DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCT
:
Bộ Chính trị
CNTT
:
Công nghệ thông tin
DH
:
Dạy học
DHLS
:
Dạy học lịch sử
GD - ĐT :
Giáo dục - Đào tạo
GV
:
Giáo viên
HS
:
Học sinh
HĐNT
:
Hoạt động nhận thức
NXB
:
Nhà xuất bản
PP
:
Phương pháp
PPDH
:
Phương pháp dạy học
PT
:
Phương tiện
PTDH
:
Phương tiện dạy học
SGK
:
Sách giáo khoa
THPT
:
Trung học phổ thông
TT
:
Truyền thông
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vấn đề được đặc biệt quan tâm hiện nay trong đổi mới phương pháp dạy học
(PPDH) là chuyển từ tư tưởng lấy người dạy làm trung tâm sang quan điểm lấy người học
làm trung tâm, nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh. Việc đổi mới phương
pháp dạy học được nhìn nhận một cách rộng rãi và linh hoạt, dựa trên nhiều phương
hướng tiếp cận khác nhau: Tiếp cận quan điểm tâm lý - giáo dục, tức là tìm cách phát huy
năng lực nội sinh của người học; tiếp cận theo quan điểm điều chỉnh mối quan hệ thầy trò
theo định hướng lấy người học làm trung tâm và tiếp cận theo quan điểm công nghệ, đưa
công nghệ mới vào nhà trường, cung cấp cho người thầy những công cụ lao động mới…
Ba hướng tiếp cận này luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, phối hợp với nhau trong quá trình
hoạt động thực tiễn. Trong đó, tiếp cận theo quan điểm công nghệ là phương hướng nổi
trội nhất. Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học trở thành xu thế tất yếu
của nền giáo dục hiện đại, được nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm.
1.2. Ở Việt Nam, trong khoảng 1 - 2 thập kỷ gần đây, vấn đề ứng dụng CNTT
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đã được Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ II Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định:
phải “đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền đạt một
chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng phương pháp
tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian
tự học, tự nghiên cứu cho học sinh…”.[11, tr.41]. Chỉ thị số 40 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng khóa IX cũng yêu cầu ngành giáo dục cần “đổi mới mạnh mẽ và cơ bản
phương pháp giáo dục nhằm khắc phục kiểu truyền thụ một chiều, nặng về lí thuyết,…
Tích cực áp dụng một cách sáng tạo các phương pháp tiên tiến, hiện đại, ứng dụng công
nghệ thông tin vào hoạt động dạy học” [43, tr.453]. Đặc biệt, từ năm học 2007- 2008, Bộ
Giáo dục - Đào tạo (Bộ GD - ĐT) đã có chủ trương triển khai mạnh hơn nữa việc ứng
dụng CNTT vào giáo dục với chủ trương thực hiện năm học 2008 - 2009 là “Năm học
Công nghệ thông tin”, trong đó đã khuyến khích mỗi trường Trung học phổ thông
(THPT) tạo mới nhiều thêm bài giảng điện tử của các môn học, đặc biệt cho cả các môn
khoa học xã hội như Văn, Sử, Địa, Nhạc, Họa. Khuyến khích giáo viên (GV) tham khảo các
tài liệu, bài giảng điện tử của đồng nghiệp trong công tác giảng dạy song cần phát huy tính
2
tích cực học tập thông qua thảo luận nhóm, tổ chức cho học sinh (HS) tập tự giải quyết vấn
đề, khuyến khích cách suy nghĩ độc lập và suy xét, phản biện lại vấn đề.
1.3. Trong dạy học lịch sử (DHLS), CNTT là công cụ, phương tiện hiện đại hỗ trợ
cho quá trình dạy học. Ứng dụng CNTT trong DHLS là một hướng đi quan trọng góp phần
nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Chính vì vậy, việc ứng dụng CNTT trong DHLS ngày
càng trở nên phổ biến ở các trường THPT trên cả nước. Chất lượng (hiệu quả) của các tiết
học Lịch sử có ứng dụng CNTT thường cao hơn giờ học truyền thống về nhiều mặt: bài học
lịch sử trở nên sinh động, hấp dẫn, HS hứng thú, dễ hiểu và nhớ lâu kiến thức. Tuy nhiên
thực tiễn ứng dụng CNTT hỗ trợ việc tổ chức hoạt động nhận thức (HĐNT) lịch sử cho học
sinh nhằm đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng DHLS ở trường THPT vẫn còn nhiều
bất cập và hạn chế. Hiện còn không ít GV có nhận thức chưa đúng về khái niệm, vai trò, ý
nghĩa của việc sử dụng CNTT trong tổ chức hoạt động nhận thức cho HS. Nhiều GV khi ứng
dụng CNTT chỉ chú ý đến các thao tác kĩ thuật, thích trình diễn, chưa chú trọng kết hợp giữa
ứng dụng phương tiện DH hiện đại với các hoạt động tổ chức nhận thức cho HS. Không ít
tiết học LS có ứng dụng CNTT bị GV biến thành một giờ “chiếu bài soạn” cho HS chép. Cơ
sở vật chất, thiết bị hỗ trợ cho việc ứng dụng CNTT trong DHLS của nhiều trường THPT
còn thiếu,… Những thiếu sót và hạn chế nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao
chất lượng DHLS ở trường THPT hiện nay.
