ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ KIM UYÊN
CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH
NGHĨA VỤ NỘP THUẾTHEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ KIM UYÊN
CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ
THI HÀNH NGHĨA VỤ NỘP THUẾ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số
: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan Hương
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Hoàng Thị Kim Uyên
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NỢ
THUẾ, PHÁP LUẬT QUẢN LÝ NỢ THUẾ VÀ CÁC BIỆN PHÁP
CƯỠNG CHẾ THI HÀNH NGHĨA VỤ NỘP THUẾ ................................ 5
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG Về Nợ THUế VÀ QUảN LÝ Nợ THUế ..................5
1.1.1. Khái quát chung về nợ thuế: ................................................................. 5
a. Khái niệm nợ thuế: ..................................................................................... 5
b. Những đặc trưng cơ bản của nợ thuế: ......................................................... 8
c. Phân loại:.................................................................................................... 9
1.1.2. Khái quát chung về quản lý nợ thuế: .................................................. 15
a. Khái niệm về quản lý nợ thuế: .................................................................. 15
b. Các nội dung cơ bản của công tác quản lý nợ thuế: .................................. 16
c. Đặc trưng của quan hệ quản lý nợ thuế: .................................................... 18
1.2. KHÁI QUÁT PHÁP LUậT Về QUảN LÝ Nợ THUế VÀ CƯỠNG CHẾ
THI HÀNH NGHĨA VỤ NỘP THUẾ .................................................................19
1.2.1. Vai trò của pháp luật trong quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành
nghĩa vụ nộp thuế: ........................................................................................ 19
1.2.2. Cấu trúc pháp luật về quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành nghĩa vụ
nộp thuế: ...................................................................................................... 21
1.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM Về QUảN LÝ Nợ THUế TRÊN THế GIớI ......23
1.3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản:................................................................ 23
1.3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc: .............................................................. 25
1.3.3. Kinh nghiệm tại Anh: .......................................................................... 28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT – THỰC TIỄN THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH NGHĨA
VỤ NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................. 30
2.1. THựC TRạNG PHÁP LUậT VỀ CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI
HÀNH NGHĨA VỤ NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM ................................................30
2.1.1. Hệ thống các quy phạm pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành
nghĩa vụ nộp thuế ở Việt Nam: ..................................................................... 30
2.1.2. Nội dung pháp luật về quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành nghĩa vụ
nộp thuế: ...................................................................................................... 33
a. Các trường hợp bị cưỡng chế: ................................................................... 33
b. Trốn tránh thực hiện cưỡng chế: ............................................................... 34
c. Trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế: ................ 35
d. Thanh tra, kiểm tra và cưỡng chế thuế: ..................................................... 38
2.1.3. Những ưu điểm và hạn chế của pháp luật về các biện pháp cưỡng chế
thi hành nghĩa vụ nộp thuế hiện hành ở Việt Nam: ....................................... 38
a. Ưu điểm: .................................................................................................. 38
b. Hạn chế: ................................................................................................... 40
2.2. THựC TIễN THI HÀNH PHÁP LUậT Về CÁC BIệN PHÁP CƯỡNG CHế THI HÀNH NGHĨA
Vụ NộP THUế ở NƯớC TA HIệN NAY:..........................................................................45
2.2.1. Tình hình thực thi pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa
vụ nộp thuế ở nước ta trong thời gian qua: .................................................. 45
2.2.2. Những hạn chế phát sinh trong thi hành pháp luật về các biện pháp
cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế ở nước ta. ......................................... 48
2.2.3. Những bất cập trong công tác thu hồi nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế tại
một số địa phương:....................................................................................... 57
2.2.4. Nguyên nhân: ..................................................................................... 67
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH NGHĨA
VỤ NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM .................................................................. 72
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành
nghĩa vụ nộp thuế ở Việt Nam: ..................................................................... 72
a. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật: ................................................ 72
b. Mục tiêu: ................................................................................................. 73
c. Yêu cầu: .................................................................................................. 74
3.2. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành
nghĩa vụ nộp thuế ở Việt Nam: ..................................................................... 74
KẾT LUẬN ................................................................................................. 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 86
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Luật quản lý thuế đã được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 10 thông qua
ngày 29/11/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007. Luật quản lý thuế ra
đời đã làm thay đổi căn bản cơ chế quản lý thuế nước ta từ quản lý thuế
chuyên quản, trực tiếp trước đây sang tự khai, tự tính, tự nộp thuế. Người nộp
thuế căn cứ vào hoạt động kinh tế của mình, căn cứ vào các quy định của
pháp luật về thuế để tự xác định, tự kê khai, tự tính số thuế phải nộp và tự
giác nộp số tiền thuế cho Ngân sách Nhà nước theo đúng thời hạn quy định
của pháp luật. Mục tiêu của cơ chế tự khai, tự nộp thuế là phát huy tính tự
giác, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nghĩa vụ thuế của mình trước pháp luật.
