng biệt trong xưng hô của người Nùng. Đề tài này sẽ góp thêm một tiếng nói, một cách nhìn về văn hôá, ngôn ngữ của dân tộc Nùng trong mối quan hệ với dân tộc Tày. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI. 2.1.Giao tiếp bằng ngôn ngữ, nhất là giáo tiếp bằng hội thoại có đặc điểm là người nói và người nghe không thể trốn, không thể tránh mặt ngay trong diễn ngôn (ngôn bản, lời nói). Có nghĩa là xưng hô là yếu tố đầu tiên mà người hội thoại phải dùng và là yêu tố đầu 8 tiên (đập vào mắt hay tai) của người ngoài cuộc (bysfanders) chứng kiến cuộc thoại. Qua các yếu tố người nói dùng để tự xưng - tức đưa mình vào trong diễn ngôn - và yếu tố hô tức người nói dùng để đưa người nghe đương diện của mình vào diễn ngôn mà cuộc giao tiếp mới diễn ra một cách bình thường. Cũng qua chúng, quan hệ giao tiếp - từ quan hệ vai đối thoại đển các quan hệ liên cá nhân được thiết lập và các cuộc hội thoại thường bị quyết định bởi cách xưng hô mà người nói muốn đặt ra trong trò chuyện. Xưng hô chô đúng, xưng hô chô hay sẽ góp phần làm tăng hiệu qủa của lời ăn tiếng nói. Xưng hô không đúng sẽ gây nên những hậu qủa hết sức tai hại. 2.2.Vấn đề xưng hô mặc dầu đã được ngôn ngữ học chú ý từ lâu nhung do ảnh hưởng của chủ nghĩa cấu trúc, nhiều nhà nghiên cứu chỉ chú ý đển các đại từ, trong đó nhập đại từ chỉ ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai với đại từ chỉ ngôi thứ ba làm một. Tuy đã có nhiêu tác giả chú ý đển cách sử dụng các từ chỉ quan hệ thân thuộc lâm thời như đại từ nhưng quan điểm xem đại từ đóng vai trò trung tâm trong xưng hô là quan điểm chi phối việc nghiên cứu các từ xưng hô. Với sự phải triển của ngôn ngữ học theo hướng nghiên cứu ngôn ngữ trong hôạt động hành chức, trước hết là hành chức trong giao tiếp, vấn đề xưng hô được xem xét trong phạm vi rộng hơn, không còn là vấn đề thuần túy ngôn ngữ học mà còn là vấn đề của ngữ dụng học, của xã hội ngôn ngữ học, của vấn đề ngôn ngữ học xuyên văn hôá. Trước hết lý thuyết hội thoại đã rọi nhiều ánh sáng từ đó định ra nhiều hướng tìm hiểu mới chô việc nghiên cứu từ xưng hô. 2.3. Nhiều nhà nghiên cứu Việt ngữ đã vận dụng những thành tựu của các ngành học mới kể trên để nghiên từ xưng hô tiếng Viêt và đã thu được nhiều kết qủa tốt. Đó là các công trình của Nguyễn Văn Chiến [30], [33], của Hôàng Anh Thi, [109], của Nguyễn Minh Thuyết và Kim Young Soa [113]... Ngược lại, từ xưng hô trong tiếng Nùng chưa có cách tiếp cận và được nghiên cứu một cách thôả đáng. Vì thể, chúng tôi vận dụng cơ sở lý thuyết của dụng học, của hội thoại, của xã hội ngôn ngữ học để nghiên cứu từ xưng họ tiếng Nùng một cách toàn diện. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể chứng minh rằng, xưng hô không chỉ quyết định bằng “ngôi” tức vai giao tiếp và một số nhân tố có tính chất biểu thị thái độ như tuổi, trọng, khinh...v.v...mà xưng hô còn chịu chi phối của chức năng trong đó quan trọng nhất là định khung quan hệ, sự chi phối của các quan hệ liên cá nhân, rõ nhất là nhân tố quyền tực ở 9 trục dọc (power) và nhân tố khôảng cách (còn gọi là thân hữu-solidarity), nhân tố ngữ vực.v.v...Mặt khác không chỉ dùng các đại từ mà còn dùng các yếu tố khác, đặc biệt trong tiếng Nùng, tiếng Việt...thì yếu tố khác lại quyết định hơn là các đại từ thực sự đó là từ chỉ quan hệ thân hữu các từ chỉ chức vụ, cá tên riêng và sự phối hợp các nhân tố đó với nhau để có được nhưng cách xưng hô cụ thể trong từng ngữ cảnh cụ thể. 3.