1.4. Trong chương trình lịch sử lớp 12 THPT, phần Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ
1945 đến 1954 có vị trí quan trọng. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Chính phủ, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng:
kháng chiến và kiến quốc. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở nước ta bắt đầu từ ngày
23 - 9 - 1945 và kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định
Giơnevơ về chiến tranh Đông Dương được kí kết (21 - 7 - 1954). Để dạy tốt phần Lịch sử
Việt Nam ở giai đoạn này đòi hỏi GV phải vận dụng khéo léo, đa dạng các hình thức,
phương pháp và phương tiện dạy học (kể cả truyền thống và hiện đại), chú trọng tổ chức các
hoạt động nhận thức giúp HS nắm vững kiến thức, qua đó phát triển tư duy các em. Ở những
trường THPT, GV khi dạy lịch sử Việt Nam giai đoạt 1945 - 1954 đã chú trọng đến công tác
tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh nhưng ít chú ý sử dụng các phương tiện có sự hỗ
trợ của CNTT.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: "Tổ chức hoạt động
nhận thức cho học sinh với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử
3
Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình
Chuẩn)".
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu các biện pháp tổ chức hoạt động nhận
thức kiến thức mới cho học sinh với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin trong dạy học lịch
sử Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954 (bài học nội khóa) ở trường Trung học phổ thông
(Chương trình Chuẩn)
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CHO HỌC SINHVỚI SỰ
HỖ TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận của việc tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh với sự hỗ trợ của
công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông
1.1.1. Một số vấn đề về tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh với sự hỗ trợ của
CNTT trong DHLS ở trường THPT
Về đại thể, con đường nhận thức của học sinh trong học tập lịch sử ở trường
THPT tuân theo quy luật chung của sự nhận thức chân lí khách quan: từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng rồi lại trở về thực tiễn, nghĩa là từ cảm giác, tri giác, biểu
tượng đến khái niệm về sự vật khách quan. Theo đó, để đi từ “biết” đến “hiểu”, rồi “vận
dụng” kiến thức vào cuộc sống, trước tiên học sinh phải được “nhìn thấy”, tức là trực
tiếp quan sát sự kiện, hiện tượng, rồi mới tư duy trừu tượng quá khứ. Trong đó, “trực
quan sinh động là điều kiện để xây nên lâu đài nhận thức” [48, tr.68].
Chúng ta có thể hình dung sơ đồ khái quát về con đường hình thành kiến thức lịch
sử cho học sinh ở trường THPT như sau :
Con đường hình thành kiến thức LS cho HS ở trường THPT
Cung cấp
Tạo biểu
Hình thành
Nêu quy
Vận dụng
sự kiện
tượng LS
khái niệm
luật, bài học
kiến thức
Giai đoạn
Giai đoạn
Giai đoạn vận dụng
nhận thức cảm tính
Nhận thức lí tính
Kiến thức vào đời sống
Phải được tiến hành dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của tổ chức của GV
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ về con đường hình thành kiến thức LS cho HS ở trường THPT [21, tr.46]
Từ quy luật nhận thức chung về thế giới khách quan và sự nhận thức đặc thù
của học sinh khi học tập lịch sử giúp chúng ta hiểu rằng: Nếu giáo viên không được trang
bị tốt về phương pháp dạy học, chỉ “dạy chay, học chay”, không nắm vững chuyên môn,
5
nghiệp vụ sư phạm thì rất khó khăn trong việc giúp học sinh nhận thức, các em dễ rơi vào
tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử.
Theo các nhà lí luận về phương pháp dạy học lịch sử ở Việt Nam, tổ chức các
hoạt động nhận thức cho HS với sự hỗ trợ của CNTT trong DHLS ở trường THPT theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS là một hướng đi quan trọng, góp
phần tích cực vào đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng bộ môn.
Các thiết bị giáo dục phục vụ DHLS ở trường THPT hiện nay có nhiều loại,
như: tranh ảnh, bản đồ, mô hình, hiện vật, sa bàn, phim đèn chiếu, bảng trong dùng cho
máy chiếu qua đầu, băng đĩa ghi âm, băng hình, đĩa hình, phần mềm dạy học, trang web
học tập, giáo án điện tử… Chúng có vai trò, ý nghĩa to lớn trong việc giúp HS đi từ “trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng”, hiểu đúng bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch
sử, từ đó có tư tưởng tình cảm đúng đắn, phát triển toàn diện các em. Ở Việt Nam, trong
khoảng 1- 2 thập kỷ gần đây, vấn đề ứng dụng CNTT nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
nói chung, bộ môn Lịch sử nói riêng đã được đặt ra và khai thác ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Tuy vậy, đối với bộ môn Lịch sử, vấn đề này vẫn còn khá mới mẻ.
Trong DHLS, CNTT được xem như một công cụ, phương tiện trực quan hiện
đại hỗ trợ cho quá trình dạy học. Vì vậy, sử dụng đồ dùng trực quan nói chung, ứng dụng
CNTT trong DHLS nói riêng là biện pháp quan trọng để thực hiện có hiệu quả việc tổ
chức các hoạt động nhận thức của HS, vì “90% lượng thông tin từ bên ngoài vào não
thường qua mắt” [49, tr.72]. Các thí nghiệm về giáo dục cho thấy HS sẽ thu được 83% tri
thức khoa học nếu học trong môi trường đa phương tiện. [16, tr.21]. Theo số liệu khoa
học mà UNESCO công bố, HS chỉ nhớ 15% thông tin khi nghe (nhiều kiến thức lại
không cơ bản), 25% khi nhìn, nhưng nếu được kết hợp với đa phương tiện thì lượng
thông tin thu nhận đạt tới 65% [40, tr.75].
Trong DHLS, công nghệ thông tin chỉ là công cụ, phương tiện hiện đại hỗ trợ
cho quá trình dạy học, nó là một trong những yếu tố của quá trình dạy học. Điều này
được hiểu CNTT là công cụ, phương tiện hỗ trợ không chỉ cho hoạt động dạy của GV mà
còn cho hoạt động học của HS. Đối với GV, CNTT sẽ hỗ trợ tích cực cho quá trình thiết
kế kế hoạch bài học, tổ chức, hướng dẫn HS học tập, đặc biệt với các bài nghiên cứu kiến
thức mới. Với HS, đây được coi là phương tiện, công cụ hỗ trợ đắc lực cho quá trình tìm
kiếm tài liệu học tập, là cầu nối giúp các em tái hiện quá khứ, lĩnh hội kiến thức mới, thực
hiện tốt nhiệm vụ giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm và phát triển các kĩ năng học tập.