Chính từ sự thay đổi căn bản này đặt ra nhiều vấn đề mới cần giải quyết. Kể
từ khi Luật quản lý thuế ra đời, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã ban
hành ra hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật ở các lĩnh vực quản lý thuế khác nhau, trong đó có
một bộ phận pháp luật có vị trí khá quan trọng và khá phức tạp là bộ phận các
biện pháp cưỡng chế để thi hành nghĩa vụ nộp thuế. Trong thời gian thực hiện
Luật quản lý thuế bước đầu đã thu được nhiều những thành tựu nhất định
trong quản lý thuế. Bên cạnh đó, qua quá trình thực hiện pháp luật quản lý
thuế nói chung và pháp luật quản lý nợ thuế nói riêng đã bộc lộ những hạn
chế nhất định, đồng thời phát sinh một số vướng mắc cần được giải quyết.
Đặc biệt, trong khoảng thời gian gần đây, tình trạng người nộp thuế vi phạm
nghĩa vụ nộp thuế, nộp phạt dẫn đến nợ đọng tiền thuế, tiền phạt hàng năm
đang trở thành mối lo hàng đầu của Chính phủ và các cơ quan quản lý tài
chính quốc gia, trong đó có cơ quan thuế. Tình trạng này đòi hỏi Nhà nước
sớm phải tìm ra các biện pháp nhằm triệt để thu hồi nợ đọng tiền thuế, tiền
phạt. Một trong các biện pháp đã và đang được áp dụng khá phổ biến trên thế
1
giới - đó chính là biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nợ thuế. Tuy nhiên,
việc áp dụng biện pháp này như thế nào cho hiệu quả là vấn đề cần được quan
tâm nghiên cứu, cả từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn.
Với những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Các biện pháp cưỡng chế thi
hành nghĩa vụ nộp thuế theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc
sĩ của mình nhằm nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận về quản lý
thuế, pháp luật quản lý thuế và đưa ra một số đánh giá về thực trạng pháp luật,
thực tiễn thi hành pháp luật các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp
thuế ở nước ta. Trên cơ sở đó đưa ra một số định hướng và giải pháp hoàn
thiện bộ phận pháp luật này ở nước ta trong giai đoạn tới.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về pháp luật
các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế, đánh giá thực trạng bộ
phận pháp luật này và trên cơ sở đó đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn
thiện để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật quản lý thuế.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài:
Liên quan đến các nghiên cứu về quản lý thuế và pháp luật quản lý thuế
có một số công trình nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ “Xây dựng mô hình
quản lý chất lượng toàn diện trong quản lý thuế” của Nguyễn Thành Danh –
Đại học kinh tế Hồ Chí Minh, luận văn tiến sĩ "Pháp luật quản lý thuế trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Vũ
Văn Cương - Đại học Luật Hà Nội, hay “Giải pháp công tác cưỡng chế nợ
thuế tại chi cục thuế quận Gò Vấp”,…và rất nhiều những bài viết chuyên sâu
của nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, các đề tài trên chỉ dừng
lại ở các vấn đề chung về mô hình tổ chức bộ máy quản lý hay việc áp dụng
biện pháp cưỡng chế tại một khu vực rất nhỏ. Nhìn chung là thiên về lĩnh vực
kinh tế, và vấn đề về các biện pháp cưỡng chế để thi hành nghĩa vụ nợ thuế
2
chỉ là một phần nhỏ trong các đề tài luận văn này. Cho đến nay vẫn chưa có
một đề tài nào tập trung nghiên cứu sâu về vấn đề trên cả về mặt lý luận cũng
như thực tiễn.