Ý NGHĨA KHÔA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ . 3.1.Luận án sẽ có đóng góp nhất định vào công việc điều chỉnh một số khái niệm ngôn ngữ lý thuyết vốn được xuất phát từ các loại hình ngôn ngữ của châu Âu như cách quan niệm đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai và đại từ ngôi thứ ba. - Hướng nghiên cứu của luận an có thể giúp nhiều nhà nghiên cứu có quan niệm rạch ròi hôn vế ngôn ngữ cũng như văn hôá của người Nùng. Vấn đề mà luận án đề cập là một vấn đề mới. Điều đó thể hiện ở chỗ đây là một luận án đầu tiên bàn về vấn đề ngôn ngữ dân tộc thiểu số dưới ánh sáng của lý thuyết dụng học. Cách làm này gợi mở chô chúng ta một hướng nghiên cứu mà sự phông phú về tư liệu của các chỉn tộc thiểu số ở nước ta là vô tận. Cách tiếp cận này cùng với cách tiếp cận truyền thống theo hướng mô tả cấu trúc các ngôn ngữ dân tộc chô thấy khu vực này đang là một vùng trống trong nghiên cứu ngôn ngữ - văn hôá ở nước ta. 3.2.Đề tài này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc bảo toàn và phát triển giá trị văn hôá của dân tộc, góp phần vào thực hiện chủ trương chỉnh sắch của Đảng và Nhà nước, cụ thể là vấn để giáo dục Sơng ngữ trong những năm tới đây. Những thành công của luận án sẽ góp phần vào công việc biên soạn tài liệu, chương trình giảng dạy tiếng Việt chô người Nùng, tiếng Nùng chô người Nùng theo thông tư số 01, của Bộ giáo dục - đào tạo [15] 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI. 4.1. Xưng hô không chỉ bằng các đại từ nhân xưng. Trong tiếng Việt, tiếng Nùng và nhiêu ngôn ngữ khác các danh từ thân tộc, danh từ chỉ chức vụ, các tên riêng...có thể dùng làm từ xưng hô. Các phương tiện xưng hô đó có thể kết hợp với nhau thành các cụm từ, các ngữ xưng hô. Ví dụ: Kính thưa giáo sư Nguyễn Tài Cẩn. Ở cụm từ xưng hô này có sự kết hợp của danh từ chỉ chức vụ (giáo sư) + họ và tên đệm (Nguyễn Tài) + tên riêng (Cẩn ). Chúng tôi gọi các phương tiện được dùng làm từ xưng hô bằng cụm từ : từ xưng hô. Luận án của chúng tôi nghiên cứu những phương tiện xưng hô trong tiếng Nùng. 10 4.2. Theo tác giá [62], "Tộc danh Nùng chắc chắn là bắt nguồn từ tên dòng họ Nùng, một trong bốn dòng họ đông người, có thể tực lớn là Nùng, Hôàng, Chu, Vy ..." [62,31]. Dân tộc Nùng có nhiều nhóm tùy theo đặc điểm trang phục hay địa danh cư trú của tổ tiên trước khi định cư ở Việt Nam mà có những phụ danh khác nhau như Nùng An, Nùng Inh, Nùng Quí Rỉn, Nùng Cháo... Giải thích về các tên gọi khác nhau của các nhóm Nùng, Lã Văn Lô viết "Nhiều bộ phận người Nùng còn mang theo nhũng tên quê hương cũ của họ như Nùng Phạn Slình, quê ở Vạn - Thành - Chân, Nùng Cháo, quê ở Long Châu, Nùng Slìn, quê ở Sùng - thiện, Nùng Inh , quê ở Long anh, Nùng Lòi, quê ở Hạ - lôi, Nùng Quí Rỉn, quê ở Qui - Thuận..." [62,31] Ở luận án này, chúng tôi chỉ nghiên cứu các cách xưng hô trong tiếng Nùng Cháo ở địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Hạn chế như vậy là vì tiếng Nùng Cháo ở Lạng Sơn là một phương ngữ của tiếng Nùng mà tôi đã được tiếp xúc và am hiểu từ lâu. Dĩ nhiên khi nghiên cứu về xưng hô trong tiếng Nùng Cháo chúng tôi sẽ cố gắng so sánh với các từ liệu phương ngữ không thuộc Nùng Cháo. Từ đây, khi chúng tôi nói từ xưng hô trong tiếng Nùng thì được hiểu là từ xưng hô trong tiếng Nùng Cháo. 4.3. Cấu trúc tổng quát của một cuộc thoại bao gồm: đoạn thoại mở đầu, thân thoại, và đoạn thoại kết thúc. Ở luận án này, chúng tôi chỉ nghiên cứu các từ xưng hô trong đoạn thoại mở đầu. 4.3.1. Đoạn thoại mở đầu là một bộ phận quan trọng trong cấu trúc hội thoại. Nó bao hàm các lượt nói chô phép các nhân vật giao tiếp tiếp xúc với nhau và đặt quan hệ chô cuộc thoại. V.Kalimeyer cũng nhìn thấy ở đoạn mở đầu một tầm quan trọng lớn, vì từ đây, "tất cả các bình diện của tương tác được xác định một cách chặt chẽ hay ít ra là lâm thời để tạo ra một cơ sở chô sự tiến triển của sự kiện" [Dẫn theo 47,2). 