6
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc tổ chức hoạt động nhận thức cho HS với sự hỗ trợ của
CNTT trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
Việc tổ chức hoạt động nhận thức với sự hỗ trợ của CNTT trong dạy học lịch
sử có vai trò to lớn đối với GV và HS. Cụ thể, khi tiến hành bài học lịch sử trên lớp có
ứng dụng CNTT giúp tiết kiệm được thời gian cho cả GV và HS, nhất là với những nội
dung có sử dụng nhiều đoạn tường thuật, miêu tả hoặc cụ thể hóa sự kiện lịch sử. Trước
đây, GV tổ chức hoạt động nhận thức cho HS trong DHLS, khi sử dụng các loại phương
tiện trực quan truyền thống sẽ tốn thêm một số thời gian nhất định, mà hiệu quả lại không
cao bằng sử dụng CNTT. Ví như, khi sử dụng bức tranh lịch sử có kích thước nhỏ, GV
phải đi xuống lớp hướng dẫn HS quan sát, sử dụng lược đồ treo tường GV phải mất công
treo, hoặc nếu lập niên biểu, vẽ sơ đồ, đồ thị lịch sử trên bảng đen thì GV cũng mất khá
nhiều thời gian trong khi độ chuẩn xác và tính thẩm mĩ lại không cao. Ngược lại, nếu GV
ứng dụng CNTT để thiết kế giáo án điện tử ở nhà từ trước thì những công việc như trên
sẽ dễ dàng thực hiện với hiệu quả giáo dục và tính thẩm mĩ cao, tiết kiệm được thời gian
tối đa. Thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông cho thấy trong một tiết học (45 phút) ở
trên lớp, GV và HS phải thực hiện nhiều khâu khác nhau của cấu trúc bài học (ổn định
lớp, kiểm tra bài cũ, GV tổ chức HS nghiên cứu kiến thức mới, củng cố bài học, hướng
dẫn HS tự học ở nhà,…), trong đó khâu GV hướng dẫn, tổ chức HS nghiên cứu kiến thức
mới chỉ chiếm 30 đến 35 phút/ tiết học. Nếu chúng ta ứng dụng các thành tựu CNTT
trong quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho HS thì sẽ tiết kiệm được một khoảng
thời gian đáng kể, tạo điều kiện cho các em làm việc, tham gia hoạt động nhiều hơn. Với
đặc trưng của bộ môn cũng như những ưu điểm nổi bật của CNTT và truyền thông, GV
và HS có thể ứng dụng công nghệ này vào đổi mới phương pháp dạy - học, từng bước
nâng cao chất lượng bộ môn ở nhiều hình thức, các khâu khác nhau trong quá trình dạy
học.
Bên cạnh đó, việc tổ chức hoạt động nhận thức cho HS với sự hỗ trợ của
CNTT trong DHLS còn có ý nghĩa quan trọng cho cả GV và HS.
Đối với giáo viên: Tổ chức hoạt động nhận thức với sự hỗ trợ của CNTT
trong dạy học lịch sử sẽ góp phần giúp giáo viên thực hiện linh hoạt các khâu của cấu
trúc bài học ở trên lớp, tổ chức đa dạng các hoạt động học tập lĩnh hội kiến thức của học
sinh.
7
Đối với học sinh: Ứng dụng CNTT khi tổ chức hoạt động nhận thức cho HS
trong DHLS sẽ hỗ trợ cho việc tiếp thu kiến thức khoa học lịch sử một cách hiệu quả, qua
đó giáo dục và phát triển toàn diện HS, nâng cao chất lượng DH bộ môn.
Một cách khái quát, tổ chức hoạt động nhận thức với sự hỗ trợ của CNTT trong
DHLS sẽ có tác dụng hữu hiệu trong việc đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy
học bộ môn. Công việc này không chỉ giúp giáo viên từng bước nâng cao trình độ chuyên
môn và khả năng sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong dạy học, mà còn tiết
kiệm được thời gian trong bài giảng có sử dụng đoạn tường thuật, miêu tả,... Điều này
cũng không làm mất đi vai trò của giáo viên là người hướng dẫn, điều khiển, tổ chức cho
học sinh học tập, ngược lại còn làm cho các em thêm say mê, hứng thú, yêu thích lịch sử
hơn.
1.1.3. Khả năng hỗ trợ của công nghệ thông tin để tổ chức hoạt động nhận thức cho
học sinh trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông.
Trước hết, để tổ chức hoạt động nhận thức cho HS có hiệu quả, GV phải chuẩn bị
đầy đủ, chu đáo các nội dung và phương tiện DH. Với sự hỗ trợ của CNTT cho phép GV
có thể truy cập Internet để lựa chọn, bổ sung các nguồn kiến thức liên quan đến bài học,
làm phong phú và sâu sắc hơn bài học lịch sử trên lớp.
Thứ hai, GV sử dụng máy vi tính và các phần mềm, chương trình hỗ trợ để soạn
giáo án điện tử, thiết kế bài giảng điện tử (PowerPoint, Violet), chương trình xử lý đồ họa
và video: Paint, PhotoShop, Herovideo, Boilsoft Video Splitter… để thiết kế và chỉnh sửa
các ký hiệu trên lược đồ, bản đồ, cắt phim, chèn phim…phục vụ cho việc dạy học.