Ở nước ta, bộ phận pháp luật quản lý thuế đã được Nhà nước quan
tâm xây dựng trong những năm gần đây bước đầu đã phát huy hiệu quả. Bên
cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập,
đặc biệt trong thời gian gần đây, tình trạng nợ đọng, dây dưa nộp thuế, nộp
phạt đang có chiều hướng gia tăng, gây ảnh hưởng nhất định đến nguồn thu
ngân sách nhà nước, trong đó có nguyên nhân quan trọng từ các quy định về
quản lý thuế.
Việc đánh giá, xem xét một cách có hệ thống các quy định của pháp
luật và thực tiễn thi hành pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa
vụ nộp thuế ở nước ta trong những năm vừa qua để làm cơ sở cho việc hoàn
thiện pháp luật quản lý thuế nói chung, pháp luật về quản lý nợ thuế nói riêng
ở nước ta.
4. Đối tượng, phương pháp và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Các quy định của pháp luật về thuế, quản lý
nợ thuế và các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế ở Việt Nam
hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu truyền thống trong khoa học pháp lý: phân tích, tổng hợp, so
sánh các thông tin, số liệu,...
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định
của pháp luật hiện hành về nợ thuế, các biện pháp cưỡng chế được sử dụng để
thi hành nghĩa vụ nộp thuế và có so sánh với pháp luật của một số nước trên
thế giới, đồng thời tìm hiểu thực tiễn áp dụng, triển khai các quy định đó ở
3
một số tỉnh thành trong cả nước. Sau đó đề xuất các giải pháp để hoàn thiện
pháp luật sao cho phù hợp với các điều kiện thực tế hiện nay.
5. Tổng quan tài liệu:
Dựa trên cơ sở các quy định của Pháp luật về thuế cùng với các báo cáo
tổng kết, rà soát, đánh giá thực tiễn, các bài viết, ý kiến tranh luận của các
chuyên gia và các công trình nghiên cứu khác… Tài liệu tham khảo từng nội
dung cụ thể được trích dẫn trong Luận văn.
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NỢ THUẾ,
PHÁP LUẬT QUẢN LÝ NỢ THUẾ VÀ CÁC BIỆN PHÁP
CƯỠNG CHẾ THI HÀNH NGHĨA VỤ NỘP THUẾ
1.1. Khái quát chung về nợ thuế và quản lý nợ thuế:
1.1.1. Khái quát chung về nợ thuế:
a. Khái niệm nợ thuế:
Khái niệm “nợ” nói chung thường là một thuật ngữ được dùng để nói
đến một nghĩa vụ của một chủ thể (con nợ hay người mắc nợ) phải thực hiện
hoặc sẽ phải thực hiện trong hiện tại hoặc trong tương lai đối với một chủ thể
khác (chủ nợ). Khái niệm “nợ” chủ yếu được sử dụng để nói các nghĩa vụ tài
sản mà một bên chủ thể phải thực hiện trong các giao dịch dân sự, thương mại
như quan hệ vay, mượn tài sản, mua, bán,…
Bách khoa toàn thư mở rộng Wikipedia định nghĩa: “Nợ là một thuật
ngữ được sử dụng trong trường hợp nợ về tài sản. Tuy nhiên, nợ cũng có thể
được sử dụng để chỉ các nghĩa vụ khác. Trong trường hợp nợ tài sản thì nợ
là một cách sử dụng sức mua trước khi kiếm đủ tổng số tiền để trả cho sức
mua đó”.
Nợ là một phần của tổng tài sản mà người mượn phải trả cho người cho
mượn ở một hay nhiều thời điểm trong tương lai. Nợ như vậy bao gồm: nợ
vay ngân hàng, nợ qua việc bán trái phiếu, nợ tiền trả trước của khách hàng
hoặc nợ từ bổn phận phải chi trả khác (chẳng hạn: Nhà nước nợ công chức
tiền hưu trí hứa hẹn sau khi về hưu). Nợ như trên không bao gồm cổ phiếu
hay phần hùn vốn vào các tổ chức kinh tế.