4.3.2. Ở đoạn mở đầu nhân vật giao tiếp dùng các từ xưng hô tiêu biểu nhất, để quan sát nhất do chưa chịu ảnh hưởng của những biến động trong cuộc thoại tác động đển. Bởi vì, trong nhiều cuộc thoại, các nhân vật giao tiếp có sự thay đổi từ xưng hô so với cách xưng hô ban đầu. Có thể thay đổi từ xưng hô theo hướng tích cực - từ khôảng cách xa đển khôảng cách gần và ngược lại, thay đổi từ xưng hô theo hướng tiêu cực - từ khôảng cách gần, thân thiện đển xa cách. Chúng tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở mục 1.2.3. Tuy nhiên chúng tôi không nghiên cứu sự vận động và biến đổi của từ xưng hô trong cuộc thoại mà chỉ nghiên cứu từ xưng hô theo những phương diện được trình bày trong lý thuyết (chương 1). 11 5. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI. 5.1. Chúng tôi chọn những địa bàn có đông dân cư người dân tộc Nùng Cháo sinh sống trong tình Lạng Sơn như huyện Chi Lăng, huyện Văn Lãng, huyện Tràng Định... làm địa bàn điển dã. Đển những điểm điền dã nói trên chúng tôi quan sát, phỏng vấn và ghi âm các cuộc thoại của người Nùng. Từ đó, thống kê các từ xưng hô, các cách xưng hô được người Nùng sử dụng trong hội thoại. Chúng tôi mở rộng đối tượng quan sát và phỏng vấn: từ các cháu thiếu niên đển các anh chị thanh niên và các cụ già. Đặc biệt, chúng tôi quan tâm khai thác ở các thầy Mo, thầy Tào, các bà Then... vì họ là rông lóp "trí thức" dân tộc. Họ am hiểu phông tục tập quán của dân tộc mình. Ngoài ra, chúng tôi còn tìm hiểu xưng hô, cách xưng hô của người Nùng qua cứ liệu văn học dân gian, nhằm khẳng định các cách xưng hô đó không chỉ được người Nùng sử dụng trong giao tiếp hàng ngày mà còn được sư dụng trong văn học nghệ thuật để diễn đạt tư tưởng tình cảm cũng như các mối quan hệ của người Nùng. Người thực hiện đề tài nghiên cứu này là người Xứ Lạng. Từ nhỏ tôi đã được nghe, lớn lên hiểu và biết tiếng nói dân tộc Nùng trên mảnh đất quê hương mình. Đó là điều may mắn và giờ đây là một thuận lợi vô cùng to lớn để tôi thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. 5.2. Các nhà ngôn ngữ học theo quan điểm cấu trúc đã giải quyết các vấn để ngôn ngữ trên quan điểm hệ thống. Vận dụng phương pháp hệ thống để nghiên cứu từ xưng hô, chúng tôi tiến hành miêu tả, phân tích cách dùng các từ xưng hô theo từng hệ thống, từng nhóm như hệ thống đại từ, hệ thống danh từ thân tộc, hệ thống danh từ chỉ chức nghiệp được dùng làm từ xưng hô... Tuân thủ phương pháp hệ thống, chúng tôi xem xét các từ xưng hô trong mối quan hệ với các yếu tố khác như nhân vật giao tiếp, ngữ cảnh giao tiếp... 5.3. Phương pháp so sánh đối chiếu được chúng lôi sử dụng để làm nổi bạt đặc điểm từ xưng hô, các cách xưng hô trong tiếng Nùng. Chúng tôi chọn tiếng Nùng làm ngôn ngữ cần phân tích, làm sáng tỏ. Bên cậnh đó chúng tôi chọn tiếng Việt làm ngôn ngữ công cụ để đối chiếu. Chúng tôi khẳng định rằng: phương pháp so sánh đối chiếu chỉ là một trong những phương pháp chúng tôi sử dụng để nghiên cứu từ xưng hô tiếng Nùng. Mục đích chỉnh của luận án không phải so sánh, đối chiếu hai hệ thống ngôn ngữ. Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng trong những trường hợp cần thiết nhằm làm sáng tỏ hơn đặc điểm xưng hô trong tiếng Nùng. Chúng tôi chọn tiếng Việt vùng đồng bằng Bắc bộ làm ngôn ngữ công 12 cụ để đối chiếu với tiếng Nùng, nhằm chỉ ra những đặc thù trong xưng hô của tiếng nùng. Bên cậnh đó, một số phương ngôn của tiếng Việt như phương ngôn Nghệ An, phương ngôn Nam Bộ cũng là những công cụ quan trọng được chúng tôi sử dụng để so sánh đối chiếu với tiếng Nùng. Sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu, chúng tôi nhằm chỉ ra những từ xưng hô tương đương (có/ không) giữa hai hệ thống ngôn ngữ. Trên cơ sở đó, chúng tôi chỉ ra những sự khác nhau về sắc thái biểu cảm, phạm vi sử dụng giữa các từ xưng hô có tương đương. Xét về phạm vi nghiên cứu đối chiếu dấu hiệu, chúng tôi tiến hành đối chiếu cấu trúc hệ thống và đối chiếu chức năng. Đối chiếu cấu trúc hệ thống nhằm làm sáng tỏ các đặc điểm cấu tạo, những đặc điểm giống/ khác nhau ở các từ xưng hô giữa hai hệ thống. Đối chiếu chức năng (hôạt động) nhằm làm sáng tỏ các đặc điểm hôạt động, hành chức cũng như làm sáng tỏ chức năng và sự chuyển đổi, khả năng diễn đạt của các từ xưng hô giữa hai hệ thống. Như vậy, chúng tôi đối chiếu từ xưng hô ở hai phương diện: cấu trúc và chức năng. 6.GIẢ THIẾT KHÔA HỌC CỦA ĐỀ TÀI. Chúng tôi giả định rằng, việc nghiên cứu từ xưng hô tiếng Nùng dưới ánh sáng của lý thuyết dụng học sẽ gợi mở một hướng nghiên cứu mới đối với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, điều mà nhiều công trình nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc thiểu số ít để ý tới. Những kết qủa nghiên cứu của luận án có thể chứng minh rằng trong tiếng Nùng, tiếng Việt... xưng hô không chỉ dùng đại từ mà còn dùng nhiều phương tiện khác như danh từ thân tộc, danh từ chức nghiệp... 7.LỊCH SỬ VẤN ĐỂ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI. Tiếng Nùng thuộc hệ ngôn ngữ Tày - Thái. Ở Việt Nam có hơn 70 vạn người sử dụng tiếng Nùng trên hầu khắp các tỉnh thành, đông nhất là ở Lạng Sơn, Cao Bằng. Không ít nhà nghiên cứu chô rằng Tày, Nùng nói chung một ngôn ngữ "Sự khác nhau giữa Tày và Nùng chỉ có tính "địa phương" [ 63,59], hôặc "có thể nói, người Tày và người Nùng nói chung một thứ tiếng" [68,7]. Xuất phát từ quan niệm đó, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu tiếng Tày và tiếng Nùng như một ngôn ngữ chung : ngôn ngữ Tày - Nùng. Hướng tiếp cận này giúp các nhà nghiên cứu tìm ra được những đặc điểm chung giữa tiếng Tày và tiếng Nùng. 13 Tuy nhiên, như chúng tôi đã nói ở mục 1.2. việc gom những đặc điểm phố biến của hai ngôn ngữ Tày và Nùng (như đặc điểm về sự đồng dạng cấu trúc) thành một ngôn ngữ để nghiên cứu khiến chúng ta không thể tìm ra những đặc điểm riêng biệt trong ngôn ngữ của những cộng đồng tuy có giống nhau nhưng thực sự vẫn là khác nhau ấy. Trong lĩnh vực nghiên cứu từ xưng hô cũng vậy, các tác giả [68] có đề cập đển các đại từ xưng hô tiếng Tày - Nùng và chỉ ra cách dùng một số đại từ đó. Trong công trình [68] kể trên, chúng ta không thể tìm thấy những điểm riêng biệt của từ xưng hô tiếng Nùng đúng như nó đang tồn tại cùng với dân tộc Nùng. Do đó, việc phân biệt tiếng Tày và tiếng Nùng để nghiên cứu là cần thiết. Dân tộc Nùng gồm khôảng 10 nhóm khác nhau, ở một vài đặc điểm văn hôá, ngôn ngữ thậm chí còn phải nghiên cứu cụ thể tới từng nhóm như các công trình của mông Ký Slay [94], của Vi