Thứ ba, GV cung cấp một số địa chỉ tìm kiếm trên mạng Internet cho học sinh để
các em tự lên mạng tìm kiếm tư liệu lịch sử phục vụ cho việc học tập. GV có thể ra bài
tập về nhà để các em tự tìm hiểu rồi lên lớp chia sẽ thông tin tìm kiếm được với các bạn
trong lớp.
Thứ tư, GV sử dụng máy vi tính, máy chiếu projector…để trình chiếu bài giảng
điện tử của mình, tổ chức, quản lý các hoạt động nhận thức cho HS (cá nhân, nhóm…) ở
trên lớp để các em cũng cố kiến thức cũ, lĩnh hội kiến thức mới một cách tích cực, chủ
động. Từ đó hình thành biểu tượng, khái niệm lịch sử, giúp học tìm ra được mối liên hệ
bên trong các sự kiện lịch sử cơ bản, rút ra quy luật và bài học lịch sử.
8
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh với sự hỗ trợ
của công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông
Để có những nhận xét khách quan, khoa học về nhận thức và thực tiễn của việc tổ
chức hoạt động nhận thức cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT với sự hỗ
trợ của công nghệ thông tin, làm căn cứ cho công tác nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành
điều tra khảo sát Trường THPT Vĩnh Định và Trường THPT Triệu Phong (Triệu Phong
-Quảng Trị).
1.2.1. Mục đích điều tra
Điều tra thực tế tình hình cơ sở vật chất, phương tiện và thiết bị dạy học; nhận thức
của GV về vai trò, ý nghĩa của việc tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh với sự hỗ
trợ của công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử; các hình thức và biện pháp sư phạm
mà GV đã sử dụng để tổ chức các hoạt động nhận thức cho HS trong DHLS với sự hỗ trợ
của CNTT; từ đó đề xuất các yêu cầu và biện pháp tổ chức hoạt động nhận thức cho học
sinh với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945
- 1954 ở trường THPT (Chương trình Chuẩn) đạt hiệu quả cao.
1.2.2. Đối tượng điều tra
Công tác điều tra được tiến hành đối với GV dạy bộ môn Lịch sử và HS tại
trường.
1.2.3. Nội dung điều tra
- Đối với GV: Chúng tôi sử dụng một số câu hỏi để kiểm tra nhận thức của GV về
vai trò, ý nghĩa của việc tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh với sự hỗ trợ của công
nghệ thông tin và việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử hiện nay ở
trường THPT cũng như các đề xuất của họ (xem Phụ lục 1).
- Đối với HS: Chúng tôi đưa ra mẫu phiếu điều tra để các em phản ánh tình hình
dạy học lịch sử và thực trạng của việc tổ chức hoạt động nhận thức có sự hỗ trợ của
CNTT trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông (xem Phụ lục 2).
1.2.4. Kết quả điều tra
Qua điều tra GV và HS ở 2 trường trên địa bàn huyện Triệu Phong, chúng tôi rút ra
một số kết luận như sau:
1. Việc tổ chức hoạt động nhận thức cho HS với sự hỗ trợ của CNTT trong DHLS
đã được nhiều GV nhận thức đúng sự cần thiết và tầm quan trọng của nó, song do nhiều
9
nguyên nhân khác nhau nên việc vận dụng chúng vào thực tiễn dạy học còn nhiều hạn
chế.
2. Để khắc phục tình trạng trên cần phải có sự quan tâm, đầu tư của Sở Giáo dục
Đào tạo, lãnh đạo các trường đối với cơ sở vật chất, trang thiết bị để GV có thể ứng dụng
CNTT trong hoạt động dạy học lịch sử.
3. GV cần phải thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ và khả năng tin học của
mình cũng như nắm vững lý luận dạy học bộ môn .
Tóm lại, qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy việc tổ chức hoạt động nhận
thức lịch sử cho học sinh với sự hỗ trợ của CNTT là một hướng đi đúng đắn, phù hợp với
lý luận dạy học hiện đại và mang tính thời sự.
10
CHƯƠNG 2
CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CHO HỌC
SINH VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 - 1954 Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)
2.1. Vị trí của lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954 ở trường THPT (Chương trình
Chuẩn)
Cuộc kháng chiến chống Pháp là sự kiện trọng đại mở đầu cuộc chiến tranh nhân
dân 30 năm (1945 - 1975). Đây là thắng lợi đầu tiên của chiến tranh nhân dân Việt Nam
trong thời đại Hồ Chí Minh, thắng lợi này cùng với thắng lợi tiếp sau của kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, làm cho chiến tranh nhân dân Việt Nam được xem là một câu
chuyện thần kỳ của thế kỷ XX. Đây cũng là thắng lợi đầu tiên của sự kết hợp chặt chẽ
giữa cách mạng và chiến tranh cách mạng, dùng chiến tranh thực hiện nhiệm vụ cách
mạng và tiến hành cách mạng trong chiến tranh, xây dựng và bảo vệ chế độ mới trong
chiến tranh. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp mở đầu cho miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hội và tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, đặt
cơ sở vững chắc cho kháng chiến chống Mỹ và cả cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam
từ đó về sau. Thắng lợi này góp phần quyết định vào việc lật đổ chế độ cai trị thực dân
Pháp trên toàn cõi Đông Dương, mở đường cho các dân tộc Lào và Campuchia giành độc
lập, xây dựng đất nước theo con đường đã chọn; đã đột phá thắng lợi vào hệ thống thuộc
địa thực dân cũ, mở đầu sự sụp đổ của hệ thống này trên thế giới buộc chủ nghĩa đế quốc
phải chuyển sang áp dụng chủ nghĩa thực dân kiểu mới để nô dịch các dân tộc. Chính vì
vậy, khóa trình lịch sử Việt Nam 1945 - 1954 có một vị trí vô cùng quan trọng trong
chương trình Lịch sử trung học phổ thông.