Tuy nhiên, khi nói đến nợ thuế thì lại không hoàn toàn như vậy. Nợ
thuế là một trong những đặc trưng thể hiện ở sự phát triển của ngành thuế. Ở
đây không phải là phần tài sản của cá nhân hay tổ chức đã vay mà là phần tài
5
sản cá nhân hay tổ chức thuộc diện phải đóng thuế theo quy định của pháp
luật phải nộp vào ngân sách Nhà nước khi phát sinh nghĩa vụ đó trong quá
trình sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào định nghĩa cụ thể về “nợ
thuế”. Trong Hiến pháp 1992, tại Điều 80 quy định: “Công dân có nghĩa vụ
đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật”. Hiến pháp mới
năm 2013 tiếp tục kế thừa các quy định trong Hiến pháp năm 1992, riêng
nghĩa vụ nộp thuế được sửa đổi về chủ thể là “Mọi người có nghĩa vụ nộp
thuế theo luật định” (Điều 47), không chỉ là công dân có nghĩa vụ nộp thuế
như Hiến pháp năm 1992. Tại khoản 3 Điều 7 Luật Quản lý Thuế được
(Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 10 số 78/2006/QH thông qua ngày
29/11/2006) quy định: “Người nộp thuế có nghĩa vụ nộp tiền thuế đầy đủ
đúng thời hạn, đúng địa điểm…”.
Nợ thuế nếu hiểu theo nghĩa rộng là nghĩa vụ tài chính phải thực hiện
của tổ chức, cá nhân đối với Nhà nước. Thời điểm xác định một chủ thể có
nghĩa vụ nộp thuế (có nợ thuế Nhà nước) được tính từ khi có sự kiện pháp lý
đã được pháp luật dự liệu phát sinh. Chẳng hạn, trong pháp luật về thuế giá trị
gia tăng quy định: “Thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa
là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hóa cho
người mua, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. Thời
điểm xác định thuế giá trị gia tăng đối với dịch vụ là thời điểm hoàn thành
việc cung ứng dịch vụ hoặc thời điểm lập hóa đơn cung ứng dịch vụ, không
phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền”.
Theo như quy định trên, thời điểm chuyển giao hàng hóa đến người tiêu
dùng hoặc thời điểm hoàn thành việc cung ứng dịch vụ, cá nhân (tổ chức) cung
ứng hàng hóa, dịch vụ đó đã phát sinh nghĩa vụ nộp thuế. Nói cách khác, cá
nhân (tổ chức) này đã phát sinh một khoản nợ thuế đối với Nhà nước và họ cần
6
phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Tuy nhiên, nếu mỗi khi phát sinh nghĩa vụ
nộp thuế, đối tượng nộp thuế lại phải đến địa điểm nộp thuế sẽ mất rất nhiều
thời gian, công sức, tiền bạc làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, kinh doanh.
Vì vậy, trong quản lý thuế, để tạo điều kiện thuận lợi và hạn chế các chi phí
cho việc kê khai, thu nộp thuế cho người nộp thuế và các cơ quan quản lý thu
thuế của Nhà nước thì pháp luật quy định kỳ tính thuế, kỳ kê khai, nộp thuế.
Kỳ tính thuế: là khoảng thời gian để xác định số tiền phải nộp ngân
sách Nhà nước theo quy định của pháp luật về thuế mà người nộp thuế phải
thực hiện. Chẳng hạn, kỳ tính thuế VAT đối với hàng hóa, dịch vụ kinh doanh
trong nước tính thu hàng tháng.
Kỳ kê khai, nộp thuế: là khoảng thời gian mà người nộp thuế phải thực
hiện kê khai số thuế phải nộp theo kỳ tính thuế và phải nộp tờ khai cho cơ
quan thuế và nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật
về thuế. (Luật thuế giá trị gia tăng quy định: hết tháng, cơ sở kinh doanh kê
khai, tính thuế và nộp số tiền thuế phát sinh trong tháng chậm nhất không quá
20 ngày của tháng tiếp theo).
Như vậy, thời điểm phát sinh nghĩa vụ nộp thuế và thời điểm nộp thuế
vào Ngân sách Nhà nước không trùng nhau. Bởi vậy, nợ thuế có thể hiểu theo
nghĩa hẹp hơn.
Theo nghĩa hẹp, nợ thuế là số tiền thuế mà người có nghĩa vụ nộp thuế
phải nộp trong kỳ tính thuế mà đã quá thời hạn phải nộp thuế mà chưa nộp
hoặc nộp còn thiếu số tiền thuế phải nộp trong kỳ tính thuế.