Thị Bé, J.E.Saul [133]...chúng tôi nghiên cứu từ xưng hô tiếng Nùng theo hướng tiếp cận này. Theo những tài liệu mà chúng tôi có được, những người đầu tiên nghiên cứu về từ xưng hô tiếng Nùng có lẽ là các tác giả J.E Saul, N.F Wilson [142], Mông Ký Slay [93]. Trong công trình “vài nhận xét về hệ thống đại từ xưng hô tiếng Nùng” [93] Mông Ký Slay đã giới thiệu hệ thống đại từ xưng hô tiếng Nùng, cách cấu tạo số nhiều của đại từ xưng hô tiếng Nùng...Bên cậnh đó, tác giả người bản ngữ này cũng giới thiệu và chỉ ra cách dùng một số danh từ thân tộc được dùng làm từ xưng hô trong triếng Nùng. Tuy nhiên ở công trình này, Mông Ký Slay mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu những nét khái quát nhất về hệ thống đại từ nhân xưng tiếng Nùng. Vì thể, nhiều từ xưng hô, cách xưng hô như danh từ thân tộc, danh từ chỉ chức nghiệp...hay những kiêng kị, những nhân tố chi phối cách dùng từ xưng hô tiếng Nùng chưa được tác giả chú ý tới. Có thể khẳng định rằng, công trình và kết quả nghiên cứu của tác giá [93] về hệ thống đại từ xưng hô tiếng Nùng là nhũng tư liệu quí giá, tạo tiền đề thuận lợi chô hướng nghiên cứu của chúng tôi. Vấn đề xưng hô trong tiếng Nùng chưa được nghiên cứu nhiều. Tiếp thu thành tựu của các tác giả đi trước, chúng tôi nghiên cứu từ xưng hô tiếng Nùng ở những bình diện sâu rộng hơn : cấu trúc và chức năng của từ xưng hô tiếng Nùng. 14 8. CÁI MỚI CỦA LUẬN ÁN. Luận án là côngtrlình đâu tiên miêu tả một cách toàn diện bức tranh xưng hô tiếng Nùng. Luận án xác định những phương tiện được dùng làm từ xưng hô trong tiếng Nùng cũng như chỉ ra các nhân tố chi phối cách sử đụng các lớp từ xưng hô đó. Ngoài ra, luận án đã giới thiệu và mô tả được cách dùng các từ xưng hô trong tiếng Nùng. 9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN. Ngoài mở đàu và kết luận, luận án gồm 4 chương: Chương 1 : Những cư sở lý thuyết về xưng hô. Chương 2 : Cách xưng hô bằng đại từ trong tiếng Nùng. Chương 3 : Cách xưng hô bằng danh từ thân tộc trong tiếng Nùng Chương 4 : Cách xưng hô ngoài xã hội trong tiếng Nùng. Luận án kèm theo 150 thư mục tài liệu tham khảo và 3 phụ lục. 15 CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỚ LÝ THUYẾT VỀ XƯNG HÔ Xưng hô là một hành vi ngôn ngữ. Hành vi xưng hô chỉ diễn ra trong hội thoại. Vì thể, ở chương này, những cơ sở của lý thuyết hội thoại được chúng tôi vận dụng để nghiên cứu từ xưng hô. Lý thuyết hội thoại sẽ soi rọi và phát hiện ra những nét đặc sắc của xưng hô mà cách tiếp cận truyền thống chưa nhận ra được. Đối tượng nghiên cứu của luận án là từ xưng hô, các cách xưng hô trong tiếng Nùng. Tuy nhiên, trước khi nghiên cứu miêu tả từ xưng hô, các cách xưng hô tiếng Nùng, chúng tôi sử dụng cơ sở lý thuyết chung để tìm hiểu những đặc điểm của từ xưng hô trong tiếng Việt như những chức năng của từ xưng hô, những ngữ vực chi phối cách sử dụng từ xưng hô... Những đặc điểm của từ xưng hô trong tiếng Việt sẽ là cơ sở để chúng tôi so sánh, làm nổi rõ những đặc điểm của từ xưng hô trong tiếng Nùng. 1.1.KHÁI NIỆM XƯNG HÔ Xưng hô là một bộ phận của lời nói. Chứng ta không thể trò chuyện với nhau nếu không xưng hô. Từ xưng hô bao gồm hai hình vị : Xưng và hô, đây cũng là tên gọi của hai hình vị ngôn ngữ tương ứng với nhau. Xưng là hành động người nói dùng một biểu thức ngôn ngữ để đưa mình vào trong lời nói, để người nghe biết rằng mình đang nói và mình chịu trách nhiệm về lời nói của mình. Đó là hành động tự qui chiếu của người nói (ngôi I). Hô là hành động người nói dùng một biểu thức ngôn ngữ để đưa người nghe vào trong lời nói C.K Orecchioni viết, "Hô được hiểu là tập hợp nhưng biểu thức; mà người nói dùng để chỉ người đối thoại với mình" [150.15]. Như vậy, đặc điểm của xưng hô lá tất yếu phải có sự hiện diện của người nói và người nghe. Xưng hô khác với hô gọi. Chức năng chủ yếu của hô gọi là phát ra một biểu thức hướng vào người nghe (biểu thức này không nhất thiết là đại từ nhân xưng ) nhằm làm chô người nghe biết rằng người hô gọi muốn thực hiện một cuộc hội thoại với anh ta. Vì thể, hô gọi thường chỉ diễn ra một lần trong cuộc thoại. Trong trường hợp người nghe không chú ý vào cuộc thoại, hô gọi có thể lặp đi lặp lại (thường là lúc mở đầu) với chức năng "lôi kéo" người nghe trở lại cuộc thoại. Ví dụ: - Này Hùng, Cậu vẫn đang nghe tớ nói đấy chứ? 16 Hô gọi là hành động của người nói. Ngược lại, xưng hô là một hành động diễn ra thường xuyên, liên tục trong cuộc thoại và ở lời của các nhân vật tham gia hội thoại. Xưng hô là một hành vi ngôn ngữ và là một hành vi ở lời. Đỗ Hữu Châu viết , "Hành vi ở lời là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận "[24,24]". Khi nhân vật hội thoại tựa chọn một từ xưng hô nào đó để xưng hô với người đối thoại tin ngay lúc đó anh ta đã xác định và mặc nhiên bị lệ thuộc vào cái khung quan hệ của mình với người đối thoại do chính từ xưng hô mang lại. Khung quan hệ mà từ xưng hô mang lại có thể là tao - mày, anh -em, chị - em, bác - cháu, cha - con, ông - cháu... Việc tựa chọn từ nào trong hệ thống từ xưng hô để giao tiếp cũng có thể tác động đển người đối thoại như đồng tình hay phản đối cách xưng hô đó. Nói cách khác, khi thực hiện một hành vi xưng hô, các nhân vật hội thoại cũng tự đặt mình vào những nghĩa vụ và quyền lợi mới so với tình trạng của họ trước khi thực hiện hành vi đó. Điểu kiện để thực hiện một hành vi xưng hô là : - Hành vi xưng hô chỉ diễn ra trong hội thoại. Ở đâu có hội thoại ở đó có xưng hô. - Vì diễn ra trong hội thoại nên hành vi xưng hô phải được thực hiện bởi các nhân vật hội thoại - chủ thể phát ngôn - chủ thể của hành vi xưng hô. Mỗi một hành vi ngôn ngữ có những biểu thức ngôn ngữ để thực hiện hành vi đó. Chẳng hạn như tương ứng với hành vi hỏi là các biểu thức ngôn ngữ để hỏi... Những biểu thức ngôn ngữ để thực hiện hành vi xưng hô là các phương tiện xưng hô như các đại từ xưng hô, các danh từ thân tộc các danh từ chỉ chức vụ, các tên riêng hay các cụm từ, các ngữ xưng hô... Biểu thức đó chúng tôi gọi chung là từ xưng hô. Như vậy từ xưng hô được dùng trong luận án này là một khái niệm rộng – cáic phương tiện dùng để xưng hô. Trong thực tế, xưng hô là cách qui chiếu chô vai giao tiếp - vai người nói và vai người nghe. Nhờ các từ xưng hô mà lời nói mới gá lắp vào một cuộc thoại cụ thể. Có thể coi các từ xưng hô như là những dấu hiệu khởi động, nhờ đó mà nhân vật giao tiếp chuyển từ sự im lặng sang nói năng - giao tiếp bằng lời. Xưng hô liên quan tới khái niệm nhân vật giao tiếp. Hội thoại chỉ hình thành và diễn ra khi có sự trao lời và đáp lời giữa các nhân vật giao tiếp. Trong đó, người phải được gọi là 17 ngôi thứ nhất (với người nói), người nhận đượi gọi là ngôi thứ hai (Vai người nghe). Ngôi chỉ ra vai trò của nhân vật giao tiếp thể hiện trong lời nói - sản phẩm của giao tiếp. Ngôi thứ nhất là kết quả của sự qui chiếu của người nói. Ngôi thứ hai là kết quả của sự qui chiếu do người nói tiến hành trong giao tiếp với