Về mặt kiến thức: khóa trình sẽ cung cấp cho học sinh Trung học phổ thông một hệ
thống chuẩn kiến thức và kỹ năng, giúp học sinh hiểu rõ:
- Âm mưu và thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đối với nước ta
trong thời kỳ 1945 - 1954.
- Sự lãnh đạo đúng đắn, chủ động, linh hoạt, sáng tạo của Đảng và Chính phủ ta do
Hồ Chí Minh đứng đầu trong việc đề ra đường lối để lãnh đạo dân tộc ta vượt qua tình
thế hiểm nghèo tưởng chừng như không vượt qua nổi, tiến hành cuộc kháng chiến kết
hợp với kiến quốc, từng bước tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta đánh bại các âm mưu và
11
thủ đoạn của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn
toàn vào năm 1954.
- Cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất và tinh thần lao động sáng tạo, quên mình
của cả dân tộc để đưa cuộc kháng chiến đi đến thành công.
- Từ đó hiểu được nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống
Pháp và can thiệp Mỹ đối với tiến trình lịch sử dân tộc và thế giới.
Về mặt thái độ, tình cảm: khóa trình sẽ góp phần giáo dục học sinh lòng căm thù
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, thấy được tính chất chính nghĩa của cuộc đấu tranh yêu
nước của nhân dân ta, tự hào về những thắng lợi huy hoàng và hiểu được qui luật phát
triển của lịch sử dân tộc, từ đó củng cố lòng tin ở thế hệ trẻ vào sự lãnh đạo của Đảng
trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, ra sức học tập, phấn đấu để xây dựng đất
nước ngày càng giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.
Về mặt kỹ năng: khóa trình lịch sử 1945 - 1954 sẽ tiếp tục rèn luyện cho học
sinh các kỹ năng chứng minh, phân tích, giải thích, đánh giá, tổng hợp; kỹ năng sử
dụng sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, quan sát bản đồ, phim tư liệu, biết sử dụng
công nghệ thông tin… để nhận thức, đánh giá các sự kiện lịch sử; hình thành các kỹ
năng tự học, kỹ năng hoạt động tương tác, chủ động sáng tạo trong việc tiếp thu tri
thức.
Khóa trình này là một bước trong quá trình hình thành tri thức lịch sử dân tộc
cùng những kỹ năng cũng như thái độ và tình cảm cho học sinh Trung học phổ thông;
đồng thời tạo ra những tiền đề, điều kiện để dạy học tốt phần lịch sử Việt Nam từ năm
1954 đến năm 2000 nhằm đi đến thực hiện đầy đủ mục tiêu của bộ môn Lịch sử theo
qui định của chương trình Lịch sử bậc Trung học phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành.
2.2. Các trường hợp và biện pháp tổ chức hoạt động nhận thức kiến thức mới cho
học sinh với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử Việt Nam giai
đoạn 1945 - 1954 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn)
Trên cơ sở nắm vững các nguyên tắc khi thiết kế và sưu tầm các phương tiện dạy
học nhằm tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh với sự hỗ trợ của công nghệ thông
tin trong dạy học lịch sử chúng tôi đưa ra một số trường hợp và biện pháp tổ chức hoạt
động nhận thức kiến thức mới (thuộc bài học nội khóa) cho học sinh với sự hỗ trợ của
12
công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954 ở trường
Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn).
Tổ chức cho học sinh nhận thức kiến thức mới có sự hỗ trợ của CNTT sẽ mang lại
hiệu quả cao trong việc GV là người tổ chức, định hướng và điều khiển HS, giúp HS lĩnh
hội kiến thức lịch sử, từ đó đưa ra những đánh giá, rút ra quy luật lịch sử.
2.2.1. Sử dụng tranh ảnh lịch sử đã thiết kế để giúp học sinh tái hiện hình ảnh lịch sử
Tranh ảnh lịch sử là một trong những loại kênh hình lịch sử (tranh ảnh, hình vẽ,
lược đồ, phim tài liệu, sơ đồ, niên biểu...) .Tranh ảnh là tài liệu quý hiếm, thường được
chụp ngay lúc sự kiện diễn ra (trừ trường hợp một số sự kiện quan trọng không có điều
kiện chụp ngay mà phải diễn lại, những vẫn đảm bảo tính chân thực lịch sử) nên có độ
chính xác về sự kiện lịch sử rất cao. Trong DHLS, GV sưu tầm, hướng dẫn HS thu thập
và sử dụng các loại tranh ảnh khác nhau. Tranh ảnh lịch sử có vai trò quan trọng đối với
việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh. Sử dụng tranh ảnh không chỉ để minh họa cho
bài học mà còn giúp HS quan sát, rút ra những kết luận những vấn đề cơ bản liên quan
đến nội dung sự kiện lịch sử được phản ánh. Tác dụng của tranh ảnh lịch sử đối với sự hỗ
trợ của CNTT sẽ nâng cao hiệu quả bài học, phát huy được tính tích cực của học sinh,
góp phần làm bài giảng của GV thêm phong phú sinh động.
Để việc sử dụng tranh ảnh lịch sử với sự hỗ trợ của CNTT khi dạy học trên lớp có
hiệu quả, người GV phải tuân thủ nguyên tắc thiết kế và sử dụng tranh ảnh lịch sử: Chọn
tranh ảnh phải phản ánh đúng đối tượng, phù hợp với nội dung kiến thức cơ bản được
trình bày ở SGK…. Khi sử dụng tranh ảnh lịch sử để dạy học trên lớp, GV phải tránh
việc biến khai thác kênh hình phục vụ cho bài học thành bài trình chiếu minh họa suông
(chỉ chiếu tranh ảnh cho học sinh xem). Để làm được điều này, GV phải tìm hiểu nội
dung lịch sử được “chứa đựng” bên trong mỗi bức tranh để hướng dẫn cho HS khai thác.
Trong quá trình lựa chọn nắm rõ nội dung của tranh ảnh lịch sử sử dụng bài giảng của
mình, GV sẽ định hướng được phương pháp tổ chức cho HS khai thác chúng.
Trước hết, GV cần xác định được nội dung cơ bản, mục tiêu cơ bản của bài học
(theo chuẩn kiến thức, kỹ năng) lựa chọn tranh ảnh phù hợp để sử dụng (nếu tranh ảnh đó
không có trong sách giáo khoa).
Với sự hỗ trợ của CNTT, GV thiết kế tranh ảnh trên các slide giáo án điện tử với các
phương pháp khai thác (đặt câu hỏi) liên quan đến kênh hình. Cần chú ý rằng, GV phải
nêu tên gọi của bức ảnh .
13
Các công việc trên được người GV tiến hành ở nhà, gắn liền với quá trình soạn giáo
án của mình. Công việc này được chuẩn bị kĩ càng, chu đáo thì việc tiến hành sử dụng
tranh ảnh trên lớp sẽ đạt hiệu quả cao.
Khi tiến hành bài dạy trên lớp, để phát huy tính tích cực của HS nhằm mục tiêu: HS
tự tìm hiểu nội dung của tranh ảnh dưới sự hướng dẫn của người thầy, GV có thể thực
hiện các bước sau:
Bước 1: Đến nội dung kiến thức cần sử dụng tranh ảnh lịch sử, GV chiếu slide tranh
ảnh (đã được chuẩn bị sẵn) lên cho HS quan sát để xác định một cách khái quát nội dung
tranh ảnh cần khai thác.
Bước 2: GV nêu câu hỏi, đặt vấn đề, tổ chức cho hướng dẫn cho HS tìm hiểu nội
dung tranh ảnh.
Bước 3: HS trình bày kết quả tìm hiểu nội dung tranh ảnh sau khi đã quan sát, kết
hợp gợi ý của GV và tìm hiểu nội dung trong bài học.
Bước 4: GV nhận xét, bổ sung phần trình bày của HS, hoàn thiện nội dung khai thác
tranh ảnh cung cấp cho HS.
GV cần nắm vững phân loại tranh ảnh, đặc biệt là tranh ảnh về chân dung nhân vật để
giúp HS nhận diện tốt nhân vật ấy thông qua công lao, tội trạng đối với lịch sử...
GV có thể sử dụng tranh ảnh với sự hỗ trợ của CNTT kết hợp các PPDH khác như
tài liệu thành văn, phim tư liệu, lược đồ... để khắc sâu nội dung lịch sử được phản ánh.
Ví dụ: Khi dạy học mục IV.2. Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950, ngoài
kênh hình trong SGK, GV có thể sử dụng bức tranh “Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đài quan
sát trận đánh Đông Khê trong chiến dịch Biên giới năm 1950”.
GV chiếu bức tranh lên màn hình PowerPoint cho HS quan sát, giới thiệu tên gọi
của bức tranh: “Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đài quan sát trận đánh Đông Khê trong chiến
dịch Biên giới năm 1950”.
14
Ảnh : Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đài quan sát trận đánh Đông Khê trong
Chiến dịch Biên giới 1950
GV đưa ra các câu hỏi liên quan trực tiếp đến hình, có thể gợi mở: Em biết gì về bức
tranh này? Bức ảnh trên do ai chụp? Nội dung bức ảnh nói lên điều gì?
GV để cho HS một thời gian ngắn quan sát tranh, suy nghĩ, tìm hiểu nội dung kiến
thức ở SGK rồi trả lời theo những câu hỏi gợi ý của GV đã nêu, HS khác lắng nghe và bổ
sung ý kiến. GV nhận xét phần trình bày của HS, kết luận giúp HS sáng tỏ những nội
dung lịch sử “chứa đựng” trong bức tranh: “Bức ảnh chúng ta đang xem là ảnh chụp
“Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đài quan sát trận đánh Đông Khê trong chiến dịch Biên giới
năm 1950” do nhà nhiếp ảnh Vũ Quang An chụp được trong lúc Bác ngồi quan sát trận
địa. Bức ảnh thể hiện được tầm quan trọng của chiến dịch Biên giới 1950, nói lên ý chí
quyết chiến quyết thắng cao, tình đoàn kết keo sơn trên dưới một lòng của Đảng, toàn
dân toàn quân ta. Bên cạnh đó, nó có ý nghĩa quan trọng và đẹp đẽ hơn, đó là biểu tượng
của chân dung của một con người suốt đời hi sinh cao cả, chỉ biết sống vì nước vì dân,
hướng tất cả tâm hồn của mình cho hạnh phúc của nhân dân và sự nghiệp cách mạng.
Bức ảnh này đã đi vào lịch sử, ghi dấu một giai đoạn đáng nhớ của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Nó đã trở thành biểu tượng truyền thống “Bác Hồ với ngành tình báo quân
sự Việt Nam””.
GV có thể sử dụng kết hợp với bài thơ của Bác:
15
“Chống gậy nên non xem trận địa
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta thế mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”
(Xuân Diệu dịch)
Cuối cùng, GV có thể yêu cầu HS khái quát lại nội dung bức tranh, hoặc nêu nhận
xét và dẫn dắt các em sang nội dung khác của bài.