Tại điểm 4.5 mục IV của quy trình quản lý thu nợ thuế ban hành kèm
theo Quyết định số 477/QĐ-TCT ngày 15/5/2008 của Tổng cục trưởng Tổng
cục Thuế có quy định: “Tiền nợ thuế là số tiền thuế được xác định phải nộp
vào Ngân sách Nhà nước nhưng đã quá thời hạn nộp theo quy định của pháp
luật mà chưa nộp vào Ngân sách Nhà nước ”.
7
Thời điểm bắt đầu tính nợ đối với một khoản nợ thuế là ngày tiếp theo
ngày hết hạn nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế. Thời điểm kết
thúc tính nợ đối với một khoản nợ thuế là ngày tiếp theo ngày khoản nợ được
nộp vào Ngân sách Nhà nước, hoặc ngày có hiệu lực thi hành của văn bản xóa
nợ, miễn nộp hoặc xử lý bằng các hình thức khác.
“Tuổi nợ thuế” là khoảng thời gian liên tục tính từ thời điểm bắt đầu
tính nợ thuế đến thời điểm khoản nợ đó được xác định tuổi. Tuổi nợ được tính
theo ngày bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ.
Do có nhiều quan điểm khác nhau về nợ thuế, trong luận văn này sẽ sử
dụng khái niệm nợ thuế theo nghĩa hẹp để có cách hiểu thống nhất với các văn
bản pháp luật quản lý thuế hiện hành ở Việt Nam hiện nay.
Từ những lập luận ở trên, có thể định nghĩa một cách khái quát về nợ
thuế như sau:
Nợ thuế là những khoản tiền của thể nhân hoặc pháp nhân (thuộc đối
tượng phải nộp thuế theo quy định của pháp luật) chưa nộp hoặc chưa nộp đủ
vào Ngân sách Nhà nước sau khi đã hết hạn nộp thuế hoặc hết thời hạn gia
hạn nộp thuế.
b. Những đặc trưng cơ bản của nợ thuế:
Chủ thể trong quan hệ nợ thuế: Chủ nợ là Nhà nước, người mắc nợ là tổ
chức, cá nhân thỏa mãn dấu hiệu luật định phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
cho Nhà nước.
Quan hệ nợ thuế: là quan hệ phát sinh trên sơ sở luật định, quan hệ
quyền lực và nghĩa vụ (quan hệ hành chính).
Quan hệ xử lý nợ thuế là quan hệ được điều chỉnh bằng pháp luật thuế chứ
không phải là quan hệ được điều chỉnh bằng pháp luật dân sự hay thương mại.
Nợ thuế là nghĩa vụ tài sản được xác định bằng một số tiền nhất định.
Điều 43 Luật Quản lý thuế 2006 cũng quy định: “Đồng tiền nộp thuế là đồng
8
Việt Nam, trừ trường hợp nộp thuế bằng ngoại lệ theo quy định của Chính
phủ”. Như vậy, đối tượng nợ thuế phải thực hiện nghĩa vụ của mình xác định
bằng số tiền mặt nhất định, tùy thuộc vào loại thuế, thuế suất,… theo quy định
của pháp luật.
Nợ thuế là số tiền nợ của người nộp thuế đối với Ngân sách Nhà nước
đã quá thời hạn phải nộp mà chưa nộp (tương tự nợ quá hạn trong quan hệ
kinh tế, dân sự).
c. Phân loại:
Phân loại nợ thuế là việc phân chia nợ thuế thành những nhóm khác
nhau theo những tiêu thức nhất định.
Việc phân loại nợ thuế là phương pháp quan trọng nhằm giúp cơ quan
thuế xác định được rõ đặc điểm, tính chất, nguyên nhân, tình trạng, tuổi nợ
của từng khoản nợ thuế, qua đó có thể áp dụng các biện pháp quản lý thu nợ
thuế có hiệu quả. Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các khoản nợ thuế
của người nộp thuế.
*Căn cứ vào thời gian nợ
Nợ thuế được chia thành nợ trong hạn và nợ quá hạn:
- Nợ trong hạn: nợ thuộc nhóm này bao gồm các khoản nợ thuế vẫn còn
trong thời hạn nộp thuế. Chẳng hạn, nợ thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu trong thời gian ân hạn thuế. Ngoài ra còn có nợ thuế trong hạn do được
gia hạn nộp thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế. Đối với khoản nợ thuế
trong hạn thì việc nợ thuế là đương nhiên, không phải là vấn đề đáng lo ngại
trong quản lý thuế. Tuy nhiên, nợ thuế trong hạn cũng cần theo dõi để nắm
bắt, đôn đốc thu nộp kịp thời khi đến hạn nộp thuế.