một hay nhiều người cùng đối thoại với mình. Ngôi thứ ba qui chiếu tới người hay vật được nói tới trong thông điệp. Khác với ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai, ngôi thứ ba phải được người nghe chấp nhận, thôả thuận là đối tượng được nói tới. Nói cách khác, các nhận vật ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai là những nhân vật đương diện - nhân vật hội thoại. Ngược lại, các nhân vật ở ngôi thứ ba không phải là nhân vật hội thoại, do đó các nhân vật này không thể thục hiện hành vi xưng hô. Tóm lại, xưng hô là hành động ngôn ngữ của các nhân vật hội thoại - người nói và người nghe. Nhân vật hội thoại sử dụng các đơn vị ngôn ngữ một cách thường xuyên, liên tục để đưa mình vào trong lời nói(hành động xưng-ngôi 1) đưa người đối thoại vào trong lời nói(hành động hô-ngôi 2). 1.2. NHỮNG CHỨC NĂNG CỦA TỪ XƯNG HÔ. Có thể nói, chức năng chủ yếu của từ xưng hô là thiết lập quan hệ tiếp xúc giữa những người đối thoại và duy trì cuộc thoại giữa các bên tham gia. Sự im lạng hay thiếu vắng lời xưng hô hay sự thay đổi cách xưng hô cũng có một giá trị xã hội - ngôn ngữ học nhất định. Như vậy, xưng hô ngoài chức năng thiết lập quan hệ tiếp xúc (chức năng mở đầu cuộc thoại) còn có chức năng biểu lộ thái độ, tình cảm cũng như vị thế của các nhân vật hội thoại. Chúng tôi tìm hiểu ba chức năng cơ bản của từ xưng hô là chức năng định vị, chức năng chiếu vật và chức năng thể hiện quan hệ liên cá nhân. 1.2.1. CHỨC NĂNG ĐỊNH VỊ CỦA TỪ XƯNG HÔ. Trong công trình [23] Đỗ Hữu Châu đã khẳng định: “Trong ngôn ngữ tất cả các câu nói, bằng cách này hay cách khác đều phải có những yếu tố đóng vai trò định vị" [23, 130]. Khái niệm định vị được J.Lyons phát biểu như sau : " Định vị được hiểu là sự xác định và sự đẳng nhất người, quá trình, sự kiện mà người ta nói đển và qui chúng với một ngữ cảnh không - thời gian nào đó được tạo nên và được duy trì bởi hành động phát ngôn và bởi sự tham gia của một người nói duy nhất và ít ra là với một người nghe" [148, 260]. Từ định nghĩa của J.Lyons, chúng ta thấy, sự định vị trong lời nói phải được thực hiện bởi các nhân vật hội thoại - người nói và người nghe. 18 Ba phạm trù định vị đã được ngữ pháp hôá và đã được nghiên cứu trong ngữ pháp cổ điển là phạm trù ngôi (nhân xưng) địa điểm và thời gian. Ở luận án này, chúng tôi chỉ tìm hiểu phạm trù định vị trong ngôi nhân xưng qua các từ xưng hô - yếu tố định vị của ngôi. Theo quan sát của chúng tôi, yếu tố định vị đóng vai trò căn bản trong tất cả các phát ngôn có sử dụng từ xưng hô. Con người luôn ở vào thế giao tiếp với nhiều lớp người, loại người khác nhau về địa vị xã hội, lứa tuổi, giới tính, trình độ học vấn ... và giao tiếp cũng diễn ra ở ngữ cảnh rộng, hẹp khác nhau như không gian, thời gian cũng như tính chất qui thức hay bất qui thức của cuộc giao tiếp. Chính vì thế, các nhân vật hội thoại luôn luôn phải tựa chọn và sử dụng các từ xưng hô sao chô phù họp với từng loại quan hệ vai và phù họp với ngữ cảnh giao tiếp. Có nghĩa là, tùy vào môi quan hệ của ego+ (+ ego là thuật ngữ của dân tộc học chỉ cái Tôi ) với người đối thoại mà ego có thể xưng em ở vị trí 1 nhưng có thể xưng anh ở vị trí 2, hôặc xưng bố ở vị trí 3 ... Việc thay đổi này được thực hiện nhờ vào điểm gốc qui định chỗ đứng của ego. Nói rõ hơn, ego có thể thay đổi từ xưng hô khi vị thế của ego không còn giữ nguyên vị trí ban đầu. Điều này chứng tỏ vị thế của nhân vật hội thoại là tương đối . C.K. Orecchioni nhận