2.2.2. Sử dụng phim tài liệu để tổ chức cho học sinh tiếp nhận kiến thức mới một
cách sinh động, chân thực nhằm tạo biểu tượng chính xác về quá khứ lịch sử
Phim tài liệu (PTL) là phim chuyên ghi lại những hình ảnh, sự kiện có thật, nhằm
phản ánh từng mặt hoạt động trong cuộc sống. Trong giai đoạn lịch sử 1945 - 1954 ở Việt
Nam những thước PTL được xây dựng trên những hình ảnh có thật (người thật, việc thật)
những sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử xảy ra trong những thời điểm nhất định. Việc
sử dụng PTL trong DHLS có tính giáo dục rất cao. Trước hết chúng phong phú về nội
dung, kết hợp chặt chẽ giữa hình ảnh và lời nói (âm thanh) tác động vào các giác quan
của học sinh, cung cấp một khối lượng thông tin lớn, hấp dẫn tạo cho các em biểu tượng
chân thực, sinh động về quá khứ. Đồng thời góp phần khắc phục việc “hiện đại hóa” lịch
sử. Trong quá trình, đó các giác quan của học sinh được huy động hơn (nghe, nhìn và tư
duy).
Để sử dụng PTL trong DHLS có hiệu quả, cũng giống như việc sử dụng các loại
ĐDTQ khác với sự hỗ trợ của CNTT, GV xác định nội dung, mục tiêu cơ bản của bài, lựa
chọn những đoạn PTL điển hình phù hợp với nội dung kiến thức SGK. GV sử dụng các
phần mềm tin học bổ trợ (cắt phim, nối phim, chèn phim…) để thiết kế xử lý các đoạn
phim cần thiết phù hợp với mục tiêu bài học đúng với ý tưởng của GV. GV nên chiếu thử
kiểm tra để tránh gặp sự cố khi trình chiếu trên lớp.
Khi sử dụng PTL để dạy học trên lớp, GV có thể sử dụng một trong hai trường hợp
sau:
Thứ nhất, sử dụng PTL để minh họa, cụ thể hóa một sự kiện, hiện tượng lịch sử vừa
học. Nghĩa là sau khi HS tìm hiểu xong một đơn vị kiến thức mới, GV cho HS xem phim
để minh họa, cụ thể hóa sự kiện vừa tìm hiểu. Như vậy, HS sẽ có biểu tượng chân thực về
lịch sử giúp HS ghi nhớ kiến thức hơn.
16
Thứ hai, GV yêu cầu HS xem đoạn phim tài liệu, đặt ra các câu hỏi nhận thức liên
quan đến nội dung đoạn phim đó. Đoạn PTL GV cho HS xem có nội dung là kiến thức cơ
bản của bài học. Lúc này, GV đóng vai trò là người tổ chức, định hướng cho HS xem
PTL để khai thác kiến thức.
Ví dụ: Khi dạy mục II.1 “Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954”, bài 20:
“Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 - 1954)”. GV hướng dẫn
HS xem PTL về cuộc họp của Bộ hính trị BCH TW Đảng họp ở Việt Bắc để bàn về kế hoạch
quân sự trong đông - xuân 1953 - 1954. Đoạn phim dài 37 giây, phản ánh không khí làm việc
và những nghị quyết quan trọng mà Bộ chính trị đề ra. Trước khi xem đoạn phim GV yêu cầu
HS tập trung theo dõi để trả lời các câu hỏi sau:
- Không khí làm việc của cuộc họp BCT BCH TW Đảng tháng 9 - 1954 diễn ra như
thế nào?
- Trong cuộc họp BCT BCH TW Đảng đã đề ra những nội dung gì?
- BCT đã đề ra phương hướng chiến lược quân sự của ta trong đông - xuân 1953 1954 như thế nào?
Những câu hỏi này tránh được việc HS chỉ xem phim theo nghĩa “xem cho vui”,
để giải trí đầu óc mà thu hút sự tập trung chú ý của HS đối với đoạn phim để trả lời được
các câu hỏi.
Sau khi chiếu phim xong, GV dành một khoảng thời gian nhất định để HS hệ thống
lại kiến thức thu được ở đoạn PTL này, rồi gọi một em đứng dậy trả lời, HS cả lớp nghe
và bổ sung ý kiến.
Cuối cùng, GV nhận xét phần trình bày của HS, kết luận lại nội dung kiến thức cơ
bản của mục: “Đoạn PTL phản ánh không khí làm việc nghiêm túc, khẩn trương của
BCT BCH TW Đảng vào tháng 9 - 1953 ở Việt Bắc. BCT đã đề ra những nghị quyết quan
trọng về chính trị và quân sự. Đề ra phương hướng chiến lược của ta trong đông - xuân
1953 - 1954 là: Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những hướng quan
trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch,
giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động đối phó với ta trên những địa bàn
xung yếu mà chúng không thể bỏ, tạo những điều kiện thuận lợi mới để ta tiêu diệt thêm
từng bộ phận sinh lực địch”.
17
( Xem phụ lục: Đĩa CD )
2.2.3. Tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh thông qua việc sử dụng lược đồ
giáo khoa điện tử nhằm giúp học sinh hiểu sâu hơn sự kiện lịch sử được phản ánh
trong sách giáo khoa
Lược đồ là loại đồ dùng trực quan quy ước thường được sử dụng trong quá trình
giảng dạy lịch sử. Nó được biểu tượng bằng các kí hiệu, hình ảnh nên có tác dụng tạo
biểu tượng, hình thành khái niệm lịch sử và phát huy năng lực trí tuệ của HS rất cao. Tất
cả các loại lược đồ dù phản ánh về yếu tố địa lí, quân sự, chính trị hay kinh tế - xã hội
nếu dùng trong nhà trường đều được gọi là lược đồ giáo khoa.. Việc sử dụng các loại
lược đồ lịch sử có sự hỗ trợ của CNTT sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc tổ chức hoạt
động nhận thức lịch sử cho HS nhất là phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954.
Để sử dụng lược đồ giáo khoa lịch sử có sự hỗ trợ của CNTT trong việc tổ chức
hoạt động nhận thức cho HS khi dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954 ở
trường THPT có hiệu quả, GV phải chú ý những nội dung sau:
Cũng như cách sử dụng các PT dạy học khác, trước hết GV phải nghiên cứu nội
dung cơ bản của bài, xác định mục tiêu bài học từ đó lựa chọn lược đồ phù hợp. Nếu lược
đồ đã có trong SGK thì GV thiết kế lại với sự hỗ trợ của CNTT. Trên cơ sở lược đồ đã
lựa chọn, GV tìm hiểu nội dung kiến thức lịch sử “ẩn” trong mỗi lược đồ cũng như các kí
18
hiệu quy ước. Nếu SGK không có lược đồ để giảng dạy thì GV căn cứ vào kiến thức lịch
sử cơ bản của bài học và các tài liệu tham khảo để thiết kế lược đồ với sự hỗ trợ của
CNTT theo mục đích của mình để tổ chức hoạt động nhận thức cho HS. Các lược đồ giáo
khoa được thiết kê với sự hỗ trợ của CNTT (trên phần mềm PowerPoint hay Flash) gọi
chung là lược đồ giáo khoa điện tử. Trong phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954,
lược đồ sử dụng chủ yếu là lược đồ quân sự (diễn biến của các chiến dịch). Tìm hiểu nội
dung lược đồ sẽ giúp GV định hướng được phương pháp sử dụng, dự kiến câu hỏi và tình
huống sư phạm khi dạy học trên lớp.
Khi tiến hành tổ chức các hoạt động cho HS nghiên cứu kiến thức mới ở trên lớp,
dạy đến nội dung nào cần khai thác lược đồ, GV trình chiếu lược đồ, vận dụng các biện
pháp sư phạm để hướng dẫn học sinh khai thác. GV có thể kết hợp sử dụng với các
phương pháp dạy học khác như tường thuật, miêu tả, phát vấn….
Trước hết, GV giới thiệu khái quát lược đồ, tỉ lệ và các kí hiệu cơ bản (được trình
bày ở phần chú giải). Hướng sự chú ý của HS vào một số chi tiết quan trọng trên lược đồ
và nêu câu hỏi gợi mở giúp HS dễ khai thác. GV nên gợi ý theo các nội dung ở SGK để
HS tìm hiểu được bản chất và ý nghĩa của sự kiện. Sau đó, gọi một HS đứng dậy trả lời
câu hỏi, HS cả lớp nghe và bổ sung ý kiến. Cuối cùng, GV nhận xét phần trình bày của
HS và kết luận lại nội dung cơ bản của vấn đề.
Khi sử dụng các lược đồ giáo khoa lịch sử có sự hỗ trợ của CNTT để tổ chức hoạt
động nhận thức cho HS bao gồm cả lược đồ được thiết kế với phần mềm PowerPoint hay
Flash GV phải tránh lạm dụng tính kỹ thuật, trình chiếu, màu sắc, âm thanh… dễ gây mất
tập trung sự chú ý của các em vào mục đích chính là khai thác nội dung lược đồ để tìm
hiểu nội dung bài học. GV phải nắm vững các biện pháp sư phạm khi sử dụng lược đồ
điện tử, kết hợp giữa câu hỏi nhận thức, câu hỏi gợi mở và ngôn ngữ diễn đạt của GV
nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng lược đồ giáo khoa điện tử để tổ chức hoạt động
nhận thức lịch sử cho HS.
Ví dụ: Khi dạy mục IV.2 “Chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950” bài 18 “Những
năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 - 1950)”. GV có thể
sử dụng: Lược đồ chiến dịch Biên giới thu - đông 1950 được thiết kế trên PowerPoint để tổ
chức hoạt động nhận thức cho học sinh. GV sau khi nắm kiến thức cơ bản của mục, lựa chọn
lược đồ phù hợp, GV ứng dụng CNTT để thiết kế lược đồ điện tử phù hợp với nội dung của
bài học và mục đích sử dụng của GV trong việc tổ chức hoạt động nhận thức lịch sử cho HS.
19
Ở trên lớp, khi tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh, GV chiếu lược đồ chiến dịch Biên
giới thu - đông năm 1950 trên màn hình PowerPoint (với sự hỗ trợ của máy chiếu và máy vi
tính) để học sinh quan sát, nhận biết những kí hiệu trên lược đồ bao gồm các kí hiệu thể hiện
tuyến hành lang Đông - Tây của địch, đường số 4, mũi tiến công của ta, nơi ta đánh địch
quyết liệt, địch hành quân/ rút chạy.
Lược đồ : Lược đồ chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950
(Xem phụ lục: Đĩa CD)
GV có thể sử dụng lược đồ này để khái quát lại kế hoạch Rơve của Pháp. GV trình
bày mục đích chiến dịch Biên giới của ta nhằm: “tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh
lực địch; khai thông đường sang Trung Quốc và thế giới; mở rộng và củng cố căn cứ địa
Việt Bắc, tạo đà thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến lên”. Dựa vào lược đồ điện tử đã thiết kế
sẵn, GV trình bày diễn biến của chiến dịch Biên giới năm 1950, HS cả lớp chú ý lắng
nghe. Sau đó, GV đặt câu hỏi nhận thức: “Tại sao nói:với chiến dịch Biên giới năm 1950
của ta làm cho kế hoạch Rơve của Pháp bị phá sản? Ý nghĩa lịch sử của chiến dịch?”.
Trên cơ sở nghe GV trình bày về diễn biến chính của chiến dịch cùng với quan sát trên
lược đồ giáo khoa điện tử, HS suy nghĩ và trả lời. HS cả lớp nghe và bổ sung ý kiến của
bạn. Cuối cùng, GV nhận xét, kết hợp trên lược đồ khái quát nội dung cơ bản để HS ghi
chép: “Chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi, ta đã chọc thủng tuyến: “Hành lang Đông
20
- Xem thêm -