- Nợ quá hạn: nợ trong nhóm này được phân loại như các khoản nợ
thông thường theo tiêu thức phân loại theo khả năng thu hồi nợ. Có nghĩa là
những khoản nợ đến hạn trả theo quy định của pháp luật hoặc theo thông báo
9
hoặc được ghi trên quyết định của cơ quan thuế đến hạn nộp mà chưa nộp thì
được coi là nợ quá hạn. Tùy theo yêu cầu quản lý, nợ quá hạn có thể phân loại
chi tiết hơn nữa theo mức độ quá hạn để có biện pháp quản lý và đôn đốc thu
hồi nợ thuế phù hợp.
*Căn cứ vào quyết định làm phát sinh nghĩa vụ
Nợ thuế được chia thành nợ thuế thông thường, nợ phạt thuế và nợ thuế
truy thu phải nộp sau thanh tra, kiểm tra.
- Nợ thuế thông thường: nợ trong nhóm này thường bao gồm các khoản
nợ phát sinh từ số thuế phải nộp do người nộp thuế kê khai với cơ quan thuế
mà không bao gồm số thuế bị truy thu, bị phạt chậm nộp do cơ quan thuế
thanh tra, kiểm tra phát hiện. Xét theo những tiêu chí khác nhau, trong nhóm
nợ thuế này cũng bao gồm nhiều khoản nợ có tuổi nợ, mức nợ khác nhau do
người nộp thuế kê khai với cơ quan thuế và các khoản nợ này được theo dõi
trên hồ sơ quản lý đối tượng nộp thuế lưu tại cơ quan thuế.
- Nợ phạt thuế: theo Luật Quản lý thuế hiện nay thì việc cơ quan thuế
xử phạt thuế đối với người nộp thuế vi phạm về thuế thì sẽ có nhiều loại vi
phạm tương ứng với từng nội dung vi phạm, tương ứng với đó là các khoản
nợ phát sinh cho từng lần vi phạm. Do đó, trong nhóm nợ phạt thuế này còn
có thể chia thành các khoản mục nợ như: nợ do phạt nộp chậm, nợ phạt thiếu
thuế phải nộp, nợ phạt trốn thuế, nợ phạt vi phạm thủ tục về thuế.
- Nợ thuế truy thu phải nộp sau thanh tra, kiểm tra: đây là khoản nợ thuế
mà cơ quan thuế sau quá trình kiểm tra, thanh tra đã phát hiện thêm số thuế
phải nộp mà đơn vị bỏ ngoài sổ sách, không kê khai hoặc khai không chính xác
ở tất cả các loại hồ sơ khai thuế trong năm tính thuế. Ở thời điểm cơ quan thuế
tiến hành thanh tra, kiểm tra thì theo quy định số thuế này phải được nộp vào
Ngân sách Nhà nước nhưng có thể đơn vị do vô tình hoặc cố ý đã kê sai để
trốn thuế. Số nợ thuộc nhóm nợ này phản ánh được số thuế phát hiện thêm
10
được coi là nợ thuế của người nộp thuế được thanh tra, kiểm tra. Tuy nhiên,
nó cũng có ý nghĩa quan trọng giúp cơ quan thuế có những biện pháp quản lý
thích hợp với những nhóm nợ này. Đồng thời, việc theo dõi nợ thuế theo
nhóm này giúp cho cơ quan thuế đánh giá được các mức độ vi phạm pháp luật
thuế của người nộp thuế trong từng thời kỳ cụ thể.
Trong công tác quản lý thuế, việc phân loại nợ theo nội dung giúp thực
hiện đúng trình tự thu thuế khi cưỡng chế thuế theo quy định của Luật Quản
lý thuế. Theo đó, tiền thuế phải được thu trước tiền phạt.
*Căn cứ điều kiện thực tế về quản lý thu thuế
Đó là những thông tin kê khai thuế, tài liệu, hồ sơ về người nộp thuế đã
thu thập được; thông tin về người nợ thuế, số tiền nợ thuế từ bộ phận kê khai
và kế toán thuế chuyển sang. Dựa vào các điều kiện này có thể phân loại
thành: Nợ có khả năng thu, nợ khó thu, nợ chờ xử lý.
- Nợ có khả năng thu: là số tiền nợ thuế của người nợ thuế được xác
định phải nộp vào Ngân sách Nhà nước nhưng còn trong thời hạn nộp thuế
hoặc đã hết thời hạn nộp theo quy định của pháp luật mà chưa nộp và không
thuộc các trường hợp thuộc nhóm nợ khó thu và nợ không có khả năng thu
hồi. Thuộc nhóm này là nợ thuế của những người nộp thuế vẫn đang lao động
hoặc tiến hành sản xuất, kinh doanh bình thường, không lâm vào tình trạng
quá khó khăn dẫn đến tình trạng không có khả năng nộp thuế. Tùy theo yêu
cầu quản lý, cơ quan thuế có thể tiếp tục chia nợ có khả năng thu hồi thành
các loại: nợ thuế chậm nộp dưới 30 ngày, nợ thuế chậm nộp từ 30 đến dưới 90
ngày. Mốc nợ thuế 90 ngày là mốc quan trọng vì nó liên quan tới thời điểm
xác định một trong những dấu hiệu phải áp dụng biện pháp cưỡng chế theo
Luật Quản lý thuế.
- Nợ khó thu: Là các trường hợp nợ thuế sau đây:
11
Là tiền thuế nợ của những người nộp thuế mà pháp luật coi là đã chết,
mất tích, mất năng lực hành vi dân sự chưa có hồ sơ đề nghị xóa nợ.
Là tiền thuế nợ có liên quan đến trách nhiệm hình sự: là số tiền thuế
nợ của người nộp thuế đang trong giai đoạn bị điều tra, khởi tố hình sự, đang
chờ bản án hoặc kết luận của cơ quan pháp luật, chưa thực hiện được nghĩa
vụ nộp thuế.
Là tiền thuế nợ của người nộp thuế không còn hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa điểm đăng ký kinh doanh hoặc có văn bản gửi đến cơ quan
thuế đề nghị chấm dứt hoạt động kinh doanh nhưng chưa hoàn thành nghĩa vụ
nộp thuế, cơ quan thuế đã kiểm tra, xác định người nộp thuế không còn hoạt
động kinh doanh, bao gồm cả trưởng hợp giải thể không theo trình tự của
Luật Doanh nghiệp.
Là tiền thuế nợ của người nộp thuế đã giải thể: là số tiền thuế nợ người
nộp thuế đã thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp nhưng chưa thanh
toán đầy đủ các khoản nợ thuế theo quy định của pháp luật.
Là tiền thuế nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản: là số tiền
thuế nợ của người nợ thuế đã có quyết định phá sản doanh nghiệp hoặc đang
trong thời gian làm thủ tục phá sản doanh nghiệp nhưng chưa làm các thủ tục
xử lý nợ theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, nợ khó thu còn là những khoản nợ trên 90 ngày mà cơ quan
thuế đã áp dụng đến biện pháp cưỡng chế nợ thuế cuối cùng là thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động, giấy
phép hành nghề,... nhưng vẫn không thu hồi được tiền thuế nợ.
Trong các khoản nợ khó thu còn có loại nợ thuế của những đối tượng
thực tế không còn tồn tại nhưng không làm các thủ tục chấm dứt hoạt động và
quyết toán thuế đối với cơ quan thuế như khoản nợ thuế của các doanh nghiệp
bỏ trốn. Hầu hết đây là các trường hợp cố tình nợ để trốn thuế. Việc truy tìm
12
và xử lý theo pháp luật các trường hợp này gặp rất nhiều khó khăn. Do đó,
khoản nợ thuế của những đối tượng này không chỉ dừng lại ở mức khó thu mà
có thể nói là rất khó thu. Xét về lý thuyết thì nó là nợ khó thu, còn trong thực
tế quản lý có thể xếp vào nhóm không thể thu hồi, vì trên thực tế có thể các cơ
quan pháp luật có thể truy bắt được thủ phạm nhưng họ không có tài sản để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thuế đã nợ.
- Nợ chờ xử lý: là khoản nợ thuế xác định chưa thật chính xác, cần điều
chỉnh lại hoặc nợ thuế đang có khiếu nại, đang thuộc diện xét miễn, giảm
thuế. Cụ thể bao gồm các nhóm sau:
+ Nợ đang chờ điều chỉnh: là số tiền nợ thuế do có sai sót của người
nộp thuế hoặc cơ quan thuế khi kê khai thuế, tính thuế, đang là thủ tục để điều
chỉnh lại hoặc do tạm tính số thuế phải nộp cao hơn số phát sinh, tức là số tiền
nợ do người nộp thuế đã kê khai số thuế tạm nộp hàng kỳ theo quy định
nhưng thực tế thuế phát sinh phải nộp thấp hơn so với số thuế đã kê khai tạm
nộp, đang làm thủ tục để điều chỉnh lại. Ngoài ra, trong nhóm này còn có số
tiền nợ do chứng từ luân chuyển chậm hoặc thất lạc tiền thuế đã nộp vào tài
khoản thu Ngân sách Nhà nước nhưng do chứng từ luân chuyển chưa kịp thời
hoặc thất lạc nên trên sổ thuế vẫn ghi nợ. Bên cạnh đó còn có nợ chờ điều
chỉnh do khiếu nại, tức là số tiền nợ thuế phát sinh do cơ quan thuế xác định
lại số thuế phải nộp hoặc ấn định tiền thuế phải nộp trong trường hợp người
nộp thuế vi phạm các quy định về thuế, phải ấn định thuế; phát hiện qua thanh
tra, kiểm tra bị truy thu, truy hoàn, bị xử phạt hoặc các trường hợp khác
nhưng người nộp thuế chưa được chấp nhận, có khiếu nại và đang trong giai
đoạn chờ giải quyết khiếu nại.
+ Nợ đang xử lý miễn, giảm, xóa nợ: là số tiền nợ thuế của người nợ
thuế đang trong thời gian làm các thủ tục tại cơ quan thuế để được xử lý miễn,
giảm, xóa nợ theo quy định của pháp luật (bao gồm cả các trường hợp đang
13
làm thủ tục xử lý miễn, giảm áp dụng các điều khoản miễn, giảm theo các
hiệp định tránh đánh thuế hai lần); cá nhân được cơ quan pháp luật coi là đã
chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự mà không còn tài sản để nộp thuế,
tiền phạt còn nợ; nợ của người nợ thuế bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các
khoản thanh toán theo quy định của luật phá sản mà không còn tài sản để nộp
tiền thuế, tiền phạt. Khi người nộp thuế đang có nợ thuế do đến kỳ phải thực
hiện kê khai thuế đúng hạn nhưng theo quy định của pháp luật về thuế, họ sẽ
được miễn, giảm hoặc được xử lý cho ghi thu, ghi chi và đang làm thủ tục thì
tạm thời đưa vào nhóm nợ chờ xử lý này để theo dõi chứ không áp dụng các
biện pháp để cưỡng chế thu nợ.
+ Nợ trong quá trình tranh chấp thuế: theo các quy định tại các văn bản
quy phạm pháp luật về thuế và xử lý khiếu nại tổ cáo thì trong quá trình khiếu
nại, khi các cơ quan có thẩm quyền chưa ra quyết định xử lý, người nộp thuế
vẫn phải nộp các khoản thuế vào Ngân sách Nhà nước. Do đó, phát sinh thêm
khoản nợ chờ xử lý do khiếu nại của người nộp thuế, xử lý thoái trả tiền thuế.
Khi có quyết định chính thức của cơ quan có thẩm quyền thì nợ này được đưa
vào một trong hai nhóm nợ có khả năng thu hoặc nợ không có khả năng thu.
+ Nợ đang được gia hạn nợ, khoanh nợ, giãn nợ: là số tiền thuế của đối
tượng nộp thuế đã được xử lý cho gia hạn nợ, khoanh nợ, giãn nợ theo quy
định của pháp luật.
+ Nợ chờ xử lý bù trừ với tiền hoàn thuế: là số tiền nợ thuế của người
nợ thuế có hồ sơ đang làm thủ tục hoàn thuế tại cơ quan thuế tương ứng với
số tiền thuế đề nghị hoàn thuế theo quy định.
*Căn cứ vào loại chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế
Nợ thuế có thể được phân chia cụ thể thành các nhóm đối tượng theo
tính chất sở hữu, loại hình hoặc đặc điểm tổ chức sản xuất, kinh doanh,… thì
nợ thuế có thể phân chia thành các nhóm sau:
14
- Xem thêm -