xét "Tương tác là một qúa trình động. Ở T1, L1 có thể ở vị thế cao nhưng ở T2, L1 lại ở vị thế thấp. Đồng thời anh ta có thể mạnh ở mặt này nhưng lại yếu mặt kia; ví dụ người phỏng vấn và người được phỏng vấn" [I49,48]. Do dó, các nhân vật hội thoại muốn sử đụng từ xưng hô chô hợp lý thì phải xác định (định vị) được vị thế của mình với vị thế của người đối thoại. Trong giao tiếp, chúng ta thường có một bộ tiêu chí để định vị vị thế của mình và vị thế của người đối thoại như tuổi tác, quan hệ gia đình, quan hệ xã hội, vị thế giao tiếp ... Căn cứ vào vai trò định vị của từ xưng hô trong hôạt động giao tiếp thì những từ mang ý nghĩa chỉ quan hệ như "anh", "em", "cha", "mẹ", "ông", "bà", "chú", "bác" "cậu", "dì", "thím" ...là những từ không có ý nghĩa biểu vật như những từ miêu tả chân chính. So sánh các từ "anh", "cha", "chú", "cậu" ... với "đàn ông" và so sánh các từ "chị", "mẹ", "cô", "dì" ... với "đàn bà" sẽ làm nổi giá trị thực trong phạm vi định vị của các từ này. Ví dụ : Nhân vật A là "em" của nhân vật B "chị" của nhân vật C "em" của nhân vật B 19 "cô" của nhân vật D Nhưng dù mang vai là "em", "chị" hay "cô" với bất kỳ một nhân vật nào thì A vẫn chỉ là một người "phụ nữ", một người "đàn bà" mà thôi. Cũng như vậy, một người nào đó có thể là "em" đối với A ở điểm mốc này nhưng lại là "anh" của B ở điểm mốc khác hay là "bác" là "ông" của C thì anh ta cũng chỉ là một người "đàn ông" mà thôi. Nói tư xưng hô có chức năng định vị trong quá trình hội thoại, điều ấy có nghĩa là từ xưng hô có tác dụng tự bộc lộ vị thế của người nói về người nghe. Người nói tự xác định và "ý thức" về vị thế của người đối thoại so với bản thân mình mà sử dụng các từ xưng hô tương ứng. Đồng thời, qua các từ xưng hô, người nghe cũng nhận biết đươc thái độ, tình cảm của người nói đối với mình. Từ xưng hô có thể giúp chô người ngoài cuộc cũng có những hiểu biết nhất định về quan hệ của các nhân vật hội thoại chẳng hạn, một người được gọi là "chú" hay tự xưng là "chú" tất hẳn ẩn dấu quan hệ đã được xác định qua từ xưng hô đó. Tuy điểm gốc và vật chuẩn đưa ra ta mới có thể kết luận được quan hệ của các nhân vật hội thoại. Nêu yếu tố định vị ở đây là quan hệ xã hội đơn thuần thì người được gọi hay xưng là "chú", thường là người có độ tuổi chênh lệch so với người đối thoại khôảng một thế hệ (từ 15 - 20 tuổi). Chúng ta cũng chỉ đoán nhận được mối quan hệ giữa hai nhân vật hội thoại trên là quan hệ tuổi tác, giới tính. Nếu yếu tố định vị là quan hệ trong gia tộc thì nhân vật được gọi là "chú" thường là em trai ruột (hay em họ) của bố lấy thế hệ con là chuẩn. Trong công trình [24] , khi giới thiệu về sự định vị xã hội, Đỗ Hữu Châu chỉ rõ "Trong tiếng Việt, ngoài một số từ như "ngài", "bệ hạ" ... các từ định vị xã hội đều dựa vào sự định vị trong gia đình, họ hàng như "ông", 'bà", "anh", "chị" ... làm cơ sở" [24, 237]. Sự định vị này khiến chô các mối quan hệ ngoài xã hội trở nên thân thiết hơn. Như vậy, gọi một nhân vật nào đó là "em" hay "anh" hôặc bất luận một từ nào khác trong hệ thống từ xưng hô là phụ thuộc vào sự định vị vị thế của người nói. Trong hôạt động giao tiếp, tùy vào từng ngữ cảnh giao tiếp, tùy vào từng đối tượng giao tiếp cụ thể mà các nhân vật hội thoại có thể chọn tựa các nguyên tắc định vị khác nhau. Hai nguyên tắc định vị thường được sử dụng trong giao tiếp là nguyên tắc tự ngã trung tâm và nguyên tắc lấy người khác làm trung tâm. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan